1. Lý do chọn đề tài:
Ngay từ thủa bình minh của lịch sử, ở bất cứ cộng đồng người nào cũng hình thành việc giáo dục. Xã hội tồn tại thì tồn tại sự giáo dục; giáo dục là vĩnh hằng. Giáo dục là nền tảng văn hóa, nhân tố sinh thành truyền thống văn hóa. Thông qua giáo dục mà tri thức được tái tạo, sáng tạo và phát triển. Giáo dục là nền móng của sự phát triển khoa học kĩ thuật và đem lại sự phát triển thịnh vượng cho nền kinh tế quốc dân. Con người vừa là đối tượng vừa là chủ thể của hoạt động giáo dục.
Có thể nói lịch sử phát triển của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thấy rằng: giáo dục và đào tạo có vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
32 trang |
Chia sẻ: lephuong6688 | Lượt xem: 594 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh ở trường THPT Trần Hưng Đạo, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Trang
Phần mở đầu
2
1. Lý do chọn đề tài
2
2. Mục đích nghiên cứu
4
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
5
4. Đối tượng nghiên cứu
5
5. Phương pháp nghiên cứu
5
Phần nội dung
6
I. Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của việc quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh trong trường THPT
6
1.1. Một số cơ sở lý luận của việc chỉ đạo
6
1.2. Một số cơ sở pháp lý của việc chỉ đạo
10
II. Thực trạng về công tác quản lý và chất lượng giáo dục đạo đức học sinh trường THPT Trần Hưng Đạo, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay
13
2.1. Một số nét về trường THPT Trần Hưng Đạo, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình
13
2.2. Những thành tích đạt được trong quản lý, chỉ đạo giáo dục đạo đức học sinh
15
2.3. Những hạn chế trong công tác giáo dục đạo đức học sinh
16
2.4. Một số vấn đề đặt ra trong quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh ở trường THPT Trần Hưng Đạo, Lệ Thủy, Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay5
17
III. Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh ở trường THPT Trần Hưng Đạo, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình
18
3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của chi bộ Đảng trong trường học
18
3.2. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của đội ngũ giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục
18
3.3. Phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam
22
3.4. Đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thống
24
3.5. Phát huy hoạt động tự quản của tập thể học sinh
25
3.6. Kết hợp giữa nhà trường - gia đình - xã hội để giáo dục đạo đức học sinh
26
Phần kết luận và kiến nghị
29
Phần tài liệu tham khảo
32
phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:
Ngay từ thủa bình minh của lịch sử, ở bất cứ cộng đồng người nào cũng hình thành việc giáo dục. Xã hội tồn tại thì tồn tại sự giáo dục; giáo dục là vĩnh hằng. Giáo dục là nền tảng văn hóa, nhân tố sinh thành truyền thống văn hóa. Thông qua giáo dục mà tri thức được tái tạo, sáng tạo và phát triển. Giáo dục là nền móng của sự phát triển khoa học kĩ thuật và đem lại sự phát triển thịnh vượng cho nền kinh tế quốc dân. Con người vừa là đối tượng vừa là chủ thể của hoạt động giáo dục.
Có thể nói lịch sử phát triển của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thấy rằng: giáo dục và đào tạo có vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Thời Lê Sơ, vua Lê Thánh Tông (1442-1497) đã cho khắc vào văn bia Quốc Tử Giám rằng: Hiền tài là nguyên khí quốc gia
Nguyên khí mạnh thì thế nước cường
Nguyên khí yếu thì thế nước suy...
ở nước ta hiện nay, đang diễn ra công cuộc đổi mới sâu sắc trong phạm vi toàn xã hội, trong xu thế hội nhập, sự nghiệp giáo dục đang được coi trọng là "Quốc sách hàng đầu" (Nghị quyết Đại hội Đảng khoá VIII). Công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức cho học sinh phổ thông cần được cải tiến và đẩy mạnh, góp phần tích cực vào sự nghiệp giáo dục toàn diện, hài hoà, đáp ứng yêu cầu mới của xã hội.
