Ôn tập văn 12

A. HỒ CHÍ MINH

I. VI HÀNH

I.1 . XUẤT XỨ, CHỦ ĐỀ

1. Tên truyện bằng tiếng Pháp: “Incognito”, in trên báo “Nhân đạo” của Đảng Cộng sản Pháp, ngày 19-2-1923. Phạm Huy Thông dịch là “Vi hành” in trong tập “Truyện v ký” của Nguyễn i Quốc (1974). Cng với vở kịch “Con rồng tre”, truyện “Lời than vn của B Trưng Trắc”, truyện ngắn “Vi hành” này nhằm châm biếm sâu cay tên vua bù nhìn Khải Định khi hắn sang Pháp năm 1922.

2. Vạch trần bộ mặt xấu xa, thối nt của tn vua b nhìn, đồng thời châm biếm chế giễu chế độ thực dân Pháp.

I.2. NỘI DUNG

1. Một trường hợp nhầm lẫn hiếm có. Trong toa điện ngầm Paris, đôi nam nữ thanh niên Pháp tị mị, ma mnh nhầm lẫn nhn vật “tơi” l hồng đế An Nam. Ăn mặc, trang sức kệch cỡm: “mũi tẹt, da vàng, nhút nhát, lúng ta lúng túng. Có cái chụp đèn chụp lên đầu quấn khăn. Ngón tay đeo đầy những nhẫn. Vua An Nam đ vi hnh, mọi thứ quý gi đ gửi tuốt ở kho hnh lí nh ga, hay đem đến tiệm cầm đồ. Trong lúc xem đem vợ lẽ nàng hầu vua Cao Min, xem tụi lm trị leo tro nho lộn của sư thánh xứ Công Gô phải trả nghìn rưởi phrăng nhưng xem vua An Nam ngồi cạnh chẳng mất một tí tiền nào. Hắn là một tên vua bù nhìn, một tn hề mạt hạng, m ơng bầu Nh ht ma rối định ký giao ko thuê đấy.

2. Một bức thư gửi cô em họ rất hóm hỉnh để bàn về vi hành của các bậc vua chúa. Vua Thuấn cải trang làm dân cày đi dị la khắp xứ. Vua Pie cải trang lm thợ đến làm việc ở công trường nước Anh. Họ là “những bậc cải trang vĩ đại”. Cịn tn vua b nhìn An Nam đi vi hành là để xem dân Pháp có được uống nhiều rượu và hút nhiều thuốc phiện bằng dân Nam. Hay vì chn cảnh lm một ơng vua to ngi lại muốn nếm thử cuộc đời của công tử bé để ăn chơi trác táng.

Tác giả đ chm biếm su cay bọn quan thầy thực dân. Mọi người da vàng mũi tẹt đều trở thành hoàng đế ở Pháp, tất cả những ai da trắng ở Đông Dương đều là những bậc khai hóa. Quần chúng Pháp hễ thấy một đồng bào ta thì lầm tưởng là hoàng đế An Nam mà tị mị chỉ trỏ: “Hắn đấy”, hoặc “xem hắn kìa!”. Nhân vật “tôi” đi đâu một bước thì được bọn mật thám “bám lấy đế giày dính chặt như hình với bĩng” để theo di.

 

doc69 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 1480 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Ôn tập văn 12, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
* VĂN HỌC VIỆT NAM TRƯỚC CÁC MẠNG THÁNG TÁM A. HỒ CHÍ MINH I. VI HÀNH I.1 . XUẤT XỨ, CHỦ ĐỀ 1. Tên truyện bằng tiếng Pháp: “Incognito”, in trên báo “Nhân đạo” của Đảng Cộng sản Pháp, ngày 19-2-1923. Phạm Huy Thơng dịch là “Vi hành” in trong tập “Truyện và ký” của Nguyễn Ái Quốc (1974). Cùng với vở kịch “Con rồng tre”, truyện “Lời than vãn của Bà Trưng Trắc”, truyện ngắn “Vi hành” này nhằm châm biếm sâu cay tên vua bù nhìn Khải Định khi hắn sang Pháp năm 1922. 2. Vạch trần bộ mặt xấu xa, thối nát của tên vua bù nhìn, đồng thời châm biếm chế giễu chế độ thực dân Pháp. I.2. NỘI DUNG 1. Một trường hợp nhầm lẫn hiếm cĩ. Trong toa điện ngầm Paris, đơi nam nữ thanh niên Pháp tị mị, ma mãnh nhầm lẫn nhân vật “tơi” là hồng đế An Nam. Ăn mặc, trang sức kệch cỡm: “mũi tẹt, da vàng, nhút nhát, lúng ta lúng túng. Cĩ cái chụp đèn chụp lên đầu quấn khăn. Ngĩn tay đeo đầy những nhẫn. Vua An Nam đã vi hành, mọi thứ quý giá đã gửi tuốt ở kho hành lí nhà ga, hay đem đến tiệm cầm đồ. Trong lúc xem đem vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên, xem tụi làm trị leo trèo nhào lộn của sư thánh xứ Cơng Gơ phải trả nghìn rưởi phrăng nhưng xem vua An Nam ngồi cạnh chẳng