Mặc dù Mị phản ứng quyết liệt, Mị ko chấp nhận vào nhà thống lí
Pá Tra thế nhưng Mị đang sống trong xã hội tiền quyền và thần
quyền. Đó là xã hội phong kiến ở miền xuôi thế nên những người
hiền lành nết na như Mị ko thoát đc. Mị bị bắt cóc, bị lường gạt về
cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra chỉ đợi ngày chết rũ xương ở đó.
Biết được điều này “có đến mất tháng trời đêm nào Mị cũng khóc”.
Mị ko chấp nhận cuộc sống ở nhà thống lí Pá Tra, ý định tự tử đã
đến với Mị. Mị cầm nắm lá ngón trên tay về lạy chào cha để định
quyên sinh. Nhưng khi về đến gia đình, Mị mới nhìn thấy rõ bi
kịch gia đình mình, bố Mị nói như van xin trong làn nước mắt:
“Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nợ tao vẫn
còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày mà chết rồi ko lấy ai làm nương
ngô giả đc nợ người ta. Tao thì ốm yếu quá rồi. Ko đc, con ơi!”
11 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 1531 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số dàn ý bài văn nghị luận hay 2011 – Phần 3, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 SỐ DÀN Ý BÀI VĂN NGHỊ LUẬN
HAY 2011 – PHẦN 3
b. Mị toan tự tử:
Mặc dù Mị phản ứng quyết liệt, Mị ko chấp nhận vào nhà thống lí
Pá Tra thế nhưng Mị đang sống trong xã hội tiền quyền và thần
quyền. Đó là xã hội phong kiến ở miền xuôi thế nên những người
hiền lành nết na như Mị ko thoát đc. Mị bị bắt cóc, bị lường gạt về
cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra chỉ đợi ngày chết rũ xương ở đó.
Biết được điều này “có đến mất tháng trời đêm nào Mị cũng khóc”.
Mị ko chấp nhận cuộc sống ở nhà thống lí Pá Tra, ý định tự tử đã
đến với Mị. Mị cầm nắm lá ngón trên tay về lạy chào cha để định
quyên sinh. Nhưng khi về đến gia đình, Mị mới nhìn thấy rõ bi
kịch gia đình mình, bố Mị nói như van xin trong làn nước mắt:
“Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nợ tao vẫn
còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày mà chết rồi ko lấy ai làm nương
ngô giả đc nợ người ta. Tao thì ốm yếu quá rồi. Ko đc, con ơi!”
Sau khi Mị nghe những lời nói như van xin của cha, cô đứng trước
1 hoàn cảnh éo le, oái oăm, cay cực. Mị sống ko muốn, Mị chết ko
xong. Tuy nhiên việc Mị đã đến ý định tự tử lại thể hiện sức sống
tiềm tàng, điều đó phải chăng là nghịch lý?
Mới nghe qua tưởng là nghịch lí nhưng ngẫm nghĩ lại trong hoàn
cảnh của Mị đó lại là 1 điều hợp lí sâu sắc bởi vì Mị muốn chết
như 1 con người còn hơn fải sống như 1 con vật. Mị muốn chết
ngay 1 lần để đc làm người còn hơn fải sống cs chết dần, chết mòn,
chết khô, chết héo, chết cả thể xác lẫn tâm hồn. Thế nhưng nếu làm
theo sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy mạnh mẽ trong lòng thì Mị
fải trà đạp lên chữ “hiếu”, Mị ko thể giày xéo lên tình phụ tử. Vì
chữ “hiếu” Mị đành vứt nắm lá ngón, gạt nước mắt quay trở lại nhà
thống lí. Nhà thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài chả khác nào thiên la
địa võng, dấn thân vào đó là dấn thân vào chỗ chết, vào địa ngục
trần gian. Biết đc điều này nhưng Mị vẫn chấp nhận vì thương cha.