Trong văn kiện Hội ghị lần 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII khẳng định rằng: "Muốn tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững, để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Phát triển nguồn lực con người là phát triển đức và tài"
Đương thời Hồ Chủ Tịch luôn quan tâm đến giáo dục lý tưởng, đạo đức cho thế hệ trẻ. Trong di chúc của Người về giáo dục thanh niên Bác chỉ rõ: "Bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho đời sau là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết", và "thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong không ngại khó khăn, có chí tiến thủ, Đảng cần bồi dưỡng họ thành những người kế tục sự nghiệp cách mạng vừa hồng vừa chuyên".
Con người ở thời đại nào, ở xã hội nào cũng là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, con người là động lực của mọi sự phát triển xã hội. Con người càng có nhân cách cao đẹp thì sự tác động của con người đến xã hội đó càng to lớn. Do đó không thể xem nhẹ vai trò của giáo dục trong sự phát triển của xã hội. Trong các mặt Đức, Trí, Thể, Mỹ của giáo dục, giáo dục Đạo đức bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu "Được xem là nền tảng, gốc rễ để tạo ra nội lực tiềm tàng vững chắc cho các mặt giáo dục khác".
Trong điều kiện đời sống hiện nay, xã hội có những bước chuyển biến không ngừng, sâu rộng và to lớn về mọi mặt. Tuy nhiên cái gì cũng có mặt trái của nó, mặt trái của cơ chế thị trường đang tác động rất mạnh đến tư rưởng và lối sống của một bộ dân cư, trong đó số lượng thanh niên, thiếu niên là rất lớn, các tệ nạn xã hội đang xâm nhập vào các trường học. Vấn đề đặt ra là giáo dục thế hệ trẻ một cách toàn diện, đặc biệt là tăng cường giáo dục lý tưởng, đạo đức, giáo dục những giá trị nhân văn, giá trị đạo đức để thực hiện nhiệm vụ. Trong văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 khoá VIII đã nêu rõ: "Xây dựng những con người và thế hệ trẻ thiết tha, gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Qua những năm thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, chúng ta đã đạt được nhiều những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội, tuy vậy về mặt tư tưởng, đạo đức có phần bị giảm sút. Đặc biệt là thế hệ trẻ, một số bộ phận thanh niên, thiếu niên, học sinh, sinh viên sống không có lý tưởng, không có mục đích, sống chạy theo các nhu cầu tầm thường, ngại cống hiến, ngại khó khăn, sống thích hưởng thụ, sống không có niềm tin, hoang mang, sống buông thả. Đánh giá thực trạng này, trong văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng 2 khóa VIII nhấn mạnh: "Đặc biệt đáng lo ngại là trong một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai bản thân và đất nước".
Trước tình hình và thực trạng này trong những năm qua đã được các cấp các ngành, đăc biệt là những người làm giáo dục quan tâm, đầu tư giáo dục toàn diện, nhưng vấn đề giáo dục lý tưởng đạo đức có những lúc, những nơi nào đó còn bị xem nhẹ, chưa được đầu tư .
Đối với trường THPT Trần Hưng Đạo, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong những năm gần đây có nhiều khởi sắc, đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ trong giáo dục toàn diện đó là nhờ vào kết quả của giáo dục kỷ cương, nề nếp đặc biệt là giáo dục đạo đức cho học sinh. Bản thân là một cán bộ Đoàn, tôi tự thấy vai trò giáo dục đạo đức, lý tưởng,hoài bão cho học sinh luôn luôn phải được coi trọng và có nhiều giải pháp thích hợp từ đó làm nền tảng cho giáo dục toàn diện ở trường THPT nói chung và trường THPT Trần Hưng Đạo nói riêng.
Xuất phát từ những lý do khách quan và lý do chủ quan như đã phân tích ở trên, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: " Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh ở trường THPT Trần Hưng Đạo, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay ".
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về tình hình đạo đức, nếp sống văn hóa của học sinh THPT nói chung và học sinh trường THPT Trần Hưng Đạo, Lệ Thủy, Quảng Bình nói riêng, chúng tôi đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức nhà trường trong điều kiện đổi mới giáo dục hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1 Xác định cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh trong trường THPT Trần Hưng Đạo, Lệ Thủy, Quảng Bình.