mất một tí tiền nào. Hắn là một tên vua bù nhìn, một tên hề mạt hạng, mà ơng bầu Nhà hát múa rối định ký giao kèo thuê đấy. 2. Một bức thư gửi cơ em họ rất hĩm hỉnh để bàn về vi hành của các bậc vua chúa. Vua Thuấn cải trang làm dân cày đi dị la khắp xứ. Vua Pie cải trang làm thợ đến làm việc ở cơng trường nước Anh. Họ là “những bậc cải trang vĩ đại”. Cịn tên vua bù nhìn An Nam đi vi hành là để xem dân Pháp cĩ được uống nhiều rượu và hút nhiều thuốc phiện bằng dân Nam. Hay vì chán cảnh làm một ơng vua to ngài lại muốn nếm thử cuộc đời của cơng tử bé để ăn chơi trác táng. Tác giả đã châm biếm sâu cay bọn quan thầy thực dân. Mọi người da vàng mũi tẹt đều trở thành hồng đế ở Pháp, tất cả những ai da trắng ở Đơng Dương đều là những bậc khai hĩa. Quần chúng Pháp hễ thấy một đồng bào ta thì lầm tưởng là hồng đế An Nam mà tị mị chỉ trỏ: “Hắn đấy”, hoặc “xem hắn kìa!”. Nhân vật “tơi” đi đâu một bước thì được bọn mật thám “bám lấy đế giày dính chặt… như hình với bĩng” để theo dõi. I.3. NGHỆ THUẬT 1. Viết dưới hình thức một bức thư, kết hợp tả, kể nêu giả định và bàn luận. 2. Những giả định, so sánh đầy ý vị để châm biếm sâu cay. Một sự nhầm lẫn “chết người” đã vạch trần chân tướng kẻ đang vi hành trên đất Pháp. 3. Giọng văn châm biếm khinh bỉ. Cả quan thầy lẫn tên vua bù nhìn bị vạch trần chân tướng: xấu xa, đê mạt và ghê tởm: “Ngày nay, cứ mỗi lần ra khỏi cửa, thật tơi khơng sao che giấu nổi niềm tự hào được là một người An Nam và sự kiêu hãnh được cĩ một vị hồng đế!” Tĩm lại, hĩm hỉnh và giễu cợt, nhầm lẫn và giả định, cùng với lối viết ngắn mang màu sắc văn xuơi hiện đại phương Tây, đã tạo nên tính chiến đấu của truyện “Vi hành”. “Vi hành” thể hiện sâu sắc tư tưởng chống chế độ thực dân Pháp và bọn bù nhìn tay sai. Nĩ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật giản dị mà sắc bén, tính hiện đại và chất trí tuệ trong truyện ký của Nguyễn Ái Quốc viết bằng tiếng Pháp. II. NHẬT KÝ TRONG TÙ (Ngục trung nhật ký) Hồ Chí Minh (1890-1969) II.1 XUẤT XỨ. CHỦ ĐỀ “Nhật ký trong tù” là tập thơ bằng chữ Hán của Hồ Chí Minh gồm cĩ 133 bài thơ, phần lớn là thơ tứ tuyệt, được viết trong một hồn cảnh đặc biệt từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943, khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vơ cớ, đày đọa trong nhiều nhà ngục tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Tập nhật ký bằng thơ này đã phản ánh chân thực, cảm động một tâm hồn lớn, một dũng khí lớn, một trí tuệ lớn của người chiến sĩ vĩ đại trong cảnh tù đày. II.2. MỘ Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ Cơ vân mạn mạn độ thiên khơng; Sơn thơn thiếu nữ ma bao túc, Bao túc ma hồn lơ dĩ hồng. Hồ Chí Minh “Mộ” (Chiều tối) bài thơ thất ngơn tứ tuyệt số 31. Hồ Chí Minh viết bài thơ này đang trên đường bị giải tới nhà lao Thiên Bảo. Sau một ngày dài bị giải đi, trời tối dần. Hai câu đầu tả cảnh bầu trời lúc chiều tối. Cánh chim mỏi (quyện điểu) về rừng tìm cây trú ẩn. Áng mây lẻ loi, cơ đơn (cơ vân) trơi lững lờ trên tầng khơng. Cảnh vật thống buồn. Hai nét vẽ chấm phá (chim và mây), lấy cái nhỏ bé, cái động để làm nổi bật bầu trời bao la, cảnh chiều tối lặng lẽ và buồn. Cánh chim mỏi và áng mây cơ đơn là hai hình ảnh vừa mang tính ước lệ trong thơ cổ tả cảnh chiều tối, vừa là hình ảnh ẩn dụ về người tù bị lưu đày trên con đường khổ ải mờ mịt vạn dặm: “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng khơng” Trời tối rồi, tù nhân bị giải đi qua một xĩm núi. Cĩ bĩng người (thiếu nữ). Cĩ cảnh làm ăn bình dị: xay ngơ. Cĩ lị than đã rực hồng (lơ dĩ hồng). Các chi tiết nghệ thuật ấy làm hiện lên một mái ấm gia đình, một cảnh đời dân dã, bình dị, “ấm áp”. Nếu chim trời, áng mây chiều đồng điệu với tâm hồn nhà thơ thì cảnh xay ngơ của thiếu nữ và lị than rực hồng kia như đang làm vợi đi ít nhiều nỗi đau khổ của người đi đày khi qua nơi miền sơn cước xa lạ. Tương phản với màn đêm bao trùm khơng gian, cảnh vật là “lị than đã rực hồng”. Tứ thơ vận động từ bĩng tối hướng về ánh sáng. Nĩ cho ta thấy, trong cảnh ngộ cơ đơn, nặng nề, bị tước mất tự do, bị ngược đãi, người chiến sĩ cách mạng, nhà thơ Hồ Chí Minh vẫn gắn bĩ, chan hịa, gần gũi với nhịp đời thường cần lao. Câu thơ thứ 3 dịch chưa được hay. Chữ “cơ em” hơi lạc điệu. Thêm vào một chữ “tối” đã mất đi ý vị “ý tại ngơn ngoại” vẻ đẹp hàm súc của thơ chữ Hán cổ điển: “Cơ em xĩm núi xay ngơ tối Xay hết lị than đã rực hồng” Bài thơ cĩ cảnh bầu trời và xĩm núi, cĩ áng mây, cánh chim chiều. Chim về rừng, mây lơ lửng. Cĩ thiếu nữ xay ngơ và lị than hồng. Đằng sau bức tranh cảnh chiều tối là một nỗi niềm buồn, cơ đơn, là một tấm lịng hướng về nhân dân lao động, tìm thấy trong khoảnh khắc chiều tối. Nghệ thuật mượn cảnh để tả tình. Điệu thơ nhè nhẹ, man mác bâng khuâng, đậm đà màu sắc cổ điển. Tinh tế trong biểu hiện, đậm đà trong biểu cảm là vẻ đẹp trữ tình của bài thơ “Chiều tối” này… Rất nhân hậu, rất người. II.3. TAO GIẢI I Nhất thứ kê đề dạ vị lan, Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san; Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng, Nghênh diện thu phong trận trận hàn. II Đơng phương bạch sắc dĩ thành hồng, U ám tàn dư tảo nhất khơng; Nỗn khí bao la tồn vũ trụ, Hành nhân thi hứng hốt gia nồng Hồ Chí Minh Tảo giải (Giải đi sớm) là chùm thơ 2 bài 42, 43 trong “Ngục trung nhật ký” của Hồ Chí Minh. Trên đường chuyển lao từ Long An đến Đồng Chính, Hồ Chí Minh viết chùm thơ này. Như một trang ký sự của người đi đày thế nhưng đằng sau cảnh sắc thiên nhiên hé lộ một hồn thơ khống đạt, mạnh mẽ và tự tin, yêu đời. Bài I, ngay câu đầu ghi lại thời điểm chuyển lao: “Gà gáy một lần, đêm chửa tan”. Đĩ là lúc nửa đêm về sáng. Chỉ cĩ chịm sao nâng vầng trăng lên đỉnh núi thu. Trăng sao được nhân hĩa như cùng đồng hành với người đi đày. Cái nhìn lên bầu trời trong cảnh khổ ải thể hiện một tâm thế đẹp. Hai câu 3, 4 nĩi về con đường mà tù nhân đang đi là con đường xa (chinh đồ). Giĩ thu táp vào mặt từng cơn từng cơn lạnh lẽo. Trong câu thơ chữ Hán, chữ “chinh” chữ “trận” được điệp lại hai lần (chinh nhân, chinh đồ; trận trận hàn), làm cho ý thơ rắn rỏi, nhịp thơ mạnh mẽ. Nĩ thể hiện một tâm thế rất đẹp. Mặc dù áo quần tả tơi, thân thể tiều tụy nhưng người chiến sĩ vĩ đại vẫn đứng vững trước mọi thử thách nặng nề: đêm tối, đường xa, giĩ rét… Bài II, nĩi về cảnh rạng đơng. Cái lạnh lẽo, cái u ám của đêm thu cịn rơi rớt lại chốc đã bị quét hết sạch. Phương đơng từ màu trắng đã thành hồng. Hơi ấm tràn ngập đất trời, vũ trụ. Trước một khơng gian bao la cĩ màu hồng, cĩ hơi ấm của rạng đơng, “chinh nhân” (người đi xa) đã hĩa thành “hành nhân” (người đi). Hình như mọi đau khổ bị tiêu tan trong khoảnh khắc. Người đi đày đã trở thành con người “tự do”, thi hứng dâng lên dào dạt nồng nàn. Niềm vui đĩn cảnh rạng đơng đẹp và ấm áp. Một đêm lạnh lẽo đã trơi qua. Tứ thơ vận động từ tối qua rạng đơng tráng lệ, từ lạnh lẽo đến hơi ấm. Người đọc cĩ cảm giác nhà thơ đi đĩn bình minh, đĩn ánh sáng và niềm vui cuộc đời. Chùm