Đọc đến đây ta nhớ đến bi kịch của Thuý Kiều hơn 200 năm trước
“bán mình chuộc cha”. Hôm nay bi kịch ấy lại đổ dồn lên đôi vai
gầy của người con gái Mèo nghèo khổ. Giữa những năm đó, miền
Bắc nước ta đang tiến lên CNXH nhưng ánh sáng của Đảng chưa
rọi tới cs của những người vùng cao. Là 1 chiến sĩ trên diễn đàn
văn chương, nói như HCM: “VH nghệ thuật là 1 mặt trận, anh chị
em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Tô Hoài thông qua “vợ chồng A
Phủ” đem ánh sáng của Đảng rọi lên kiếp đời thổ ti lang tảo ở bản
Mèo để “cứu đất cứu Mường”. Bđầu từ đây Mị sống khác hẳn, Mị
ko khóc như trước nữa. “Mị sống lầm lũi như con rùa nuôi trong
xó cửa”, như cái bóng, cái xác vô hồn trong địa ngục trần gian. Mị
sống chẳng qua là kéo dài những ngày chưa chết đc, điều này đã
được Tô Hoài thể hiện ngay ở mươi dòng đầu câu chuyện với
những câu văn đầy tính tạo hình. Nhà văn đã dựng lên trước mắt
chúng ta với sức sống tàn fai, mai một: “Ai ở xa về có việc vào nhà
thống lí Pá Tra…cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
c.Tất cả những gì tưởng đã chết trong lòng Mị thì bây giờ lại được
hồi sinh, hồi sinh 1 cách chóng vánh khi mùa xuân đến.
Phải nói rằng những trang viết về mùa xuân là những trang tuyệt
bút của nhà văn Tô Hoài. Ta bắt gặp ở 1 nhà văn hiện thực lại có
những trang văn lãn mạn. “Vợ chồng A Phủ” xứng đáng là 1 minh
chứng cho lời nhận định: “Văn học VN gđoạn 45-75 có sự kết hợp
hài hoà giữa 2 nhân tố hiện thực và lãn mạn”. Nhưng điều cta quan
tâm hơn cả là ngòi bút tâm lí của nhà văn Tô Hoài khi mô tả sự trỗi
dậy sức sống tiềm tàng của Mị. Ông tỏ ra am hiểu những tâm lí
phức tạp, âm thầm trong tâm hồn người fụ nữ:
Đầu tiên là sự thay đổi bên ngoài. Năm ấy mùa xuân về sớm hơn
mọi năm. Tô Hoài mô tả những làn gió đem mùa xuân về trên khắp
các bản làng. Những nương thuốc fiện đã nở hoa sặc sỡ, cả bản
Mèo đều cuốn vào không khí của ngày hội. Trên những bản của
người Mèo đó, trai gái đã mang váy áo ra fơi trên những mỏm đá
trông sặc sỡ như những cánh bướm. Ban ngày trai gái mặc quần áo
mới đến đánh quay, ném pao, tung còn,… Tất cả những hình ảnh
này đã dội vào tâm hồn Mị- 1 tâm hồn khô cằn, nó làm cho sức
sống của Mị bđầu có sự vận động, nó chẳng khác nào những nốt
nhạc đầu tiên của bản nhạc tình ca thay đổi lớn sắp diễn ra trong
lòng người đàn bà đã và đang fải chịu quá nhiều đau khổ.
Kế đó là tiếng sáo đêm tình mùa xuân. Trong không gian tiếng hát,
tiếng sáo, tiếng khèn lá, khèn môi của trai bản gọi bạn tình cứ réo
rắt nhau đi hết quả đồi này sang quả đồi khác. Nó đánh thức dậy
những bài hát lâu nay tiềm ẩn sâu trong tâm hồn Mị. Mị ngồi nhẩm
lại những bài hát ngày xưa. Ngày xưa, Mị thổi sáo thật tài, chỉ cần
uốn lá trên môi, cô thổi lá hay như thổi sáo:
“Anh ném pao
Em ko bắt
Em ko yêu
Quả pao rơi rồi”
Hay: “Mày có con trai, con gái rồi
Mày đi làm nương
Tao chưa có con trai, con gái
Tao đi tìm người yêu”
Nhưng điều đáng nói hơn cả là chính tiếng sáo ấy đã đánh thức dậy
2 tiếng “ngày xưa” từ trong lòng Mị. Kể từ ngày bước chân vào
nhà thống lí Pá Tra, Mị sống cđời phi ko gian, phi thời gian. Thế
giới của Mị là 1 căn buồng tăm tối, nhìn ra bên ngoài qua ô cửa mờ
mờ, trăng trắng, ko biết ngày hay đêm, sương hay nắng. Khi 1
người ko nhận thức đc ngày, đêm, sương, nắng nghĩa là ko nhận
thức đc ko gian và thời gian, cũng đồng nghĩa với sức sống của họ
đang tàn fai, mai một. Hnay thì khác, thời gian đã trở về với Mị,
thời gian ấy cho Mị thấy hiện tại quá khổ đau, quá khứ ngày xưa
mới là hp. Thế là Mị luôn hướng về ngày xưa, hướng về quá khứ,
muốn kéo dài quá khứ, muốn vớt vát quá khứ để bù đắp những cay
đắng trong hiện tại.
Mùa xuân năm ấy, khi sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy, nhà văn
Tô Hoài rất khéo léo khi đưa bất cứ 1 hình ảnh nào đến với Mị thì
hình ảnh ấy đều là chỗ dựa cho sức sống của Mị trỗi dậy. Nhất là
bữa cơm tất niên trong gđ nhà thồng lí Pá Tra với hình ảnh của
những người ốp đồng nhảy múa vui vẻ trong tiếng nhạc sinh tiền
càng làm cho lòng Mị trở nên rộn ràng, náo nức. Niềm rộn ràng,
náo nức ấy thực sự là nỗi thúc bách khi những người trong nhà
thống lí mặc váy áo mới đi chơi. Như vậy, sức sống tiềm tàng của
Mị đã trỗi dậy, nó trở thành đòi hỏi bên trong muốn cất cánh ra bên
ngoài. Rồi Mị lén lấy hũ rượu, Mị uống ừng ực từng bát, Mị uống
như nuốt những tủi hờn, cay đắng vào trong ***g ngực. Mị uống
như nuốt hiện tại khổ đau để trước mắt Mị giờ đây chỉ còn là quá
khứ hp. Thế là Mị đang sống lại ngày trước với quãng đời thiếu nữ
tự do, với hp trong mối tình đầu. Việc làm tiếp theo của Mị khi cô
bước vào căn buồng tăm tối ấy là Mị xắn 1 miếng mỡ để vào trong
đèn cho đèn sáng hơn. Đây ko còn là chi tiết sinh hoạt nữa mà nó
trở thành 1 chi tiết có chiều sâu nghệ thuật bởi trước đây ko thiết
sống nên căn buồng của Mị tăm tối, hôi hám, luộm thuộm, ẩm
thấp, bẩn thỉu… Mị cũng chẳng bận lòng. Hnay thì khác, lòng yêu
đời vừa mới trở về với Mị. Mị muốn đời mình fải sáng sủa hơn.
Thế nên hành động Mị xắn miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho đèn sáng
hơn cũng đồng nghĩa với việc Mị thắp lên ngọn lửa trong lòng
mình. Mị thấy mình trẻ đẹp, Mị muốn đi chơi hội như bao người
đàn bà có chồng khác ở Hồng Ngài. Mị chuẩn bị, sửa soạn đi chơi.