3.2 Phân tích, đánh giá thực trạng đạo đức học sinh ở trường THPT Trần Hưng Đạo, Lệ Thủy, Quảng Bình.
3.3 Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh ở trường THPT Trần Hưng Đạo, Lệ Thủy, Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu:
4.1 Nghiên cứu thực tế đối tượng học sinh của trường THPT Trần Hưng Đạo, Lệ Thủy, Quảng Bình.
4.2 Từ thực trạng, nghiên cứu những biện quản lý đạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh ở trường THPT Trần Hưng Đạo, Lệ Thủy, Quảng Bình.
5. Phương pháp nghiên cứu:
5.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Văn kiện Đại hội và các nghị quyết TW Đảng; Văn bản quy phạm pháp luật; Tài liệu và giáo trình của Học viện quản lý giáo dục...
5.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, trao đổi, thống kê số liệu, phiếu điều tra, ý kiến nhà giáo lão thành, đồng nghiệp và học sinh.
5.3 Nhóm phương pháp bổ trợ: Bảng biểu, tham quan, thực tế...phần nội dung
i. Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của việc quản lý
giáo dục đạo đức học sinh trong trường THPT
1.1 Một số cơ sở lý luận của việc quản lý giáo dục đạo đức học sinh trong trường THPT.
Xét về góc độ tâm lý lứa tuổi:
Theo tổ chức Y tế thế giới WHO, độ tuổi vị thành niên có từ 10 đến 19 tuổi, ở Việt Nam quy định độ tuổi vị thành niên từ 10 đến 18 tuổi. Theo điều tra tỷ lệ tuổi vị thành niên ở nước ta năm 2005 chiếm 22% dân số, trong đó 89% đang theo học phổ thông. Như vậy học sinh THPT là lớp cuối tuổi vị thành niên, giai đoạn này các em phát triển mạnh về thể chất, sinh lý. Là thời kỳ chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn, các em luôn có xu hướng tự khẳng định mình, có ý thức vươn lên làm chủ bản thân. ở giai đoạn phát triển này sự chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của người lớn làm các em cảm thấy rất khó chịu, bực bội và rất dễ nổi nóng. Trong lứa tuổi này các em muốn tìm tòi, phát hiện khám phá, tìm hiểu những điều chưa biết của cuộc sống, các em muốn có quyền tự quyết định trong các công việc và việc làm của mình và muốn không bị sự ràng buộc của gia đình, bố mẹ và người lớn tuổi.
Xét về góc độ xã hội:
ở lứa tuổi này sự giao tiếp với bạn bè là một nhu cầu rất lớn. Các em có xu hướng tụ tập thành từng nhóm có cùng sở thích, phù hợp với tình tình để vui chơi, đùa nghịch, có những lúc, những nơi các em có các hành động không đúng, không phù hợp với lứa tuổi của mình. Trong gia đoạn này quá trình phát triển sinh lý ảnh hưởng đến rất nhiều tính cách của các em: các em rất dễ bị xúc động khi có một tác động nào đó, bản thân các em dễ bị lôi kéo, kích động, lòng kiên trì và khả năng tự kiềm chế yếu. ở lứa tuổi này tính tình không ổn định, dễ nổi cáu, khi thì quá sôi nổi nhiệt tình nhưng có trở ngại lại dễ buông xuôi, chán nản. Đối với các em ở lứa tuổi này, cái gì cũng dễ dàng, đơn giản, các em luôn ở trạng thái hiếu thắng hoặc tự ti vì thế dễ dàng đi đến những hành động thiếu suy nghĩ chín chắn, nhiều lúc vi phạm mà vẫn không biết...