thơ “Tảo giải” cho thấy tinh thần chịu đựng gian khổ làm chủ hồn cảnh và phong thái ung dung, lạc quan yêu đời của nhà thơ Hồ Chí Minh trong cảnh đọa đầy. “Tảo giải” là bài ca của người đi đày, hàm chứa chất “thép” thâm trầm, sâu sắc mà “khơng hề nĩi đến thép, lên giọng thép”. II.4. VÃN CẢNH Mai khơi hoa khai hoa hựu tạ, Hoa khai hoa tạ lưỡng vơ tình; Hoa hương thấu nhập lung mơn lý, Hướng tại lung nhân tố bất bình. Hồ Chí Minh Bài “Thanh minh” là bài thơ số 113; B “Vãn cảnh” là bài thơ số 114. Đọc “Nhật ký trong tù” ta biết Hồ Chí Minh viết bài thơ này vào mùa xuân 1943, khi Người bị giam giữ tại “nhà giam của Cục Chính trị” ở Liễu Châu, Trung Quốc. Bài thơ nĩi về hoa hồng, thể hiện một tình yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp với khát vọng tự do cháy bỏng. Lúc bấy giờ, Bác Hồ đang sống trong tâm trạng: “Thơ tù ta viết hơn trăm bài rồi – Xong bài, gác bút nghỉ ngơi – Nhịm qua cửa ngục, ngĩng trời tự do”. Hai câu đầu bài “Cảnh chiều hơm” nĩi về chuyện hoa hồng nở và tàn. Hoa đẹp, quý vơ cùng, thế mà hoa nở cũng chẳng ai hay, hoa tàn cũng chẳng ai biết. Hoa nở và tàn đều bị chìm trong quên lãng. Ai là kẻ đã “vơ tình” với hoa? Câu thơ dịch khá sát nghĩa, tuy câu hai cĩ đảo trật tự ngơn ngữ thơ trong bản chữ Hán: “Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng, Hoa tàn, hoa nở cũng vơ tình” Nhà thơ vốn yêu hoa như ngầm nhắc nhở mình (và mọi người) khơng thể vơ tình với hoa nở, cũng khơng nên vơ tình với hoa tàn. Trong thơ cổ, hoa nĩi chung cũng như hoa hồng là hình ảnh của giai nhân, của tài sắc trong cuộc đời. Hoa nở, vẻ đẹp phơ bày. Hoa tàn, sắc đẹp mất đi. Một đời hoa sớm nở tối tàn thật đáng thương, đáng tiếc. Cĩ lúc vì cuộc đời lận đận, bận bịu mà “Hoa hoa nguyệt nguyệt luống vơ tình” (“Thơ tiếc cảnh – bài 4, Quốc âm thi tập). Cĩ lúc, tài sắc bị dập vùi, bị lãng quên thì hoa cũng như người đều mang hận, nỗi đau thấm thía vơ hạn. Một cánh hoa bay đi vì giĩ xuân đã mất đi ít nhiều vẻ đẹp. Một đố hoa rụng, nỗi hận như thấm vào lịng người và trời đất: “lạc hoa tương dữ hận – Đáo địa nhất vơ thanh” (Hoa rụng cùng chia hận - Tới đất khơng tiếng kêu) – Vi Thừa Khanh, đời Đường. Hoa hồng trước cửa ngục, chiều nay đã tàn rồi, nhưng hương hoa – linh hồn hoa vẫn bay đi. Hương hoa đã tìm được người yêu hoa mà thổ lộ nỗi đau, nỗi bất bình của kiếp hoa: “Hương hoa bay thấu vào trong ngục, Kể tới tù nhân nỗi bất bình”. Hạnh phúc phải được san sẻ. Nỗi đau lại càng cần được san sẻ, cảm thơng hơn bao giờ hết. Hương hoa bay vào tận trong ngục, tìm đến với tù nhân để “tố bất bình”. Hoa với người đã cĩ sự cảm thơng. Tù nhân vốn yêu hoa, vì bị giam trong ngục, bị tước đoạt mất tự do, nên lúc hoa nở, khi hoa tàn đều khơng biết, đều chẳng hay. Ngục tối lạnh lẽo đã ngăn cách đơi bạn tri âm. Hương hoa được nhân hĩa. Cuộc đối thoại, giữa hương hoa với thi nhân là sự thể hiện tài tình lịng yêu thiên nhiên với khát vọng tự do, là thái độ lên án cảnh bắt giam người một cách vơ cớ, giày xéo lên tâm hồn người. “Vãn cảnh” là một bài thơ thâm trầm, đa nghĩa. Hình tượng hương hoa nĩi lên một hồn thơ vừa cổ điển, vừa mới mẻ: Con người cần được sống trong tự do để yêu thương và quý trọng cái đẹp trong thiên nhiên và trong cuộc đời. II.5. TÂN XUẤT NGỤC HỌC ĐĂNG SƠN Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân Giang tâm như kính, tịnh vơ trần, Bồi hồi độc bộ Tây Phong Lĩnh Dao vọng Nam thiên ức cố nhân Hồ Chí Minh “Nhật ký trong tù” gồm cĩ 133 bài thơ, phần lớn là thơ tứ tuyệt. Bài thơ “Mới ra tù, tập leo núi” khơng nằm trong số 133 bài thơ ấy. Một số tài liệu cho biết, ngày 10/9/1943, tại nhà giam Liễu Châu, Hồ Chí Minh đã giành được tự do. Ra tù, chân yếu, mắt mờ, tĩc bạc. Người đã kiên trì tập luyện để phục hồi sức khỏe. Tập leo núi, và khi leo đến đỉnh núi, Bác cao hứng viết bài thơ này. Bài tứ tuyệt “Mới ra tù, tập leo núi” được Bác Hồ viết vào rìa một tờ báo Trung Quốc, kèm theo dịng chữ: “Chúc chư huynh ở nhà mạnh khỏe và cố gắng cơng tác. Ở bên này bình yên”. Ngồi mục đích bí mật nhắn tin về nước, bài thơ thể hiện một tình yêu nước và thương nhớ đồng chí, bạn bè của Hồ Chủ tịch. Hai câu đầu là hai câu thơ tuyệt bút tả cảnh sơn thủy hữu tình. Cĩ mây, núi ơm ấp quấn quýt. Cĩ lịng sơng như tấm gương trong, khơng gợn một chút bụi nào! Câu thơ dịch khá hay: “Núi ấp ơm mây, mây ấp núi, Lịng sơng gương sáng bụi khơng mờ” Ba nét vẽ chấm phá đã lột tả được cái hồn cảnh vật. Nghệ thuật sử dụng điệp ngữ, nhân hĩa và so sánh đã làm hiện lên phong cảnh sơn thủy hùng vĩ và hữu tình. Bức tranh sơn thủy được miêu tả ở tầm cao và xa, đậm đà màu sắc cổ điển. Trong bối cảnh lịch sử bài thơ ra đời, hình ảnh mây, núi, lịng sơng mang hàm nghĩa sâu sắc, tượng trưng cho tâm hồn trong sáng, cao cả và thủy chung của con người. Hai câu 3, 4 thể hiện một tâm trạng rất điển hình của người chiến sĩ cách mạng đang ở nơi đất khách quê người. Từ Tây Phong Lĩnh (Liễu Châu) đến Nam thiên là muơn dặm xa cách. Vừa leo núi, dạo bước mà lịng bồi hồi, bồn chồn, khơng yên dạ. Leo núi đến tầm cao rồi ngĩng nhìn xa (dao vọng) trời Nam, quê hương đất nước mà lịng xúc động “nhớ bạn xưa” (Ức cố nhân): “Bồi hồi dạo bước Tây Phong Lĩnh Trơng lại trời Nam nhớ bạn xưa” Ngơn ngữ thơ trang trọng, giàu biểu cảm, mỗi chữ là một nét, một mảnh tâm hồn của người chiến sĩ vĩ đại. “Bồi hồi”, “dao vọng”, “Nam thiên”, “ức cố nhân”… đĩ là tấm lịng của một con người nặng tình non nước “Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước – Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà”… (Chế Lan Viên). Ức hữu, ức cố nhân,… là cảm xúc đằm thắm được diễn tả trong nhiều bài thơ “Nhật ký trong tù”. Lúc thì “Nội thương đất Việt cảnh lầm than” (ốm nặng). Khi thì “Nghìn dặm, bâng khuâng hồn nước cũ – Muơn tơ vương vấn một sầu nay” (Đêm thu). Tĩm lại, “Mới ra tù, tập leo núi” là một bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Tình yêu thiên nhiên gắn liền với tình yêu đất nước sâu nặng. Hàm súc và mầu sắc cổ điển là vẻ đẹp của bài thơ. Sắc điệu trữ tình trong thơ Hồ Chí Minh như dẫn hồn ta ngược thời gian nhớ một vần thơ Kiều tuyệt bút, lĩng ta mãi rung động bồi hồi: “Bốn phương mây trắng một màu, Trơng vời Tổ quốc biết đâu là nhà” III. TÂM TƯ TRONG TÙ Xà lim số 1, Lao Thừa Thiên 29/4/1939. Tố Hữu “Từ ấy” - tập thơ 10 năm của Tố Hữu (1937 – 1946) hiện cĩ 72 bài thơ. Bài “Tâm tư trong tù” là bài thơ số 30, được Tố Hữu viết tại nhà lao Thừa Thiên vào cuối tháng 4 năm 1939, mở đầu cho phần “Xiềng xích” của tập “Từ ấy”. Viết theo thể thơ tự do, 4 câu đầu được nhắc lại 2 lần trở thành điệp khúc gợi tả cảnh thân tù với bao nỗi buồn cơ đơn và lịng khao khát tự do. Câu cảm thán vang lên bồi hồi đầy ám ảnh: “Cơ đơn thay là cảnh thân tù! Tai mở rộng và lịng sơi rạo rực Tơi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức Ở ngồi kia vui sướng biết bao nhiêu!” “Cảnh thân tù” là sàn lim với “mảnh ván ghép sầm u”, là nơi “lạnh lẽo bốn tường vơi khắc khổ”, là chốn “âm u” của địa ngục trần gian! Đối