Nội dung bồi dưỡng 3 - Chuyên đề giáo dục học sinh cá biệt

I. MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA:

Công tác chủ nhiệm là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác giáo dục của Nhà trường và góp phần to lớn trong việc xây dựng và rèn luyện đạo đức, nhân cách của học sinh. Có một thực tế trong dạy học nói chung và công tác chủ nhiệm nói riêng là giáo viên thường áp đặt học sinh tức là chỉ yêu cầu học sinh phải làm và chịu ảnh hưởng những điều mình dạy mà ít khi để ý xem học sinh đang suy nghĩ gì, mong muốn điều gì. Điều này dẫn đến Nhà trường và Giáo viên trở nên xa lạ, siêu thực tế với học sinh. Các em bắt đầu không còn hứng thú với môn học, không muốn đến trường, thờ ơ lạnh nhạt thậm chí là thù ghét, chống đối

Giáo viên đã không tôn trọng sự “đa dạng” của học sinh và chưa coi học sinh là đối tượng để “phục vụ”. Nhà trường và Giáo viên phải xác định mình chính là nơi để giúp các em trở thành những công dân tốt, tạo nên những “sản phẩm” giáo dục tốt nhất mà xã hội yêu cầu.

Tôi cho rằng công tác chủ nhiệm là một nhiệm vụ không hề dễ dàng, công tác này đòi hỏi ở người thầy không chỉ có “tâm” mà phải có sự tinh tế, khéo léo và nghệ thuật để ứng xử cho phù hợp. Trong đó, công tác giáo dục học sinh cá biệt lại là nhiệm vụ khó khăn nhất, đòi hỏi sự tỉ mỷ, nỗ lực của thầy cô chủ nhiệm.

 

doc63 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 6439 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Nội dung bồi dưỡng 3 - Chuyên đề giáo dục học sinh cá biệt, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
C. NỘI DUNG BỒI DƯỠNG 3 CHUYÊN ĐỀ GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT I. MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA: Công tác chủ nhiệm là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác giáo dục của Nhà trường và góp phần to lớn trong việc xây dựng và rèn luyện đạo đức, nhân cách của học sinh. Có một thực tế trong dạy học nói chung và công tác chủ nhiệm nói riêng là giáo viên thường áp đặt học sinh tức là chỉ yêu cầu học sinh phải làm và chịu ảnh hưởng những điều mình dạy mà ít khi để ý xem học sinh đang suy nghĩ gì, mong muốn điều gì. Điều này dẫn đến Nhà trường và Giáo viên trở nên xa lạ, siêu thực tế với học sinh. Các em bắt đầu không còn hứng thú với môn học, không muốn đến trường, thờ ơ lạnh nhạt thậm chí là thù ghét, chống đối … Giáo viên đã không tôn trọng sự “đa dạng” của học sinh và chưa coi học sinh là đối tượng để “phục vụ”. Nhà trường và Giáo viên phải xác định mình chính là nơi để giúp các em trở thành những công dân tốt, tạo nên những “sản phẩm” giáo dục tốt nhất mà xã hội yêu cầu. Tôi cho rằng công tác chủ nhiệm là một nhiệm vụ không hề dễ dàng, công tác này đòi hỏi ở người thầy không chỉ có “tâm” mà phải có sự tinh tế, khéo léo và  nghệ thuật để ứng xử cho phù hợp. Trong đó, công tác giáo dục học sinh cá biệt lại là nhiệm vụ khó khăn nhất, đòi hỏi sự tỉ mỷ, nỗ lực của thầy cô chủ nhiệm. Khi giáo dục học sinh cá biệt, bản thân các em học sinh cá biệt cũng có những điểm mạnh, những mặt tích cực, có những ý kiến, nhận xét nhanh, tinh ý …. Tuy nhiên, những em học sinh này thường phải chịu nhiều áp lực thiệt thòi từ chính thầy cô và các bạn trong lớp. Giáo viên chủ nhiệm có khi chỉ dựa vào cảm tính mà trách mắng phạt tội. Chỉ cần một lời nói, môt hành động mà thầy cô cho là không đúng thì học sinh cá biệt lại bị ấn