Chính vì vậy, các thầy cô giáo, các bậc phụ huynh và mọi tổ chức trong xã hội phải có trách nhiệm quan tâm sát sao, động viên kịp thời để hướng các em có những suy nghĩ và hành động đúng. Để quản lý và chỉ đạo tốt quá trình giáo dục đạo đức trong trường THPT, người cán bộ quản lý cần nắm vững vấn đề cụ thể như sau:
1.1.1. Đạo đức
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm đạo đức. Tuy nhiên có thể hiểu khái niệm này dưới 2 góc độ.
a. Góc độ xã hội:
Đạo đức là một hình thái xã hội đặc biệt được phản ánh dưới dạng nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực điều chỉnh (hoặc chi phối) hành vi của con người trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa con người với xã hội, giữa con người với nhau và với chính bản thân mình.
b. Góc độ cá nhân:
Đạo đức chính là những sản phẩm, nhân cách của con người, phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng xử của họ trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, giữa bản thân họ với người khác và với chính bản thân mình.
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển đạo đức của cá nhân, của con người là quá trình tác động qua lại giữa xã hội và cá nhân để chuyển hoá những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực, giá trị đạo đức - xã hội thành những phẩm chất đạo đức cá nhân, làm cho cá nhân đó trưởng thành về mặt đạo đức công dân và đáp ứng các yêu cầu của xã hội.
1.1.3. Quá trình giáo dục đạo đức là một hoạt động có tổ chức, có mục đích, có kế hoạch nhằm biến những nhu cầu, chuẩn mực, giá trị đạo đức theo yêu cầu của xã hội thành những phẩm chất, giá trị đạo đức của cá nhân, nhằm góp phần phát triển nhân cách của mỗi cá nhân và thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của xã hội.
1.1.4. Các đặc điểm của quá trình giáo dục đạo đức
- Có sự gắn kết chặt chẽ với quá trình dạy học trên lớp và dạy học giáo dục ngoài giờ lên lớp.
- Có định hướng thống nhất các yêu cầu, mục đích giáo dục giữa các tổ chức giáo dục trong và ngoài nhà trường.
- Tính biện chứng, phức tạp trong quá trình phát triển, biến đổi về nhân cách của học sinh về mặt đạo đức.
- Tính lâu dài của quá trình hình thành, phát triển các phẩm chất đạo đức.
- Tính đột biến và khả năng tự biến đổi.
- Phát triển thông qua hoạt động và giao lưu tập thể.
- Tính cá thể hoá cao.
- Chứa nhiều mâu thuẫn.
- Có sự tương tác hai chiều giữa nhà giáo dục và đối tượng được giáo dục.
- Tính khó khăn trong việc đánh giá kết quả, sự phát triển đạo đức của cá nhân.
1.1.5. Chức năng, nhiệm vụ của quá trình giáo dục đạo đức
- Quá trình giáo dục đạo đức là một bộ phận cấu thành quá trình giáo dục trong trường THPT, tạo ra nhịp cầu gắn kết giữa nhà trường với xã hội, giữa con người với cuộc sống.
- Giáo dục đạo đức được xem là nền tảng, gốc rễ tạo ra nội lực tiềm năng vững chắc cho các mặt giáo dục khác.
- Giáo dục đạo đức phải làm cho học sinh thấm nhuần sâu sắc thế giới quan Mác - Lênin, tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh, tính chân lý khách quan của các giá trị đạo đức, nhân văn, nhân bản của các tư tưởng, coi đó là kim chỉ nam cho hành động của mình.
- Giáo dục đạo đức phải thấm nhuần các chủ trương, chính sách của Đảng, biết sống và làm việc theo pháp luật, sống có kỷ cương nền nếp, có văn hoá trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội và giữa con người với con người.
- Trên cơ sở thông qua việc tiếp cận với cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc và hoạt động của cá nhân để củng cố niềm tin và lẽ sống, lý tưởng sống, lối sống theo con đường CNXH.
- Giáo dục đạo đức phải làm cho nhận thức ngày càng sâu sắc nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực và các giá trị đạo đức xã hội XHCN. Biến các giá trị đó thành ý thức, tình cảm, hành vi, thói quen và cách ứng xử trong đời sống hàng ngày.
- Quá trình giáo dục đạo đức cần phải theo đặc điểm của từng loại đối tượng trong giáo dục.