lập với “cảnh thân tù” là “tiếng đời lăn náo nức” – âm thanh của cuộc sống, là tiếng gọi của tự do. Một chữ “nghe” được nhắc lại nhiều lần, nhịp điệu thơ tha thiết ngân vang. Lịng yêu đời, yêu cuộc sống, niềm khao khát tự do càng trở nên sơi sục, mạnh mẽ: “Nghe chim reo trong giĩ mạnh lên triều Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về… (…) Nghe giĩ xối trên cành cây ngọn lá Nghe mênh mang sức khỏe của trăm lồi” Người chiến sĩ trẻ lần đầu bị thực dân Pháp bắt bớ, giam cầm. Hầu như suốt đêm ngày thao thức “lắng nghe” những âm thanh, “những tiếng đời lăn náo nức” lay gọi. Tâm tư xao xuyến, bồi hồi, mênh mang. Trong hồng hơn, tiếng dơi đập cánh nghe sao mà “vội vã”. Và giữa đêm khuya, một tiếng “lạc ngựa”, một cái “rùng chân”, một “tiếng guốc đi về”, tiếng “giĩ xối” - tất cả là âm thanh cuộc đời, gần gũi, thân quen, nhưng giờ đây trong cảnh thân tù những âm thanh ấy mang một ý nghĩa vơ cùng mới mẻ, đĩ là tiếng gọi tự do, là tiếng lịng sơi sục, trẻ trung và căng đầy nhựa sống. “Tâm tư trong tù” là sự thể hiện một cách chân thật, cảm động những suy ngẫm về tự do, để tự vượt mình, tự khẳng định mình của người chiến sĩ cách mạng trong xiềng xích uất hận. Phút mơ hồ về “một trời rộng rãi”, về một “cuộc đời sây hoa trái”, về “hương tự do thơm ngát cả ngàn ngày” đã bị nhà thơ tự phủ định. Cả một dân tộc đang quằn quại trong xích xiềng nơ lệ “đọa đày trong những hố thẳm khơng cùng”. Đất nước đang bị thực dân Pháp thống trị. Dù ở trong song sắt hay ở ngồi song sắt nhà tù, mỗi con người Việt Nam đều là vong quốc nơ. Nhận thức mới về tự do được diễn tả qua hai hình ảnh tương phản đầy ý nghĩa: “Tơi chiều nay, giam cấm hận trong lịng, Chỉ là một giữa lồi người đau khổ. Tơi chỉ một con chim non bé nhỏ Vứt trong lồng con giữa một lồng to” “Con chim non bé nhỏ” ấy đang bay đi trong bão táp. Cũng như trong bài thơ “Trăng trối” viết tại nhà tù Lao Bảo cuối năm 1940, Tố Hữu tự nhận mình là “tên lính mới”: “Và bên bạn, chỉ là tên lính mới – Gĩt chân tơ chưa dày dạn phong trần”. Vấn đề sống và chết được đặt ra một cách nghiêm túc, quyết liệt để khẳng định nhân cách và lẽ sống cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh tù đày. Ánh sáng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, mẫn cảm chính trị… đã giúp nhà thơ trẻ vượt lên trên một tầm vĩc mới. Khơng phải đến Tố Hữu mới cĩ bài học về “uy vũ bất năng khuất” mà từ nghìn xưa ơng cha ta, tổ tiên ta đã nêu gương sáng “ngẩng cao đầu” đi tới cho con cháu trên hành trình lịch sử. Cĩ điều, trong bài thơ này, Tố Hữu đã nối tiếp người xưa, làm rạng rỡ “mạch giống nịi”, sáng tạo nên những vần thơ mới sơi trào, hừng hực một quyết tâm chiến đấu kiên cường: “Tơi chỉ một giữa muơn người chiến đấu Vẫn đứng thẳng trên đường đầy lửa máu Chân kiên căng khơng thối bộ bao giờ!” Con đường phía trước là máu và nước mắt, là “đày ải”, là “thế giới của ưu phiền”, nhưng người chiến sĩ cách mạng vẫn sáng ngời niềm tin. Câu thơ vang lên trang nghiêm, hùng tráng như một lời thề chiến đấu: “Nơi đày ải là Đắc Pao, Lao Bảo Là Cơn Lơn, thế giới của ưu phiền? Tơi sẽ cười như kẻ sẵn lịng tin Giữ trinh bạch linh hồn trong bụi bẩn”. “Giữ trinh bạch linh hồn” là một cách nĩi “rất Tố Hữu” về giữ vững khí tiết cách mạng, lịng trung thành với Tổ quốc và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Phần cuối, âm điệu dồn dập dư ba. Ngơn ngữ thơ trùng điệp. Một quyết tâm chiến đấu và hy sinh khơng súng đạn, máy chém nào của thực dân Pháp cĩ thể khuất