Phân tích bài Đất nước, tác giả Nguyễn Đình Thi

Trong thi ca Việt Nam rất hiếm có, nếu như không phải là chưa từng có một bài thơ nào được sáng tác trong khoảng thời gian dài như bài thơ “Đất nước “ của Nguyễn Đình Thi. Kể từ khi nhà thơ hạ bút viết những dòng đầu tiên của bài thơ cho đến khi câu cuối cùng được hoàn thành là cả một quãng tháng năm gần trùng với những năm tháng của một cuộc trường kì kháng chiến.Hiện tượng đó hoàn toàn không phải là một sự ngẫu nhiên bởi vì ai cũng biết rằng “Đất nước “ của Ng. Đình Thi được làm nên từ những phần của hai bài thơ cũ :“Sáng mát trong như sáng năm xưa “ ( 1948 ) và “Đêm mit-tinh” ( 1949) cùng với 28 câu thơ mà mãi tới năm 1955 nhà thơ mới thêm vào. Tuy nhiên, chúng ta không thể vì thế mà vội cho rằng “Đất nước “ chẳng qua chỉ là sự chắp nối đơn giản của nhiều mảnh thơ rời. Ngược lại, khi cấy các mảnh vỡ của các bài thơ vào một cơ thể mới, nhà thơ đã làm cho tất cả các bộ phận trong bài thơ hoà hợp với nhau, để cùng nói lên một cảm hứng chủ đạo chung duy nhất. Đó sẽ không thể là một cảm hứng nào khác ngoài những suy tư và xúc cảm về đất nước.

Phần đầu tiên của bài thơ đã dành cho cảm hứng về sự thay đổi của đất nước qua Cách Mạng. Ng. Đình Thi đã có một phát hiện nghệ thuật đầy thú vị khi diễn tả sự đổi thay ấy qua hình ảnh mùa thu, không chỉ vì mùa thu vốn là mùa thơ mộng. Nhà thơ đã chọn mùa thu bởi vì hơn bất kì một khoảng thời gian nào khác, mùa thơ mộng ấy lại gắn liền với sự đổi thay của đất nước Việt Nam. Ai cũng biết rằng trước đó thu vốn là mùa của nỗi buồn, bởi chữ “ sầu “ trong tiếng Hán vẫn được cảm nhận như là nỗi buồn trước cảnh mùa thu. Nhưng từ năm 1945, mùa thu đã mang một ý nghĩa khác, mùa của Cách Mạng và do đó, nó là mùa của niềm vui. Sự thay đổi của đất nước từ buồn sang vui đã được thể hiện rõ rệt ở mùa thu nhiều hơn cả. Và như thế, phần đầu gồm hai mươi tám câu thơ, nhà thơ sẽ nói về những sự khác nhau của mùa thu giữa hai thời đại. Tuy nhiên, Ng. Đình Thi đã sáng tạo một lối vào bài thơ lý thú. Nhà thơ sẽ nói về sự khác nhau , nhưng lại bắt đầu bằng sự giống nhau, gợi ra nhau. Nhà thơ sẽ nói đến ve# đẹp của mùa thu ở mỗi thời, nhưng lại bắt đầu bằng vẻ đẹp mùa thu ở mọi thời, vẻ đẹp vĩnh hằng, muôn thuở. Chúng ta có thể thấy điều ấy trong những dòng đầu tiên của bài thơ :

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Mùa thu vương vấn lòng người trước hết về cảm giác của sự mát trong, sự mát trong của tiết thu, hơi thu. Cách diễn đạt của dòng thơ đầu trước hết là cảm giác nhà thơ nhận thấy từ mùa thu của hôm nay. Nhưng cái “ mát trong “ ấy dường như cũng đã có từ mùa thu của hôm xưa. Và vì thế, vẻ trong mát ấy mới tạo ra một sợi dây truyền cảm, một kênh liên tưởng, được thể hiện ở những chữ “ như sáng năm xưa”. Và nét đẹp nhẹ nhàng của bài thơ đã thôi thúc tác giả phải tìm cho câu thơ một âm điệu trong sáng. Nhà thơ cứ bay bay trên những tiếng có âm vực cao, và câu thơ chỉ toàn gồm những thanh ngang và thanh sắc. Chính nhu cầu đi tìm vẻ đẹp vĩnh hằng của mùa thu đã xui khiến nhà thơ chọn một thời điểm không phải là một buổi chiều hay một ban đêm như trong những vần thơ thu quen thuộc. Bởi thế những chữ “ sáng mát trong “ là cảm nhận tinh tế, độc đáo, một sự lựa chọn đúng mực. Nhà thơ đã chọn biểu hiện mùa thu trong một buổi sáng, không mất đi vẻ nhẹ nhàng trong trẻo, bảng lảng của một ngày thu nói chung, nhưng cũng không hẳn rơi vào vẻ trầm buồn của những câu thơ cũ.