tượng, quy chụp … Các em  đã kém lại càng kém hơn và không thể hoà đồng được cùng các bạn trong lớp như một vết thương không được chữa lành, các em sẽ chán nản và tiếp tục vi phạm. Giáo dục học sinh cá biệt có  một ý nghĩa rất to lớn đối với xã hội; thành công trong giáo dục học sinh cá biệt sẽ góp phần quan trọng trong việc giữ gìn an ninh trật tự xã hội và cung cấp cho xã hội  những công dân tốt. Đối với gia đình, CMHS, giáo dục học sinh cá biệt sẽ đem lại nguồn hạnh phúc lớn lao cho họ, giúp họ tránh được nỗi bất hạnh lớn nhất là con cái hư hỏng. Đối với tập thể lớp đó là điều kiện đảm bảo cho lớp ổn định, trật tự, nề nếp, các thành viên trong lớp sẽ cùng nhau tu dưỡng và học tập đạt kết quả tốt. Từ những thực tế trên, chúng tôi đã chú trọng công tác giáo dục học sinh cá biệt. Bước đầu, chúng tôi cũng có được những thành công và góp phần khẳng định chất lượng giáo dục của Nhà trường. II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: - Ở đây, chúng tôi muốn phân biệt khái niệm “học sinh cá biệt” để thống nhất về cách hiểu, cũng như xác định đối tượng để nghiên cứu. - Từ “cá biệt” hiểu theo nghĩa thông thường có nghĩa là riêng lẻ, không phổ biến, không phải là điển hình. Khi ta gọi “học sinh cá biệt” thường để ám chỉ những học sinh có những khuyết điểm về học tập, rèn luyện nhân cách. Tuy nhiên “cá biệt” còn bao hàm để  chỉ những học sinh có thành tích cao nổi bật, những học sinh có sáng kiến trong lớp. Vì thế thống nhất cách hiểu, chúng tôi tập trung nghiên cứu vào đối tượng học sinh cá biệt là những em chưa ngoan, có nhiều vi phạm và những học sinh thường tự ti, trầm cảm trong lớp. III. NỘI DUNG GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT: 1. Phân loại học sinh cá biệt: a. Phương pháp phân loại: - Nghiên cứu hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh sống của học sinh cá biệt (60% học sinh chưa ngoan, cá biệt là do ảnh hưởng từ gia đình). - Nghiên cứu hồ sơ học sinh, vào đầu năm học chúng tôi tiến hành phát cho mỗi học sinh 01 tờ hồ sơ học sinh. Trong đó, học sinh sẽ khai đầy đủ các thông tin lý lịch về bản thân, sở thích, ước mơ, nguyện vọng … Qua  hồ sơ này, chúng tôi dễ dàng nắm bắt được những đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. - Nghiên cứu qua học bạ về kết quả học tập rèn luyện của học sinh qua những  năm học trước đó. - Nghiên cứu qua những nhận xét, đánh giá của bạn bè đặc biệt là người thân của các em qua cha mẹ học sinh, qua chính quyền địa phương, qua các tổ chức đoàn, đội … - Nghiên cứu hoạt động giao tiếp giữa giáo viên với học sinh. Quá trình quan sát, tiếp xúc của giáo viên và học sinh sẽ giúp cho giáo viên có thêm những  hiểu biết về tâm lý, tính cách, nhận thức của học sinh. - Đối với những giáo viên dạy môn Ngữ văn có thể phân loại được học sinh bằng chính những đề văn kiểm tra trên lớp. Giáo viên có thể ra một số đề bài như; Em hãy tâm sự với thầy? Em hãy viết bài văn tự sự kể về bản thân mình?... Qua những đề văn này, học sinh cá biệt có cơ hội để tâm sự, chia sẻ với thầy cô rất nhiều. Giáo viên không chỉ hiểu được học sinh mà còn tạo được tình cảm, sự tin cậy của học sinh đối với mình.  b. Kết quả phân loại: - Nhóm 1: Cá biệt là do vi phạm nội quy của Nhà trường, của lớp, mất trật tự trong giờ học, lười học bài, đi học muộn … - Nhóm 2: Cá biệt là do ham chơi điện tử, sẵn sàng bỏ học, lừa dối bố mẹ, thầy cô. - Nhóm 3: Cá biệt là do