- Quá trình giáo dục đạo đức có nhiệm vụ: Phát triển nhu cầu đạo đức cá nhân; hình thành và phát triển ý thức đạo đức; rèn luyện ý chí, hành vi, hình thành thói quen ứng xử đạo đức; phát triển các giá trị đạo đức cá nhân theo những định hướng giá trị mang tính đặc thù dân tộc và thời đại.
- Quá trình giáo dục đạo đức không chỉ định hướng cho các hoạt động giáo dục đạo đức mà còn định hướng cho hoạt động dạy học nói chung, dạy môn học đạo đức nói riêng (môn GDCD, một số môn học khác).Với tư cách là người quản lý giáo dục, trước hết cần phải hiểu biết một cách sâu sắc những vấn đề chung của quá trình giáo dục đạo đức. Từ đó mới có những định hướng, mục tiêu sát thực, xây dựng được những chương trình, kế hoạch khả thi và có những biện pháp quản lý, tổ chức chỉ đạo thích hợp để nâng cao chất lượng và hiệu quả của quản lý giáo dục nói chung, quá trình quản lý giáo dục đạo đức nói riêng.
1.1.6. Nội dung giáo dục đạo đức
Trong giai đoạn hiện nay, ở nước ta đang diễn ra công cuộc đổi mới sâu sắc trong phạm vi toàn xã hội. Sự nghiệp giáo dục đang được coi trọng, là "Quốc sách hàng đầu". Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cho học sinh cần được coi trọng và đặt lên vị trí hàng đầu.
Giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức cần phải tăng cường giáo dục thế giới quan khoa học. Trên cơ sở tăng cường thế giới quan khoa học cần tăng cường giáo dục tư tưởng cách mạng XHCN cho học sinh. Qua giáo dục đạo đức phải nâng cao lòng yêu nước, tăng cường ý thức lao động và tự lao động (động cơ, thái độ đúng đắn, chăm chỉ, nỗ lực vươn lên làm chủ khoa học...). Bên cạnh đó cũng phải đồng thời tăng cường giáo dục pháp luật, giáo dục lòng thương yêu con người và hành vi ứng xử có văn hoá (ăn nói cục cằn, thô lỗ, thiếu văn hoá, thiếu tôn trọng người khác... biết ứng xử lễ phép tế nhị, lịch sự...)
Trong nhà trường phổ thông, các phẩm chất đạo đức cần trau dồi cho học sinh một cách liên tục, khoa học, hợp lý, và được phân thành từng nhóm theo từng quan hệ xã hội: quan hệ cá nhân với xã hội, cộng đồng (trung thành với lý tưởng CNXH và CNCS, yêu nước XHCN, yêu hoà bình, tự hào dân tộc, tin yêu Đảng và kính yêu Bác Hồ...); quan hệ cá nhân với lao động (chăm chỉ học tập, say mê khoa học kỹ thuật, quý trọng lao động...); quan hệ cá nhân với bản thân, với người khác (như ruột thịt, bạn bè, đồng chí...); đồng thời cũng phải giáo dục đạo đức gia đình, quan hệ bạn bè, tình yêu...
1.2. Một số cơ sở pháp lý của việc quản lý giáo dục đạo đức học sinh trong trường THPT
Trong văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII đã nêu rõ: "Nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, CNH-HĐH đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có tính tổ chức kỷ luật cao là những con người kế thừa và xây dựng CNXH vừa hồng vừa chuyên".
Quan điểm của Đảng về phát triển giáo dục trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 đã khẳng định: "Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức, có tri thức, có sức khoẻ và thẩm mỹ... góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Chương I, điều 2 của Luật Giáo dục năm 2005 nêu rõ: "Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Trong chương II, mục 2, điều 27, khoản 1 Luật Giáo dục năm 2005 cũng khẳng định: " Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Giáo dục đạo đức học sinh phải được tiến hành bằng nhiều biện pháp, có mục tiêu phù hợp. Phải được xây dựng nội dung, kế hoạch cụ thể và được làm thường xuyên liên tục, phải có hệ thống mới đạt kết quả cao.
Giáo dục đạo đức cho học sinh phải được tiến hành bằng nhiều hình thức phong phú, linh hoạt, phù hợp với lứa tuổi học sinh. Thông qua các hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường. Đồng thời phải biết kết hợp giáo dục giữa nhà trường - gia đình - xã hội để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Huy động mọi nguồn lực, mọi sự hỗ trợ của tất cả các tổ chức, các cơ quan ban ngành, các đoàn thể cùng phối hợp để thực hiện tốt xã hội hoá giáo dục, góp phần nâng cao phẩm chất đạo đức, chất lượng giáo dục cho học sinh.
ii. Thực trạng về công tác quản lý và chất lượng giáo dục đạo đức học sinh trường THPT Trần Hưng Đạo, huyện
Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay
2.1. Một vài nét về trường THPT Trần Hưng Đạo, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình
Huyện Lệ Thủy nằm về cực Nam của tỉnh Quảng Bình, là lãnh thổ mang đặc trưng của dải đất miền Trung, phía Đông giáp biển, tiếp theo là dãi đồng bằng nhỏ hẹp, tiếp giáp đồi-núi và phía Tây là dãi Trường Sơn giáp Lào. Nền kinh tế hỗn hợp Nông-Lâm-Ngư tùy thuộc vị trí lãnh thổ nhưng nhìn chung thu nhập và đời sống của người dân còn thấp. Trong những năm gần đây huyện Lệ Thủy được nhà nước đầu tư phát triển nhiều, nhất là giao thông, thủy lợi nên kinh tế huyện nhà và đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện.
Trường THPT Trần Hưng Đạo nằm ở trung tâm các xã phía trước, là khu vực kinh tế chậm phát triển của huyện Lệ Thủy. Trường đóng trên địa bàn xã Hưng Thủy, bên cạnh quốc lộ 1A, là một trong những đầu mối giao thông-kinh tế quan trọng của huyện và các xã lân cận, đồng thời cũng là một “điểm nóng” về các tệ nạn xã hội.
Trường THPT Trần Hưng Đạo được thành lập từ tháng 8 năm 2001 trên cơ sở chia tách trường phổ thông cấp 2+3 Tân Thủy. Địa bàn thu hút học sinh của trường rất rộng, gồm 7 xã trong khu vực và một bộ phận học sinh của 6 xã phụ cận.
Trong những năm đầu mới thành lập trường, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên chất lượng giáo dục của trường còn thấp so với nhu cầu xã hội và địa phương, chỉ xếp ở mức trung bình. Từ năm học 2004-2005 nhà trường có sự thay đổi về cán bộ quản lý, đội ngũ giáo viên cũng như cơ sở vật chất nên chất lượng giáo dục của nhà trường phát triển rõ rệt về mọi mặt.
Hiện nay quy mô nhà trường có 32 lớp, trong đó có 30 lớp công lập và 2 lớp bán công. Đội ngũ cán, bộ giáo viên gồm 69 đồng chí đều đạt chuẩn. Cơ cấu tổ chức của nhà trường như sau:
- Chi bộ gồm 26 đảng viên, nữ: 8 đ/c
- Ban giám hiệu gồm 3 đ/c được phân công nhiệm vụ cụ thể (Hiệu trưởng phụ trách chung, phụ trách tài chính... ; phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn, phụ trách hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp... ;phó hiệu trưởng phụ trách cơ sở vật chất và công tác thi đua...)
- Tổ chức Công đoàn có 7 đ/c trong ban chấp hành đựơc phân công phụ trách về các mặt như đời sống, nội trú, nữ công ...
Tổ chức Đoàn thanh niên có 33 chi đoàn trong đó 32 chi đoàn học sinh và 1 chi đoàn giáo viên gồm 45 đ/c.
Thuận lợi:
Trường mới thành lập, lại đóng trên địa bàn các xã nghèo nên được tỉnh-huyện quan tâm đầu tư.
Nằm trên đầu mối giao thông nên khả năng giao lưu văn hóa thuận lợi.