Đến câu thơ thứ hai, nhà thơ đã đưa thêm vào sự gợi cảm của mùa thu một làm hương cốm thoang thoảng bay trong gió.

 

doc7 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 12370 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích bài Đất nước, tác giả Nguyễn Đình Thi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đất nước Nguyễn Đình Thi Trong thi ca Việt Nam rất hiếm có, nếu như không phải là chưa từng có một bài thơ nào được sáng tác trong khoảng thời gian dài như bài thơ “Đất nước “ của Nguyễn Đình Thi. Kể từ khi nhà thơ hạ bút viết những dòng đầu tiên của bài thơ cho đến khi câu cuối cùng được hoàn thành là cả một quãng tháng năm gần trùng với những năm tháng của một cuộc trường kì kháng chiến.Hiện tượng đó hoàn toàn không phải là một sự ngẫu nhiên bởi vì ai cũng biết rằng “Đất nước “ của Ng. Đình Thi được làm nên từ những phần của hai bài thơ cũ :“Sáng mát trong như sáng năm xưa “ ( 1948 ) và “Đêm mit-tinh” ( 1949) cùng với 28 câu thơ mà mãi tới năm 1955 nhà thơ mới thêm vào. Tuy nhiên, chúng ta không thể vì thế mà vội cho rằng “Đất nước “ chẳng qua chỉ là sự chắp nối đơn giản của nhiều mảnh thơ rời. Ngược lại, khi cấy các mảnh vỡ của các bài thơ vào một cơ thể mới, nhà thơ đã làm cho tất cả các bộ phận trong bài thơ hoà hợp với nhau, để cùng nói lên một cảm hứng chủ đạo chung duy nhất. Đó sẽ không thể là một cảm hứng nào khác ngoài những suy tư và xúc cảm về đất nước. Phần đầu tiên của bài thơ đã dành cho cảm hứng về sự thay đổi của đất nước qua Cách Mạng. Ng. Đình Thi đã có một phát hiện nghệ thuật đầy thú vị khi diễn tả sự đổi thay ấy qua hình ảnh mùa thu, không chỉ vì mùa thu vốn là mùa thơ mộng. Nhà thơ đã chọn mùa thu bởi vì hơn bất kì một khoảng thời gian nào khác, mùa thơ mộng ấy lại gắn liền với sự đổi thay của đất nước Việt Nam. Ai cũng biết rằng trước đó thu vốn là mùa của nỗi buồn, bởi chữ “ sầu “ trong tiếng Hán vẫn được cảm nhận như là nỗi buồn trước cảnh mùa thu. Nhưng từ năm 1945, mùa thu đã mang một ý nghĩa khác, mùa của Cách Mạng và do đó, nó là mùa của niềm vui. Sự thay đổi của đất nước từ buồn sang vui đã được thể hiện rõ rệt ở mùa thu nhiều hơn cả. Và như thế, phần đầu gồm hai mươi tám câu thơ, nhà thơ sẽ nói về những sự khác nhau của mùa thu giữa hai thời đại. Tuy nhiên, Ng. Đình Thi đã sáng tạo một lối vào bài thơ lý thú. Nhà thơ sẽ nói về sự khác nhau , nhưng lại bắt đầu bằng sự giống nhau, gợi ra nhau. Nhà thơ sẽ nói đến ve# đẹp của mùa thu ở mỗi thời, nhưng lại bắt đầu bằng vẻ đẹp mùa thu ở mọi thời, vẻ đẹp vĩnh hằng, muôn thuở. Chúng ta có thể thấy điều ấy trong những dòng đầu tiên của bài thơ : Sáng mát trong như sáng năm xưa Gió thổi mùa thu hương cốm mới Mùa thu vương vấn lòng người trước hết về cảm giác của sự mát trong, sự mát trong của tiết thu, hơi thu. Cách diễn đạt của dòng thơ đầu trước hết là cảm giác nhà thơ nhận thấy từ mùa thu của hôm nay. Nhưng cái “ mát trong “ ấy dường như cũng đã có từ mùa thu của hôm xưa. Và vì thế, vẻ trong mát ấy mới tạo ra một sợi dây truyền cảm, một kênh liên