vi phạm những chuẩn mực đạo đức, hỗn láo với thầy cô giáo, cha mẹ, hay nói tục chửi bậy. - Nhóm 4: Cá biệt là do vi phạm pháp luật, đánh bạn, trộm cắp, chấn lột, cờ bạc … - Nhóm 5: Cá biệt là do tự ti, trầm cảm, ngại tiếp xúc với thầy cô, bạn bè, hoang mang, sợ hãi, tiêu cực trong suy  nghĩ  (nhóm học sinh cá biệt này đang có xu hướng gia tăng trong xã hội hiện nay). c. Nguyên nhân dẫn đến hành vi của học sinh cá biệt: - Trong gia đình: Bố mẹ sống không hạnh phúc, sống ly thân, ly hôn (có rất nhiều học sinh cá biệt đều có hoàn cảnh này). Có gia đình phương pháp dạy con không đúng hoặc quá chủ quan, tin con mình đã ngoan, đã tốt … - Học sinh bị bạn bè lôi kéo, mải chơi sớm có những mối quan hệ tình yêu không lành mạnh thích đua đòi, ăn diện. - Tư chất của học sinh chậm trong nhận thức, hổng kiến thức từ lớp dưới nên chán học, thường hay nghịch phá, mất trật tự. - Sức ép trong thi cử, sức ép của gia đình nhà trường và xã hội đã khiến cho học sinh căng thẳng rơi vào lối sống trầm cảm, tự ti về bản thân mình. 2. Phương pháp giáo dục học sinh cá biệt: a. Đối với bản thân học sinh cá biệt: - Gặp riêng học sinh cá biệt bằng tình cảm chân thành của mình, Giáo viên chủ nhiệm bình tĩnh, nhẹ nhàng, tế nhị, phân tích có lý, cố tình, mức độ nguy hại của khuyết điểm. Giáo viên thức tỉnh học sinh bằng những câu chuyện đạo đức để cảm phục học sinh. Chúng tôi ý thức được rằng, Giáo dục đạo đức là nền tảng để giáo dục tri thức, tài năng cho học sinh, nhất là những học sinh cá biệt. - Tin tưởng giao công việc tập thể phù hợp với khả năng của học sinh cá biệt.  Đây là việc làm mang tính 2 mặt, đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên giám sát, kiểm tra và động viên kịp thời khi học sinh đạt được thành tích dù là nhỏ nhất. - Tổ chức hoạt động tập thể, hoạt động nhân đạo để tạo điều kiện cho học sinh cá biệt, tham gia, xây dựng môi trường lành mạnh, tích cực, để các em có cơ hội tự thể hiện mình. Công tác này thực sự đặc biệt có ý nghĩa đối với học sinh trầm cảm, tự ti. Các em sẽ mạnh bạo, tích cực hơn trong học tập và rèn luyện. Cho các em tham gia và thực hiện tốt các chuyên đề ngoại khoá, rèn luyện kỹ năng sống để các em tiến bộ. - Tổ chức cho tập thể lớp quan tâm tận tình giúp đỡ dưới mọi hình thức như: thăm hỏi, đôi bạn, nhóm bạn cùng tiến. Giáo viên chủ nhiệm có thể lấy tấm gương tốt trong tập thể, hoặc chính một học sinh cá biệt đă tiến bộ để cảm hoá học sinh cá biệt. - Áp dụng quy định thưởng, phạt “phân minh, nghiêm túc, công bằng” để học sinh cá biệt có động lực mục tiêu phấn đấu. - Thầy cô luôn là tấm gương về đạo đức, về lối sống, về trình độ chuyên môn. Đồng thời thầy cô chủ nhiệm phải luôn có tình cảm yêu thương, niềm tin động viên học sinh bởi “Chỉ có tấm lòng mới đánh thức được tấm lòng”. Giáo viên cần phải khéo léo, linh hoạt, trong mỗi trường hợp cụ thể, biết tập hợp và sử dụng sức mạnh của các yếu tố giáo dục nhằm rèn luyện cho học sinh cá biệt. Giáo viên chủ nhiệm cần tuyệt đối tránh tư tưởng định kiến cách cư xử thiếu sư phạm đối với học sinh. b. Kết hợp với gia đình cha mẹ học sinh cá biệt và khu dân cư: - Trong cuộc họp cha mẹ học sinh đầu năm, chúng tôi phát cho cha mẹ học sinh nghiên cứu trước một tuần một số tài liệu tư vấn trong đó có cuốn “Dạy con nên người” của nhà trường. Chúng tôi không chỉ chia sẻ với cha mẹ học sinh những kiến thức giáo dục con cái mà còn tạo được sự thống nhất