Có truyền thống lịch sử vẻ vang: Miếu Thần Hoàng, nơi thành lập chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh; Quê hương đại tướng Võ Nguyên Giáp; Anh hùng Lâm úy; Tất cả các địa phương đều là anh hùng lực lượng vũ trang trong các cuộc kháng chiến...
Học sinh có truyền thống cần cù, hiếu học...
Đội ngũ giáo viên trẻ, có năng lực, đoàn kết, nhiệt tình trong công tác.
Lãnh đạo nhà trường có năng lực, có tầm nhìn chiến lược và đoàn kết trong công việc.
Phụ huynh học sinh tích cực, nhiệt tình ủng hộ các hoạt động của nhà trường.
Khó khăn:
Cơ sở vật chất còn thiếu ảnh hưởng xấu đến giáo dục học sinh.
Môi trường xã hội nói chung và khu vực nói riêng ảnh hưởng xấu trực tiếp đến đạo đức lối sống của một bộ phận khá đông học sinh.
Mặt bằng dân trí thấp, kinh tế khó khăn, hơn nữa một bộ phận khá đông học sinh ở xa trường.
Đội ngũ giáo viên phần lớn là trẻ, còn thiếu kinh nghiệm trong giáo dục học sinh.
Chất lượng đầu vào của trường kém xa các trường trong huyện.
2.2. Những thành tích đạt được trong quản lý, chỉ đạo giáo dục đạo đức học sinh
Nhà trường đã có sự quan tâm đúng mức đến việc xây dựng môi trường sư phạm “xanh, sạch, đẹp”, quan tâm xây dựng kỷ cương, nền nếp trường lớp.
Ban giám hiệu thống nhất mục tiêu, nội dung, biện pháp trong giáo dục đạo đức. Xây dựng kế hoạch phối hợp đồng bộ các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường, các lực lượng xã hội tham gia giáo dục đạo đức cho học sinh. Tập thể cán bộ, giáo viên thật sự đoàn kết, đồng thuận, nhiệt tình và yêu thương học sinh.
Nhà trường kết hợp với Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội cha mẹ học sinh... tổ chức các hoạt động ngoại khóa, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp... góp phần giáo dục đạo đức học sinh.
Hiệu trưởng chỉ đạo giáo viên chú trọng giáo dục đạo đức học sinh thông qua các tiết dạy chính khóa. Nhờ đó chất lượng giáo dục đạo đức học sinh chuyển biến rõ rệt.
Trong nhiều năm liền, trường luôn được UBND huyện tặng bằng khen về công tác an ninh trường học. Trường không có học sinh vi phạm các tệ nạn xã hội. Tình trạng học sinh vi phạm đạo đức được hạn chế và kiểm soát tốt.
Kết quả giáo dục đạo đức trong 3 năm gần đây
Năm học
Số học sinh
Kết quả hạnh kiểm
Tốt
Khá
TB
Yếu
Kém
Kỷ luật
Đuổi học
2004-2005
1376
35,2%
46,5%
15,5%
2,8%
0
5
4
2005-2006
1425
41,5%
39,8%
16,2%
2,5%
0
3
2
2006-2007
1472
47,6%
38,4%
11,7%
2,3%
0
3
1
Để đạt được kết quả trên là nhờ sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ quản lý, các tổ chức trong nhà trường, đặc biệt là tập thể hội đồng sư phạm nhà trường. Tuy vậy đội ngũ quản lý cần phải có gắng tìm giải pháp tốt hơn nữa để đưa nhà trường phát triển hơn nữa, đáp ứng được nhu cầu của xã hội và của địa phương.
2.3. Những hạn chế trong công tác giáo dục đạo đức học sinh
Qua những năm công tác tại trường, tôi nhận thấy do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan mà chất lượng giáo dục chưa cao là kỷ cương nền nếp của giáo viên, học sinh chưa thực sự được đưa lên hàng đầu, còn thiếu những giải pháp cụ thể trong việc nâng chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh .
Cụ thể ở học sinh còn có những biểu hiện sa sút về mặt đạo đức như sau:
- Một số em chưa xác định được mục tiêu học để làm cái gì? học những gì? có
File đính kèm:
- Tai lieu quan trong.doc