tưởng, được thể hiện ở những chữ “ như sáng năm xưa”. Và nét đẹp nhẹ nhàng của bài thơ đã thôi thúc tác giả phải tìm cho câu thơ một âm điệu trong sáng. Nhà thơ cứ bay bay trên những tiếng có âm vực cao, và câu thơ chỉ toàn gồm những thanh ngang và thanh sắc. Chính nhu cầu đi tìm vẻ đẹp vĩnh hằng của mùa thu đã xui khiến nhà thơ chọn một thời điểm không phải là một buổi chiều hay một ban đêm như trong những vần thơ thu quen thuộc. Bởi thế những chữ “ sáng mát trong “ là cảm nhận tinh tế, độc đáo, một sự lựa chọn đúng mực. Nhà thơ đã chọn biểu hiện mùa thu trong một buổi sáng, không mất đi vẻ nhẹ nhàng trong trẻo, bảng lảng của một ngày thu nói chung, nhưng cũng không hẳn rơi vào vẻ trầm buồn của những câu thơ cũ. Đến câu thơ thứ hai, nhà thơ đã đưa thêm vào sự gợi cảm của mùa thu một làm hương cốm thoang thoảng bay trong gió. Gió thổi mùa thu hương cốm mới. Ai cũng biết rằng hương cốm là một vẻ đẹp rất đặc trưng cho mùa thu. Nhưng mùi cốm ấy trước khi Ng. Đình Thi viết bài “ Sáng mát trong như sáng năm xưa “ (1948) thì hình như cũng chưa mấy thi nhân quan tâm đến. Vì thế với câu thơ thứ hai này, Ng. Đình Thi đã đem lại cho thơ thu một làn hương mới mẻ, một vẻ hấp dẫn lạ lùng. Và như thế, trong hai câu thơ đầu tiên, chúng ta sẽ không gặp một hình thu, một sắc thu hay một tiếng thu nào cụ thể . Hình như Ng. Đình Thi chỉ muốn quan tâm vào những gì thuộc về bên trong, nằm ở đâu đó, bảng lảng ở đâu đó trong bầu không khí của mùa thơ mộng ấy, một vẻ đẹp vô hình, vô thanh, vô sắc nhưng không vì thế mà mất đi khả năng vương vấn kì lạ trong lòng người đọc. Sức hấp dẫn huyền diệu thế còn được làm nên bởi kiến trúc âm thanh của câu thơ. Dòng thơ thứ hai này được nhà thơ tổ chức theo cách tạo ra rất nhiều khoảng trống giữa các từ ngữ để chờ người đọc tự lấp đầy bằng những xúc cảm tưởng tượng, khiến chúng ta liên tưởng đến một câu thơ trong Tây Tiến: Mai Châu mùa em thơm nếp xôi Và như thế, cấu trúc ngữ pháp của những từ ngữ trong câu thơ lại không thật tường minh. Đã không ít người tiếc cho Ng. Đình Thi khi nhà thơ không giữ lại câu thơ tiếp theo trong bài thơ “ Sáng mát trong...” Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em Dường như nhà thơ đã hoài phí khi bỏ đi một câu thơ rất thơ để thay vào bằng một câu thơ bị coi là xoàng xĩnh hơn nhiều : Tôi nhớ những ngày thu đã xa Dĩ nhiên câu thơ cũ quả là có chất thơ, hồn thơ mà câu thơ sau không dễ gì sánh được. Thế nhưng xét về một mặt khác, và là mặt quan trọng hơn thì câu “ Tôi nhớ những ngày thu đã xa “ lại làm được điều mà “ Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em “ không thể nào làm nổi. Bởi chỉ có câu thơ “ Tôi nhớ những ngày thu đã xa “ với một âm điệu man mác, bâng khuâng và ý nghĩa hoài niệm rõ ràng thì nhà thơ mới có thể ngả một nhịp cầu liên tưởng để qua đó có thể từ hiện tại mà trở về với quá khứ, từ mùa thu của hôm nay để trở về với một sáng thu xưa, với những ngày thu nào đã xa xôi lắm. Như vậy câu thơ biểu hiện được cảm hứng về một sự đổi thay. Và rồi buổi sáng năm xưa sẽ hiện lên bằng xúc cảm, bằng hình ảnh để làm nên những câu thơ vào loại hay nhất, vương vấn lòng người đọc nhiều nhất, có sức gợi cảm bền lâu nhất trong toàn bộ bài thơ. Chúng ta sẽ gặp ở đây một hình ảnh mùa thu trong nỗi nhớ, mùa thu của thị thành, một hình ảnh thu mà vào lúc ấy còn chưa kịp trở nên quen thuộc đối với thi ca. Mùa thu ấy như một lẽ tất nhiên cũng phải bắt đầu bằng một buổi sáng, và buổi sáng cũng “ mát trong “ , cái trong mát của mùa thu. Nhưng trong xúc cảm của nhà thơ, “ sáng mát trong “ấy đã ngả sang chớm lạnh. Chỉ thêm một chút lạnh thôi nhưng gam cảm xúc của dòng thơ so với trước đây dường như đã thay đổi hẳn, câu thơ phảng phất một cảm giác buồn, một nỗi buồn từ bên trong. Vì nhà thơ không nói đến một cảm giác “ từ Hà Nội “ mà lại là “ trong lòng Hà Nội “ . Hà Nội giống như một cơ thể, một tấm lòng. Câu thơ thứ hai vẫn mang đậm chất Hà Nội chính ở sự tinh tế ấy. Ở câu thơ trên, nhà thơ nhắc đến “ sáng chớm lạnh “ thì ở câu thơ dưới cũng chỉ là một chút “ hơi may “ chứ không hẳn là gió heo may. Không phải là gió heo may nhưng lại là chút hơi may loang thấm cái se sắt, tái tê, dọc theo những lòng phố vắng người. Chẳng phải ngẫu nhiên là Ng. Đình Thi không viết “những phố phường“ mà là “những phố dài“ , vì nhà thơ muốn thể hiện sự dài trong tâm tưởng, vì phố dài thì cảm giác quạnh vắng, đìu hiu lại càng thêm thấm thía. Đến câu thơ thứ ba thì hình ảnh con người đã xuất hiện, nhưng đó là hình ảnh một con người đã ra đi. Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy. Thế nhưng câu thơ về người ra đi ấy cứ mang một vẻ hào hoa của người Hà Nội, của đất Hà Thành. Dễ thấy trong hình ảnh con người cứ phảng phất một phong vị Kinh Kha – “ Nhất khứ bất phục hoàn “, một cốt cách của một lãng tử, một chinh nhân : ra đi mà không nghĩ đến ngày trở lại. Nhiều người vẫn cho rằng câu thơ gợi ra bóng dáng những chiến sĩ trung đoàn Thủ Đô rời Hà Nội lên chiến khu tiếp tục tham gia kháng chiến. Song khó có thể đồng tình với một cách kiến giải như vậy. Đơn giản bởi không có một chiến sĩ trung đoàn Thủ đô nào có thể ra đi vào một buổi sáng mùa thu. Sự thật là họ đã rời thủ đô vào tháng 2 năm 1947 và vào một đêm khuya. Chỉ có thể hiểu hình ảnh những con người ấy như một phần của bức tranh về một mùa thu ly biệt. Cảnh biệt ly hiện ra đầy vẻ gợi cảm với hình ảnh của những chiếc là mùa thu “ rơi đầy “ trên “thềm nắng”. Và như thế, có một sự chia cách giữa con người và cảnh vật, giữa người chia ly ấy với cảnh sắc quê hương. Chúng ta có thể bắt gặp trong những dòng thơ một hình ảnh Hà Nội rất đẹp. Nhưng quan trọng hơn ,trong cách diễn đạt của nhà thơ, thiên nhiên ấy chỉ có thể đẹp sau lưng người ra đi và đã không quay đầu trở lại.Hai câu thơ ấy đã vẽ ra một bức hoạ tuyệt vời về một đất nước ở vào thời điểm vẫn còn chưa thuộc về con người, chưa phải của nhân dân, chưa là của chúng ta. Mảng thơ tiếp theo được mở đầu bằng một câu thơ có thể không thật nhiều chất văn chương nhưng lại có một ý nghĩa hết sức quan trọng, được đặt trong kết cấu : mùa thu