những quan điểm giáo dục với cha mẹ học sinh. - Trao đổi thẳng thắn, chân thành đối với cha mẹ học sinh để hiểu được hoàn cảnh gia đình, tính cách của học sinh cá biệt. Đây là hoạt động rất quan trọng bởi hầu hết những học sinh cá biệt đều do ảnh hưởng từ nền tảng giáo dục của gia đình. - Tổ chức thăm gia đình học sinh nhằm tạo thiện cảm tốt đối với học sinh cá biệt và với cha mẹ học sinh. Giáo viên thường xuyên trao đổi, gọi điện liên hệ với gia đình học sinh để từ đó hiểu rõ hơn về học sinh. - Kết hợp với địa phương, Khu dân cư để theo dõi giáo dục, ngăn chặn kịp thời những học sinh vi phạm, tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa Gia đình – Nhà trường – xã hội. c. Kết hợp với giáo viên bộ môn và nhà trường: - Kết hợp chặt chẽ đối với giáo viên bộ môn vừa để hiểu hơn về học sinh vừa giúp học sinh có những cố gắng ở từng môn học.Đồng thời, kết hợp  chặt chẽ với ban QLHS, ĐTN để thống nhất biện pháp giáo dục học sinh cá biệt. - Công tác quản lý của Nhà trường nên thường xuyên quan tâm, chú ý đến công tác giáo dục học sinh cá biệt và ghi nhận kết quả giáo dục học sinh cá biệt của Giáo viên chủ nhiệm. Sự quan tâm của nhà trường sẽ động viên Giáo viên chủ nhiệm hoàn thành tốt được nhiệm vụ này. Các biện pháp trên có liên quan chặt chẽ với nhau đã và đang được chúng tôi thực hiện. Chúng tôi cũng hiểu rằng: Thực tiễn giáo dục học sinh cá biệt là rất khó khăn và không phải học sinh cá biệt nào cũng giáo dục thành công. Dù vậy, chúng tôi vẫn đang hàng ngày nỗ lực, cố gắng, học hỏi để thực hiện tốt công việc này. IV. PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ RÈN LUYỆN CỦA HS CÁ BIỆT: Cách đánh giá kết quả rèn luyện của HS cá biệt cơ bản vẫn theo hướng dẫn của thông tư 58. QUY CHẾ Đánh giá, xếp loại học sinh trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông (Ban hành kèm theo Thông tư số: 58/2011/TT-BGDĐT ngày 12 tháng 12 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) Chương I NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng 1. Quy chế này quy định về đánh giá, xếp loại học sinh trung học cơ sở (THCS) và học sinh trung học phổ thông (THPT) bao gồm: Đánh giá, xếp loại hạnh kiểm; đánh giá, xếp loại học lực; sử dụng kết quả đánh giá, xếp loại; trách nhiệm của giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và các cơ quan quản lý giáo dục. 2. Quy chế này áp dụng đối với học sinh các trường THCS, trường THPT; học sinh cấp THCS và cấp THPT trong trường phổ thông có nhiều cấp học; học sinh trường THPT chuyên; học sinh cấp THCS và cấp THPT trong trường phổ thông dân tộc nội trú; học sinh cấp THCS trong trường phổ thông dân tộc bán trú. Điều 2. Mục đích, căn cứ và nguyên tắc đánh giá, xếp loại 1. Đánh giá chất lượng giáo dục đối với học sinh sau mỗi học kỳ, mỗi năm học nhằm thúc đẩy học sinh rèn luyện, học tập. 2. Căn cứ đánh giá, xếp loại của học sinh được dựa trên cơ sở sau: a) Mục tiêu giáo dục của cấp học; b) Chương trình, kế hoạch giáo dục của cấp học; c) Điều lệ nhà trường; d) Kết quả rèn luyện và học tập của học sinh. 3. Bảo đảm nguyên tắc khách quan, công bằng, công khai, đúng chất lượng trong đánh giá, xếp loại hạnh kiểm, học lực học sinh. Chương II ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI HẠNH KIỂM Điều 3. Căn cứ đánh giá, xếp loại hạnh kiểm 1. Căn cứ đánh giá, xếp loại hạnh kiểm: a) Đánh giá hạnh kiểm của học sinh căn cứ vào biểu hiện cụ thể