Mị tìm cái váy hoa đẹp nhất của mình vắt tít trên vách. Khi 1
người đàn bà khổ đau sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa,
như cái bóng, cái xác vô hồn giữa địa ngục trần gian bỗng 1 hôm
thấy mình trẻ ra, đẹp hơn, muốn ăn mặc đẹp, đó là dấu hiệu đầu
tiên của sự tái xuân. Đó là lúc sức sống tiềm tàng trỗi dậy mạnh mẽ
nhất trong lòng Mị. Thế nhưng sức sống ấy đã bị dập tắt ngay lập
tức, A Sử đã vùi dập nó 1 cách fũ fàng, hắn trói Mị = 1 thúng dây
đay từ chân lên đầu. Chưa bao giờ Mị lại cảm thấy nhục nhã như
thế, sự so sánh đã bắt đầu xuất hiện trong Mị, Mị thấy mình ko
bằng con trâu, con ngựa trong nhà thống lí Pá Tra, khi mỏi còn đc
đổi tàu, còn đc gãi chân, nhai cỏ, còn Mị khóc ko tự lau đc nước
mắt. Cơ chừng sau lúc ấy sức sống tiềm tàng của Mị tắt hẳn.
d. Sức sống tiềm tàng thêm 1 lần nữa trỗi dậy khi gặp A Phủ
Cuộc đời của Mị sẽ cứ như thế cho đến chết nếu như Tô Hoài ko
để cho Mị gặp đc 1 người. Người ấy đã tiếp cho Mị 1 sức mạnh vô
cùng để 1 lần nữa sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy để giải thoát
đời mình, giải thoát người cùng cảnh ngộ, đó là A Phủ. A Phủ bị
trói, bị bỏ đói hàng tuần lễ giữa những ngày mùa đông đầy sương
muối ở vùng cao. Đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa để hơ tay. Mị vẫn
nhìn thấy A Phủ nhưng có lẽ sống lâu trong địa ngục trần gian,
trong gia đình nhà thống lí mà việc đánh trói con người còn nhiều
hơn cơm bữa nên lòng thương người của cô Mị nết na đã bị chai
sạn, chai lì. Vẫn nhìn thấy A Phủ. Mị ko động lòng thương nhưng
hnay thì khác. Chợt nghe thấy tiếng thở phì phì của A Phủ, Mị bất
chợt nhìn sang và giật mình nhận thấy 1 chàng trai to khoẻ nhất
bản giờ đây đã bị đánh đến tiều tuỵ, mặt sám lại, má hõm sâu, 2
con mắt trũng sâu đầy bóng tối. Và đúng lúc đó, 2 hàng nước mắt
từ hai hố mắt lặng lẽ bò xuống hõm má. Mị cảm thấy ko thể đành
lòng, niềm thương cảm chợt dâng lên trong lòng Mị, Mị nhớ đến
mình ngày trước cũng bị trói, bị đánh như thế. Thương mình Mị lại
thương người, Mị ném ra câu nói như thế này trong bóng tối: “Ta
là thân đàn bà nó đã trình ma nhà nó chỉ đợi ngày chết rũ xương ở
đây, người kia việc gì fải chết…A Phủ”. Khi 1 người đàn bà khổ
đau, sống lầm lũi trong bóng tối bỗng 1 hôm ném ra câu hỏi như
thế, đó là khởi đầu của sự nổi loạn. Sức sống tiềm tàng đã trỗi dậy
thành sức mạnh, sức mạnh ấy đã biến 1 người đàn bà yếu đuối
thành 1 người can đảm, biến 1 người nhẫn nhục trở thành 1 người
fản kháng. Chưa bao giờ người đọc lại thấy Mị liều lĩnh như thế.
Nghĩ đến cái chết Mị cũng ko sợ nữa, ý định cứu A Phủ đã đến với
Mị trong khoảnh khắc Mị rút dao cắt dây trói cho A Phủ. Cho đến
vòng dây cuối cùng được cắt đứt, A Phủ quỵ người xuống rồi lại
quật người đứng dậy chạy băng băng vào trong bóng tối. Đến lúc
này đây, Mị vẫn chỉ nghĩ đến việc cứu A Phủ. Đến khi A Phủ chạy
xuống cái dốc, Mị nhìn lại thấy nguy cơ mình có thể bị chết thay
vào đó, ý định tự cứu mình đã đến với Mị, Mị nói: “A Phủ! Cho tôi
đi!”. Đây là 1 câu nói của lòng ham sống trong giờ fút nguy cấp để
giải thoát đời mình. Thế là 2 người nô lệ giải thoát cho nhau,
nương tựa vào nhau, trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa.