nay khác rồi: Mùa thu nay khác rồi Những câu thơ như báo trước với chúng ta rằng những dòng thơ tiếp theo của đoạn thơ sẽ nói về một mùa thu và một đất nước khác hẳn với mùa thu và đất nước được nói đến ở trong bốn câu thơ trước. Sự đổi thay có thể nhận ra ngay từ những câu thơ tiếp đó. Hình ảnh con người hiện ra từ đầu bởi sự có mặt của chữ “ tôi” : Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi và con người ấy đã được Ng. Đình Thi đặt trong thế không phải quay lưng mà là đối diện cùng cảnh vật, đặt trong trung tâm của bức tranh về thiên nhiên đất nước.Và tình cảm chủ đạo trong dòng thơ cũng được nhà thơ xác định một cách hết sức rõ rệt với chữ “vui“ được đặt ở một vị trí rất nổi bật giữa câu thơ. Ở những câu thơ sau, niềm vui ấy đã thực sự hiện lên thành hình ảnh, ùa ra trên cảm xúc, Gió thổi rừng tre phấp phới khiến người đọc có thể liên tưởng đến một câu thơ tuyệt hay của cụ Tam nguyên Nguyễn Khuyến: Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu Ng. Đình Thi cũng nói về gió mùa thu thổi vào tre trúc nhưng tình cảm và biểu hiện mà tác giả thổi vào đó thì khác hẳn. Không phải là một ngọn gió thu hiu hắt mà là cả một luồng gió lồng lộng. Nhưng cũng không chỉ là một luồng gió khẽ lay động trên một cần trúc thưa thớt lá. Luồng gió ấy thổi vào cả một rừng tre, mạnh mẽ, lớn lao đủ để làm cho rừng tre ấy như náo động hẳn lên với muôn ngàn những chiếc lá tre phấp phới như đang reo mừng. Cảm giác hân hoan chưa hề thấy trong những câu thơ về mùa thu trước đó. Niềm vui sướng hân hoan sẽ được nhà thơ nhìn ra trên hình ảnh của bầu trời, lan toả đến bầu trời làm cho trời thu cũng như đổi khác. Trời thu thay áo mới Trong biếc nói cười thiết tha Hình ảnh tấm áo thu xuất hiện đã không còn là tấm áo mơ phai trong thơ Xuân Diệu xưa kia mà giờ đây mang màu “ trong biếc “. Chữ “ trong “ cứ gợi ra cảm giác “ sáng mát trong” như ở dòng thơ đầu, nhưng chính chữ “ biếc “ ấy lại làm cho bầu trời thu hôm nay khác hẳn với một sáng mát lạnh của năm xưa. Nhà thơ đã thêm cho vẻ thu một chút tươi đẹp hơn, làm cho người như ngây ngất hơn. Và cảm giác “ trong biếc “ khi lên đến tột độ, nhà thơ sẽ có cảm giác rằng từ bầu trời trong trẻo kia như đang lấp lánh những tiếng “ nói cười “ , những âm thanh của niềm vui. Cội nguồn của những niềm vui ấy sẽ được Ng. Đình Thi lý giải trong một loạt những câu thơ ở những khổ thơ sau . Hình ảnh đất nước ào ạt hiện về, dồn dập xuất hiện trong những dòng thơ tiếp nối này và hình ảnh nào cũng mênh mông, lớn rộng. Không chỉ là những con phố, những bậc thềm đầy lá rụng trong lòng một Hà Nội lặng thầm. Đất nước bây giờ cứ trải mãi ra trên chiều dài, chiều rộng với những “ngả đường”. Không phải là những “ con đường” mà phải là “ ngả đường “để đường mở ra thêm rộng rãi, trở thành điểm bắt nguồn mở ra với muôn vàn những điều không thể biết được ở phía trước. Và cũng không phải là những “ dòng sông xanh” mà là những “ dòng sông đỏ “để dễ gợi một liên tưởng đến con sông Hồng “đỏ nặng phù sa”. Nhưng điều quan trọng hơn chính bởi : đất