về thái độ và hành vi đạo đức; ứng xử trong mối quan hệ với thầy giáo, cô giáo, cán bộ, công nhân viên, với gia đình, bạn bè và quan hệ xã hội; ý thức phấn đấu vươn lên trong học tập; kết quả tham gia lao động, hoạt động tập thể của lớp, của trường và của xã hội; rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh và bảo vệ môi trường; b) Kết quả nhận xét các biểu hiện về thái độ, hành vi của học sinh đối với nội dung dạy học môn Giáo dục công dân quy định trong chương trình giáo dục phổ thông cấp THCS, cấp THPT do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. 2. Xếp loại hạnh kiểm: Hạnh kiểm được xếp thành 4 loại: Tốt (T), khá (K), trung bình (Tb), yếu (Y) sau mỗi học kỳ và cả năm học. Việc xếp loại hạnh kiểm cả năm học chủ yếu căn cứ vào xếp loại hạnh kiểm học kỳ II và sự tiến bộ của học sinh. Điều 4. Tiêu chuẩn xếp loại hạnh kiểm 1. Loại tốt: a) Thực hiện nghiêm túc nội quy nhà trường; chấp hành tốt luật pháp, quy định về trật tự, an toàn xã hội, an toàn giao thông; tích cực tham gia đấu tranh với các hành động tiêu cực, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội; b) Luôn kính trọng thầy giáo, cô giáo, người lớn tuổi; thương yêu và giúp đỡ các em nhỏ tuổi; có ý thức xây dựng tập thể, đoàn kết, được các bạn tin yêu; c) Tích cực rèn luyện phẩm chất đạo đức, có lối sống lành mạnh, giản dị, khiêm tốn; chăm lo giúp đỡ gia đình; d) Hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ học tập, có ý thức vươn lên, trung thực trong cuộc sống, trong học tập; đ) Tích cực rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh và bảo vệ môi trường; e) Tham gia đầy đủ các hoạt động giáo dục, các hoạt động do nhà trường tổ chức; tích cực tham gia các hoạt động của Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; g) Có thái độ và hành vi đúng đắn trong việc rèn luyện đạo đức, lối sống theo nội dung môn Giáo dục công dân. 2. Loại khá: Thực hiện được những quy định tại Khoản 1 Điều này nhưng chưa đạt đến mức độ của loại tốt; còn có thiếu sót nhưng kịp thời sửa chữa sau khi thầy giáo, cô giáo và các bạn góp ý. 3. Loại trung bình: Có một số khuyết điểm trong việc thực hiện các quy định tại Khoản 1 Điều này nhưng mức độ chưa nghiêm trọng; sau khi được nhắc nhở, giáo dục đã tiếp thu, sửa chữa nhưng tiến bộ còn chậm. 4. Loại yếu: Chưa đạt tiêu chuẩn xếp loại trung bình hoặc có một trong các khuyết điểm sau đây: a) Có sai phạm với tính chất nghiêm trọng hoặc lặp lại nhiều lần trong việc thực hiện quy định tại Khoản 1 Điều này, được giáo dục nhưng chưa sửa chữa; b) Vô lễ, xúc phạm nhân phẩm, danh dự, xâm phạm thân thể của giáo viên, nhân viên nhà trường; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của bạn hoặc của người khác; c) Gian lận trong học tập, kiểm tra, thi; d) Đánh nhau, gây rối trật tự, trị an trong nhà trường hoặc ngoài xã hội; vi phạm an toàn giao thông; gây thiệt hại tài sản công, tài sản của người khác. Chương III ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI HỌC LỰC Điều 5. Căn cứ đánh giá, xếp loại học lực 1. Căn cứ đánh giá, xếp loại học lực: a) Mức độ hoàn thành chương trình các môn học và hoạt động giáo dục trong Kế hoạch giáo dục cấp THCS, cấp THPT; b) Kết quả đạt được của các bài kiểm tra. 2. Học lực được xếp thành 5 loại: Giỏi (G), khá (K), trung bình (Tb), yếu (Y), kém (Kém). Điều 6. Hình thức đánh giá và kết quả các môn học sau một học kỳ, cả năm học 