KB:
Việc Mị giải thoát cho A Phủ có thể coi như 1 chiếc bản lề khép
mở 2 thế giới. Nó khép lại TG tăm tối với kiếp sống trâu ngựa, nô
lệ ở Hồng Ngài, đồng thời nó mở ra TG mới- TG tươi sáng ở phía
Phiềng Sa. Với hành động này của Mị, nó đã đưa “vợ chồng A
Phủ” trở thành tp bản lề trên diễn đàn văn chương VN. Nó khép lại
những hạn chế của 1 dòng văn học hiện thực fê fán 1 thời. Nó mở
ra 1 hướng đi mới cho VH kháng chiến và đây nó trở thành mốc
thách thức của chính nhà văn Tô Hoài. Đến Phiềng Sa, Mị và A
Phủ đã gặp được ánh sáng của Đảng, gặp được cán bộ CM A
Châu. Và 2 người đã tham gia CM, chỉ có CM mới soi sáng được
kiếp người trâu ngựa, nô lệ. Và cũng chỉ có Mị và A Phủ mới là
những người cách mạng trung kiên. Nói như nhà thơ Tố Hữu:
“Đời CM từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là fải chịu khổ nhiều
Là gươm kề cổ, là súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn 1 nửa”
“Vợ chồng A Phủ” mô tả quá trình bừng thức, vùng lên của kiếp
sống nô lệ này. Ngòi bút của Tô Hoài đã thể hiện là ngòi bút nhân
văn, nhân đạo sâu sắc và cao cả. Và “vợ chồng A Phủ” mãi là bài
ca ca ngợi tự do, lòng yêu đời.
Bài gợi ý:
Trong những năm tháng dầu sôi lửa bỏng của chiến tranh,
rất nhiều nhà thơ đã giác ngộ chân lý của Đảng, của Cách
mạng Việt Nam, từ đó đã cho ra đời những bài thơ mang
đậm khí thế hiên ngang, anh dũng. Một trong những nhà
thơ nổi tiếng của nền Văn học kháng chiến chống Pháp
chính là nhà thơ Tố Hữu, mà sự giác ngộ Cách mạng của
ông được thể hiện qua bài thơ "Từ ấy".
Bài thơ "Từ ấy" được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938;
nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của Tố Hữu . Bài
thơ nói lên niềm vui sướng hạnh phúc của một thanh niên
yêu nước bắt gặp lí tưởng cách mạng của Đảng, thấy gắn bó
với nhân dân cần lao.
"Từ ấy" mang một ý nghĩa phiếm đinh về mặt thời gian ...
Đó là khi tâm trạng của nhà thơ trong giây phút giác ngộ lí
tưởng cộng sản .", là mốc son đánh dấu bước ngoặt, lối rẽ
mới trong cuộc đời của nhà thơ Tố Hữu , đối với ông " từ ấy
" là một thời gian rất cụ thể, ông đã xác định được con
đường đúng đắn mà mình phải đi và cũng chính từ đấy , lý
tưởng cách mạng đã soi sáng tâm hồn ông , đã giúp ông tìm
được lối đi đúng đắn cho cuộc đời ... mà trước đây , ông đã
từng lạc lối.Trong buổi ban đầu, những người thanh niên
như Tố Hữu dù có nhiệt huyết nhưng vấn chưa tìm được
đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách
thống trị của thực dân phong kiến "băn khoăn đi kiếm lẽ yêu
đời".Chính trong hoàn cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng
hạ ,nhà thơ được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin ,người
thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng Cách mạng, như mặt
trời xua tan đi những u ám, buồn đau, quét sạch mây mù và
đen tối hướng đến cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì
một tương lai tươi sáng của dân tộc.
File đính kèm:
- MOT SO DAN Y VAN NGHI LUAN PHAN 3.pdf