phục được: “Tơi chưa chết, nghĩa là chưa hết hận Nghĩa là chưa hết nhục của muơn đời Nghĩa là cịn tranh đấu mãi khơng thơi Cịn trừ diệt cả một lồi thú độc!” Khép lại bài thơ là âm thanh một tiếng cịi xa rúc gọi: “Cĩ một tiếng cịi xa trong giĩ rúc”. Đĩ là tiếng gọi lên đường đấu tranh. Như một mệnh lệnh trang nghiêm! Sống và chết vì tự do! Viết theo thể thơ mới, điệu thơ hùng hồn, mạnh mẽ, lý tưởng cách mạng, tinh thần chiến đấu hy sinh được khẳng định như một lời thề. Tâm tư trong tù phản ánh chân thực niềm khao khát tự do và dũng khí giữ vững niềm tin của người thanh niên cộng sản trong chốn tù ngục. Đĩ là phần đĩng gĩp của thơ Tố Hữu trong “Từ ấy”. Đẹp nhất, đáng khâm phục nhất là Tố Hữu đã sống và chiến đấu như thơ ơng đã viết. Đĩ là bài học về nhân sinh quan cách mạng mà hơn nửa thế kỷ sau vẫn làm chấn động hồn ta./. * VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1975 I. DIỆN MẠO VĂN HỌC TỪ CÁCH MẠNG THÁNG 8-1945 ĐẾN 1975 Hồn cảnh lịch sử - Nước ta được hồn tồn độc lập. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ ra đời. - 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Chiến thắng Điện Biên Phủ. - Đất nước bị chia cắt làm 2 miền. Kháng chiến chống Mĩ và bè lũ tay sai, để giành thống nhất Tổ quốc (1955 – 1975). Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử tồn thắng 30-4-1975. - Hai nhiệm vụ chiến lược: vừa sản xuất, vừa chiến đấu, xây dựng và bảo vệ miền Bắc hậu phương, chi viện cho miền Nam tiền tuyến lớn anh hùng. - Hiện thực cách mạng ấy đã tạo nên sức sống mạnh mẽ và phong phú của nền Văn học Việt Nam hiện đại từ sau Cách mạng tháng Tám. Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 1. Một nền văn học thống nhất chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng, phục vụ chính trị và cổ vũ chiến đấu. 2. - Một nền văn học hướng về đại chúng trước hết là cơng nơng binh. - Cơng nơng binh (nhân dân lao động) là động lực của cách mạng và kháng chiến, trong sản xuất và chiến đấu. - Một nền văn học nĩi về họ và vì họ, phản ánh tâm tư, tình cảm, ước mơ, nguyện vọng của họ. - Hình ảnh con người mới, cuộc sống mới trong thơ văn. 3. - Một nền văn học đậm đặc khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. - Đề cập những đề tài cĩ ý nghĩa lịch sử và cĩ tính chất tồn dân. - Những hình tượng anh hùng, những tính cách, sự tích anh hùng mang tầm vĩc thời đại. Giọng điệu anh hùng ca. - Lạc quan trong máu lửa, tin tưởng mãnh liệt vào tương lai tươi sáng và chiến thắng. Những nét lớn về thành tựu 1. Đội ngũ nhà văn ngày một đơng đảo, xuất hiện nhiều thế hệ nhà văn trẻ tài năng. Nhà văn mang tâm thế: nhà văn - chiến sĩ. 2. Về mặt tư tưởng - Lịng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, truyền thống anh hùng của đất nước và con người Việt Nam. - Tình nhân ái, mối quan hệ cộng đồng tốt đẹp của con người mới. - Lý tưởng Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. 3. Về mặt hình thức thể loại - Tiếng Việt hiện đại giàu cĩ, trong sáng, nhuần nhị, lối diễn đạt khúc chiết, thanh thốt - Thơ là thành tựu nổi bật nhất. Thơ anh hùng ca, thơ trữ tình. Chất trí tuệ, trong thơ. Mở rộng câu thơ. Hình tượng người lính và người phụ nữ trong thơ. - Truyện ngắn, tiểu thuyết, các loại ký… phát triển mạnh, cĩ nhiều tác phẩm hay nĩi về con người mới trong sản xuất, chiến đấu, trong tình yêu. Nghệ thuật kể chuyện, bố cục, xây dựng nhân vật… đổi mới và hiện đại… - Nghiên cứu, phê bình văn học, dịch thuật… cĩ nhiều cơng trình khai thác tính