1. Hình thức đánh giá: a) Đánh giá bằng nhận xét kết quả học tập (sau đây gọi là đánh giá bằng nhận xét) đối với các môn Âm nhạc, Mỹ thuật, Thể dục. Căn cứ chuẩn kiến thức, kỹ năng môn học quy định trong Chương trình giáo dục phổ thông, thái độ tích cực và sự tiến bộ của học sinh để nhận xét kết quả các bài kiểm tra theo hai mức: - Đạt yêu cầu (Đ): Nếu đảm bảo ít nhất một trong hai điều kiện sau: + Thực hiện được cơ bản các yêu cầu chuẩn kiến thức, kỹ năng đối với nội dung trong bài kiểm tra; + Có cố gắng, tích cực học tập và tiến bộ rõ rệt trong thực hiện các yêu cầu chuẩn kiến thức, kỹ năng đối với nội dung trong bài kiểm tra. - Chưa đạt yêu cầu (CĐ): Các trường hợp còn lại. b) Kết hợp giữa đánh giá bằng cho điểm và nhận xét kết quả học tập đối với môn Giáo dục công dân: - Đánh giá bằng cho điểm kết quả thực hiện các yêu cầu về chuẩn kiến thức, kỹ năng và thái độ đối với từng chủ đề thuộc môn Giáo dục công dân quy định trong chương trình giáo dục phổ thông cấp THCS, cấp THPT do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành; - Đánh giá bằng nhận xét sự tiến bộ về thái độ, hành vi trong việc rèn luyện đạo đức, lối sống của học sinh theo nội dung môn Giáo dục công dân quy định trong chương trình giáo dục phổ thông cấp THCS, cấp THPT do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành trong mỗi học kỳ, cả năm học. Kết quả nhận xét sự tiến bộ về thái độ, hành vi trong việc rèn luyện đạo đức, lối sống của học sinh không ghi vào sổ gọi tên và ghi điểm, mà được giáo viên môn Giáo dục công dân theo dõi, đánh giá, ghi trong học bạ và phối hợp với giáo viên chủ nhiệm sau mỗi học kỳ tham khảo khi xếp loại hạnh kiểm. c) Đánh giá bằng cho điểm đối với các môn học còn lại. d) Các bài kiểm tra được cho điểm theo thang điểm từ điểm 0 đến điểm 10; nếu sử dụng thang điểm khác thì phải quy đổi về thang điểm này. 2. Kết quả môn học và kết quả các môn học sau mỗi học kỳ, cả năm học: a) Đối với các môn học đánh giá bằng cho điểm: Tính điểm trung bình môn học và tính điểm trung bình các môn học sau mỗi học kỳ, cả năm học; b) Đối với các môn học đánh giá bằng nhận xét: Nhận xét môn học sau mỗi học kỳ, cả năm học theo hai loại: Đạt yêu cầu (Đ) và Chưa đạt yêu cầu (CĐ); nhận xét về năng khiếu (nếu có). Điều 7. Hình thức kiểm tra, các loại bài kiểm tra, hệ số điểm bài kiểm tra 1. Hình thức kiểm tra: Kiểm tra miệng (kiểm tra bằng hỏi-đáp), kiểm tra viết, kiểm tra thực hành. 2. Các loại bài kiểm tra: a) Kiểm tra thường xuyên (KTtx) gồm: Kiểm tra miệng; kiểm tra viết dưới 1 tiết; kiểm tra thực hành dưới 1 tiết; b) Kiểm tra định kỳ (KTđk) gồm: Kiểm tra viết từ 1 tiết trở lên; kiểm tra thực hành từ 1 tiết trở lên; kiểm tra học kỳ (KThk). 3. Hệ số điểm các loại bài kiểm tra: a) Đối với các môn học đánh giá bằng cho điểm: Điểm kiểm tra thường xuyên tính hệ số 1, điểm kiểm tra viết và kiểm tra thực hành từ 1 tiết trở lên tính hệ số 2, điểm kiểm tra học kỳ tính hệ số 3. b) Đối với các môn học đánh giá bằng nhận xét: Kết quả nhận xét của các bài kiểm tra đều tính một lần khi xếp loại môn học sau mỗi học kỳ. Điều 8. Số lần kiểm tra và cách cho điểm 1. Số lần KTđk được quy định trong kế hoạch dạy học, bao gồm cả kiểm tra các loại chủ đề tự chọn. 2. Số lần KTtx: Trong mỗi học kỳ một học sinh phải có số lần KTtx của từng môn học bao gồm cả kiểm tra các loại chủ đề tự chọn như sau: a) Môn học có 1 tiết trở xuống/tuần: Ít nhất 2 lần; b) Môn học có từ trên 1 tiết đến dưới 3 tiết/tuần: Ít nhất 3 lần; c) Môn học có từ 3 tiết trở lên/tuần: Ít nhất 4 lần. 3. Số lần kiểm tra đối với môn chuyên: Ngoài số lần kiểm tra quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều này, Hiệu trưởng trường THPT chuyên có thể quy định thêm một số bài kiểm tra đối với môn chuyên. 4. Điểm các bài KTtx theo hình thức tự luận là số nguyên, điểm KTtx theo hình thức trắc nghiệm hoặc có phần trắc nghiệm và điểm KTđk là số nguyên hoặc số thập phân được lấy đến chữ số thập phân thứ nhất sau khi làm tròn số. 5. Những học sinh không có đủ số lần kiểm tra theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 điều này phải được kiểm tra bù. Bài kiểm tra bù phải có hình thức, mức độ kiến thức, kỹ năng và thời lượng tương đương với bài kiểm tra bị thiếu. Học sinh không dự kiểm tra bù sẽ bị điểm 0 (đối với những môn học đánh giá bằng cho điểm) hoặc bị nhận xét mức CĐ (đối với những môn học đánh giá bằng nhận xét). Kiểm tra bù được hoàn thành trong từng học kỳ hoặc cuối năm học. Điều 9. Kiểm tra, cho điểm các môn học tự chọn và chủ đề tự chọn thuộc các môn học 1. Môn học tự chọn: Việc kiểm tra, cho điểm, tính điểm trung bình môn học và tham gia tính điểm trung bình các môn học thực hiện như các môn học khác. 2. Chủ đề tự chọn thuộc các môn học: Các loại chủ đề tự chọn của môn học nào thì kiểm tra, cho điểm và tham gia tính điểm trung bình môn học đó. Điều 10. Kết quả môn học của mỗi học kỳ, cả năm học 1. Đối với các môn học đánh giá bằng cho điểm: a) Điểm trung bình môn học kỳ (ĐTBmhk) là trung bình cộng của điểm các bài KTtx, KTđk và KThk với các hệ số quy định tại Điểm a, Khoản 3, Điều 7 Quy chế này: TĐKTtx + 2 x TĐKTđk + 3 x ĐKThk ĐTBmhk = Số bài KTtx + 2 x Số bài KTđk + 3 - TĐKTtx: Tổng điểm của các bài KTtx - TĐKTđk: Tổng điểm của các bài KTđk - ĐKThk: Điểm bài KThk b) Điểm trung bình môn cả năm (ĐTBmcn) là trung bình cộng của ĐTBmhkI với ĐTBmhkII, trong đó ĐTBmhkII tính hệ số 2: ĐTBmhkI + 2 x ĐTBmhkII ĐTBmcn = 3 c) ĐTBmhk và ĐTBmcn là số nguyên hoặc số thập phân được lấy đến chữ số thập phân thứ nhất sau khi làm tròn số. 2. Đối với các môn học đánh giá bằng nhận xét: a) Xếp loại học kỳ: - Đạt yêu cầu (Đ): Có đủ số lần kiểm tra theo quy định tại các Khoản 1, 2, 3 Điều 8 và 2/3 số bài kiểm tra trở lên được đánh giá mức Đ, trong đó có bài kiểm tra học kỳ. - Chưa đạt yêu cầu (CĐ): Các trường hợp còn lại. b) Xếp loại cả năm: - Đạt yêu cầu (Đ): Cả hai học kỳ xếp loại Đ hoặc học kỳ I xếp loại CĐ, học kỳ II xếp loại Đ. - Chưa đạt yêu cầu (CĐ): Cả hai học kỳ xếp loại CĐ hoặc học kỳ I xếp loại Đ, học kỳ II xếp loại CĐ. c) Những học sinh có năng khiếu được giáo viên bộ môn ghi thêm nhận xét vào học bạ. 3. Đối với các môn chỉ dạy trong một học kỳ thì lấy kết quả đánh giá, xếp loại của học kỳ đó làm kết quả đánh giá, xếp loại cả năm học. Điều 11. Điểm trung bình các môn học kỳ, cả năm học 1. Điểm trung bình các môn học kỳ (ĐTBhk) là trung bình cộng của điểm trung bình môn học kỳ của các môn học đánh giá bằng cho điểm. 2. Điểm trung bình các môn cả năm học (ĐTBcn) là trung bình cộng của điểm trung bình cả năm của các môn học đánh giá bằng cho điểm. 3. Điểm trung bình các môn học kỳ hoặc cả năm học là số nguyên hoặc số thập phân được lấy đến chữ số thập phân thứ nhất sau khi làm tròn số. Điều 12. Các trường hợp được miễn học môn Thể dục, môn Âm nhạc, môn Mỹ thuật, phần thực