truyền thống của văn học dân tộc và tinh hoa văn học thế giới. I. HỒ CHÍ MINH 1. TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP Hồn cảnh lịch sử 19/8/1945 chính quyền ở thủ đơ Hà Nội đã về tay nhân dân ta. 23/8/1945, tại Huế trước hàng vạn đồng bào ta, vua Bảo Đại thối vị. 25/8/1945, gần 1 triệu đồng bào Sài Gịn - Chợ Lớn quật khởi đứng lên giành chính quyền. Chỉ khơng đầy 10 ngày, Tổng khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám đã thành cơng rực rỡ. Cuối tháng 8/1945, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội, lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo bản Tuyên ngơn Độc lập. Và ngày 2/9/1945; tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ, đọc bản Tuyên ngơn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, mở ra một kỷ nguyên mới Độc lập, Tự do. Bố cục 1. Cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tuyên ngơn Độc lập (Từ đầu đến “khơng ai chối cãi được”) 2. Bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp và quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta (“Thế mà hơn 80 năm nay… Dân tộc đĩ phải được độc lập!”) 3. Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa tuyên bố với thế giới (Phần cịn lại). Những điều cần biết 1. Cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tuyên ngơn Độc lập là khẳng định quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Đĩ là những quyền khơng ai cĩ thể xâm phạm được; người ta sinh ra phải luơn luơn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Hồ Chủ Tịch đã trích dẫn 2 câu nổi tiếng trong 2 bản Tuyên ngơn của Mĩ và Pháp, trước hết là để khẳng định Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng lớn, cao đẹp của thời đại, sau nữa là “suy rộng ra…” nhằm nêu cao một lý tưởng về quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do của các dân tộc trên thế giới. Cách mở bài rất đặc sắc, từ cơng nhận Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng thời đại đi đến khẳng định Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là khát vọng của các dân tộc. Câu văn “Đĩ là những lẽ phải khơng ai chối cãi được” là sự khẳng định một cách hùng hồn chân lí thời đại: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, Bình đẳng của con người, của các dân tộc cần được tơn trọng và bảo vệ. Cách mở bài rất hay, hùng hồn trang nghiêm. Người khơng chỉ nĩi với nhân dân Việt Nam ta, mà cịn tuyên bố với thế giới. Trong hồn cảnh lịch sử thời bấy giờ, thế chiến 2 vừa kết thúc, Người trích dẫn như vậy là để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, nhất là các nước trong phe Đồng minh, đồng thời ngăn chặn âm mưu tái chiếm Đơng Dương làm thuộc địa của Đờ Gơn và bọn thực dân Pháp hiếu chiến, đầy tham vọng. 2. a. Bản cáo trạng tội ác thực dân Pháp. - Vạch trần bộ mặt xảo quyệt của thực dân Pháp “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”. - Năm tội ác về chính trị: 1- tước đoạt tự do dân chủ, 2- luật pháp dã man, chia để trị, 3- chém giết những chiến sĩ yêu nước của ta, 4- ràng buộc dư luận và thi hành chính sách ngu dân, 5- đầu độc bằng rượu cồn, thuốc phiện. - Năm tội ác lớn về kinh tế: 1- bĩc lột tước đoạt, 2- độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng, 3- sưu thuế nặng nề, vơ lý đã bần cùng nhân dân ta, 4- đè nén khống chế các nhà tư sản ta, bĩc lột tàn nhẫn cơng nhân ta, 5- gây ra thảm họa làm cho hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đĩi năm

File đính kèm:

  • docon tap van 12.doc