hành môn giáo dục quốc phòng - an ninh (GDQP-AN) 1. Học sinh được miễn học môn Thể dục, môn Âm nhạc, môn Mỹ thuật trong chương trình giáo dục nếu gặp khó khăn trong học tập môn học nào đó do mắc bệnh mãn tính, bị khuyết tật, bị tai nạn hoặc bị bệnh phải điều trị. 2. Hồ sơ xin miễn học gồm có: Đơn xin miễn học của học sinh và bệnh án hoặc giấy chứng nhận thương tật do bệnh viện từ cấp huyện trở lên cấp. 3. Việc cho phép miễn học đối với các trường hợp do bị ốm đau hoặc tai nạn chỉ áp dụng trong năm học; các trường hợp bị bệnh mãn tính, khuyết tật hoặc thương tật lâu dài được áp dụng cho cả năm học hoặc cả cấp học. 4. Hiệu trưởng nhà trường cho phép học sinh được miễn học môn Thể dục, môn Âm nhạc, môn Mỹ thuật trong một học kỳ hoặc cả năm học. Nếu được miễn học cả năm học thì môn học này không tham gia đánh giá, xếp loại học lực của học kỳ và cả năm học; nếu chỉ được miễn học một học kỳ thì lấy kết quả đánh giá, xếp loại của học kỳ đã học để đánh giá, xếp loại cả năm học. 5. Đối với môn GDQP-AN: Thực hiện theo Quyết định số 69/2007/QĐ-BGDĐT ngày 14/11/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy định tổ chức dạy, học và đánh giá kết quả học tập môn GDQP-AN Các trường hợp học sinh được miễn học phần thực hành sẽ được kiểm tra bù bằng lý thuyết để có đủ cơ số điểm theo quy định. Điều 13. Tiêu chuẩn xếp loại học kỳ và xếp loại cả năm học 1. Loại giỏi, nếu có đủ các tiêu chuẩn sau đây: a) Điểm trung bình các môn học từ 8,0 trở lên, trong đó điểm trung bình của 1 trong 2 môn Toán, Ngữ văn từ 8,0 trở lên; riêng đối với học sinh lớp chuyên của trường THPT chuyên phải thêm điều kiện điểm trung bình môn chuyên từ 8,0 trở lên; b) Không có môn học nào điểm trung bình dưới 6,5; c) Các môn học đánh giá bằng nhận xét đạt loại Đ. 2. Loại khá, nếu có đủ các tiêu chuẩn sau đây: a) Điểm trung bình các môn học từ 6,5 trở lên, trong đó điểm trung bình của 1 trong 2 môn Toán, Ngữ văn từ 6,5 trở lên; riêng đối với học sinh lớp chuyên của trường THPT chuyên phải thêm điều kiện điểm trung bình môn chuyên từ 6,5 trở lên; b) Không có môn học nào điểm trung bình dưới 5,0; c) Các môn học đánh giá bằng nhận xét đạt loại Đ. 3. Loại trung bình, nếu có đủ các tiêu chuẩn sau đây: a) Điểm trung bình các môn học từ 5,0 trở lên, trong đó điểm trung bình của 1 trong 2 môn Toán, Ngữ văn từ 5,0 trở lên; riêng đối với học sinh lớp chuyên của trường THPT chuyên phải thêm điều kiện điểm trung bình môn chuyên từ 5,0 trở lên; b) Không có môn học nào điểm trung bình dưới 3,5; c) Các môn học đánh giá bằng nhận xét đạt loại Đ. 4. Loại yếu: Điểm trung bình các môn học từ 3,5 trở lên, không có môn học nào điểm trung bình dưới 2,0. 5. Loại kém: Các trường hợp còn lại. 6. Nếu ĐTBhk hoặc ĐTBcn đạt mức của từng loại quy định tại các Khoản 1, 2 điều này nhưng do kết quả của một môn học nào đó thấp hơn mức quy định cho loại đó nên học lực bị xếp thấp xuống thì được điều chỉnh như sau: a) Nếu ĐTBhk hoặc ĐTBcn đạt mức loại G nhưng do kết quả của một môn học nào đó mà phải xuống loại Tb thì được điều chỉnh xếp loại K. b) Nếu ĐTBhk hoặc ĐTBcn đạt mức loại G nhưng do kết quả của một môn học nào đó mà phải xuống loại Y thì được điều chỉnh xếp loại Tb. c) Nếu ĐTBhk hoặc ĐTBcn đạt mức loại K nhưng do kết quả của một môn học nào đó mà phải xuống loại Y thì được điều chỉnh xếp loại Tb.

File đính kèm:

  • docnd 3. THU HOẠCH BDTX 2012-2013.doc
Giáo án liên quan