nước, những hình ảnh thân thương ấy giờ đây đã là “ của chúng ta “. Ba tiếng ấy vang lên sao mà tha thiết, sao mà tự hào. Điệp khúc “ của chúng ta “ xuất hiện liên tiếp, trở đi trở lại : Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm mát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa và những câu thơ đã trở thành bản giao hưởng của ngôn từ. Những âm thanh căng đầy, vang động, chói chang với những âm “ a”, nguyên âm mở nhất của tiếng Việt cứ ngân nga mãi. Và khi mà bản giao hưởng ấy đã lên đến đỉnh cao của âm thanh: Những ngả đường bát ngát thì nhạc điệu của câu thơ bất ngờ trầm xuống trong dòng thơ nói về hình ảnh những con sông. Sự thay đổi đột ngột ấy mở ra cả một không gian cảm xúc. Nhưng sự chùng xuống trong những câu thơ về những dòng sông chỉ là một sự lấy đà, bởi ngay sau đó, nhạc điệu thơ lại vút cao lên với một giọng thơ có tới hai thanh sắc chỉ trong ba chữ “ nước chúng ta “.Điệp khúc “ chúng ta “ , cảm giác “ của chúng ta “đã quay trở lại nhưng hình như còn mạnh mẽ hơn nữa, bao trùm hơn nữa bởi không chỉ là rừng xanh, đồi núi, ruộng đồng, những con đường hay những dòng sông mà là một ý niệm bao trùm nhất, cao cả nhất : nước chúng ta. Nhưng một cấu trúc ý tứ và âm thanh như thế, dòng thơ “ nước chúng ta “ hiện lên ngời ngời trên đỉnh cao vút của một niềm tự hào dân tộc. Đến những dòng thơ sau, ấn tượng về sự vút cao vẫn còn đầy sức ám ảnh với chữ “ nước” ở đầu và chữ “ khuất “ở cuối câu : Nước những người chưa bao giờ khuất làm nên những khuôn vần mạnh mẽ, rắn rỏi, đanh thép. Nhưng nhà thơ đã kịp đặt vào giữa dòng thơ những chữ “ chưa bao giờ “đưa mạch thơ đến một hướng nhìn khác, một cái nhìn đi vào chiều sâu thẳm của trục thời gian, của lịch sử. Nhà thơ đã đưa cảm nhận về đất nước vào một hướng nhìn mà thơ ca Việt Nam trong những năm tháng ấy vẫn còn ít có. Và theo đà cảm xúc ấy, hai câu thơ tiếp đó sẽ chuyển hẳn về chiều sâu, cảm xúc sẽ được đưa hẳn về phía lịch sử và truyền thống. Xúc cảm bao trùm sẽ không còn là xúc cảm về sự trong sáng, sẽ không bay lên trong đôi cánh của niềm vui hiện tại. Bây giờ những xúc cảm của câu thơ ấy sẽ chìm đắm vào một cảm giác thiêng liêng. Chính cảm giác thiêng liêng ấy đã hướng Nguyễn Đình Thi tìm đến bóng tối của một ban đêm, mà lại là “đêm đêm “ , không chỉ để hoàn toàn biểu hiện cảm giác về số nhiều, về sự thường xuyên cứ trở đi trở lại mà còn hoà hợp với những chữ khác của câu thơ để tìm đến cảm giác về một sự mơ hồ, một ấn tượng linh thiêng rất cần phải có. Đó là lý do để sau từ láy “đêm đêm “ sẽ lại là một từ láy khác “ rì rầm “ - diễn tả một âm thanh không chỉ nhỏ mà còn không thật rõ ràng, như phát ra từ một cõi thẳm sâu nào đó. Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất Những tiếng “ rì rầm “ ấy như vẳng lên từ đất, nhưng nhà thơ không viết “trong lòng đất” mà là một sự kết hợp giữa “ tiếng “ - chỉ âm thanh với “đất “ vốn thường câm lặng. Và như thế “đất “đã vượt ra ngoài phạm vi ý nghĩa của một dạng vật chất thông thường mà trở thành tinh thần, linh hồn, tình cảm, thành đất Mẹ, nơi lưu giữ những hồn thiêng của cha anh. Cảm giác ấy sẽ được làm rõ hơn nữa trong câu thơ dưới đó. Những buổi ngày xưa vọng nói về Những tiếng ấy chính là những tiếng của “ ngày xưa”, của lịch sử, của truyền thống tổ tiên, và âm thanh ấy đến với hiện tại từ một nơi nào sâu xa trong không gian và trong cả thời gian, đủ khiến nhà thơ có thể đặt một chữ “vọng” trước chữ “ nói về “.Đó là chưa kể “ vọng “ cùng với những chữ “ buổi ngày xưa” góp phần làm cho giọng thơ trầm xuống để trở thành tiếng nói trầm tư, trầm lắng, trầm ngâm của một con người đang ngẫm nghĩ, thấm thía rất sâu xa về sự “âm phù “ của quá khứ đối với hiện tại. Và như thế vẫn có hình bóng của người xưa trong sự đổi thay của đất nước hôm nay. Phần sau của bài thơ bao gồm những câu thơ được viết chắc chắn, dồn nén với những câu thơ có nhiều tìm tòi về kĩ thuật, làm nên bức tranh hoàn chỉnh về một chặng đường phát triển của đất nước trong chiến tranh. Trong bảy khổ thơ, gây ấn tượng nhiều nhất là khổ thơ đầu tiên và hai khổ cuối cùng. Những câu thơ của khổ thứ nhất, tác giả đã có những tìm tòi khá thành công làm cho câu thơ có sức tạo hình. Hình ảnh thơ được nhà thơ thể hiện như một cái nhìn từ một điểm rất thấp hướng lên cao. Trước con mắt nhà thơ là hình ảnh bầu trời và buổi hoàng hôn, và ráng chiều đỏ rực làm Ng. Đình Thi liên tưởng đến dòng máu chảy Ôi những cánh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều. Nhà thơ cảm thấy đây là máu chảy từ những “ cánh đồng quê “ thanh bình êm ả , sự chảy máu của quê hương đất nước thân thương. Hình ảnh “ dây thép gai “ in lên bầu trời được nhà thơ cảm nhận như chính nó làm cho bầu trời quê hương rỉ máu. Nhà thơ đã sáng tạo nên một hình ảnh rất lạ. Câu thơ dựng trước mắt ta một bức tranh vừa rất thực lại mang ý nghĩa biểu tượng. Câu thơ “ Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu “ dễ làm người ta liên tưởng tới một tứ thơ tương tự trong bài Tây Tiến : Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm bởi nó cũng gợi ra vẻ đẹp hào hoa như thế, riêng như thế của những chàng trai trẻ trung đi vào kháng chiến với những ấn tượng đậm chất học trò. Hình ảnh đau thương cũng được nói đến khá đầy đủ ở đây. Tội ác của kẻ thù được lột tả trong một hình ảnh mạnh mẽ, siết chặt của những câu thơ sáu chữ : Bát cơm chan đầy nước mắt Bay còn giằng khỏi miệng ta Những hình ảnh thơ chắc khỏe, quánh lại khiến cho câu thơ đạt tới ý nghĩa biểu tượng. Trong hai khổ thơ cuối cùng ấy, Ng, Đình Thi luôn luôn tìm cách dồn nén rất nhiều nội dung vào trong rất ít ngôn từ. Những ngày kháng chiến gian khổ được nhà thơ cô đúc lại chỉ trong những dòng thơ bảy chữ, có cả “ ngày” và “đêm”, cả “mưa” và “nắng”. Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội Và như thế, nhà thơ đã nói đến tất cả những cực nhọc, khó khăn của những ngày nắng chỉ trong một chữ “đốt” và của một đêm mưa chỉ với một chữ “ dội”. Ở những câu thơ sau cũng vậy, Ng. Đình Thi nói đến sự hi sinh, nhưng theo cách đó là một sự hi sinh rất lớn và người đọc nhận ra điều đó từ những cái có thể gọi là rất nhỏ. Tác giả gợi ra ý nghĩ về cả một con đường chiến tranh lớn lao nhưng qua mỗi “ bước đường” nhỏ. Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh Vì thế cảm giác về sự hi sinh trở nên mạnh mẽ, lớn lao hơn. Nhưng dồn nén chỉ là một cách thức để nhà thơ thực hiện mục đích cuối cùng của mình. Năng lượng trong thơ được nén chặt để rồi bùng nổ trong xúc cảm của nhà thơ và người đọc trong những dòng tiếp đó. Những câu viết trầm hùng, những câu thơ mà nghệ thuật anh hùng ca đã đạt tới mức có thể coi là mẫu mực. Bởi ở đó, nhà thơ đã đặt hình ảnh của con người trong tương quan với sự vĩ đại của thiên nhiên. Cả một trời đất mới đang cháy lên chỉ trên một vầng trán suy tư và ánh bình minh dường như có thể chứa đựng trong một tâm hồn. Trán cháy rực nghĩ trời đất mới Lòng ta bát ngát ánh bình minh Con người ấy trở nên vĩ đại, bởi họ là những con người của thời đại mới, và bởi ánh sáng “bình minh” được nói đến không gì khác là ánh sáng của thời đại mới khi chúng ta đã chiến thắng quân thù. Nhưng năng lượng thơ còn được dồn nén chặt hơn trong khổ thơ cuối cùng, bởi số chữ đã được giảm đi chỉ còn sáu chữ trong một dòng.Song sức mạnh trong câu thơ không hề giảm, mà sức căng trong những câu thơ nhờ sự dồn nén ấy mà lại căng thêm. Những câu thơ như là sự lắng đọng trong tâm hồn tác giả. Những xúc cảm rất lớn lao có nguồn gốc từ những gì mà Ng. Đình Thi đã cảm thấy trong những ngày cuối cùng của Điện Biên lịch sử.Chúng ta có thể cảm nhận được sự âm vang của những ngày chiến thắng trong câu thơ Súng nổ rung trời giận dữ Và sau âm thanh ấy lại là hình ảnh dạt dào “ Người đi như nước vỡ bờ”, người đi trong cái thế mạnh mẽ, dữ dội của một dòng nước từ lâu đã bị kìm nén. Cả một cảnh tượng về một trận chiến thắng vĩ đại nhất của một cuộc trường kì kháng chiến đã được Ng. Đình Thi đúc lại chỉ trong mười hai chữ : Nước Việt Nam từ máu lửa Rũ bùn đứng dậy sáng loà Cũng như khổ thơ trên, trong khổ thơ thứ bảy này, hai câu trên nén chặt nhưng là để cho hai câu dưới có thể thăng hoa. Nhà thơ kể rằng hình ảnh “ rũ bùn đứng dậy sáng loà “ trong câu thơ là một hình ảnh có thật mà nhà thơ đã nhìn thấy trong những ngày cuối cùng của trận Điện Biên - hình ảnh người chiến sĩ đứng vụt lên từ dưới chiến hào. Nhưng điều thú vị ở đây là Ng. Đình Thi đã biến chủ thể của “ rũ bùn đứng dậy” sẽ không phải là cá nhân người chiến sĩ mà là cả “ nước Việt Nam”. Hình ảnh Tổ Quốc hiện lên qua một con người chiến thắng. Và những câu thơ sẽ ghi khắc vào trong kí ức của người đọc thơ với vẻ trầm hùng. Nhịp thơ nằm trong xúc cảm nén xuống, tạo ra cảm giác chờ đợi đầy sức nặng Nước Việt Nam / từ máu lửa Rũ bùn / đứng dậy / sáng loà Bất ngờ đến hai chữ cuối cùng, tất cả bỗng nhiên toả sáng, thăng hoa khi nhà thơ viết “ sáng loà ”, thứ ánh sáng thiêng liêng, ngây ngất đến mức con người còn không kịp nhìn thấy gì ngoài ánh sáng của một đất nước Việt Nam chiến thắng. Xúc cảm của đất nước Việt Nam vĩ đại, anh hùng trong câu thơ đến đây mới thật sự lên đến đỉnh điểm, và cũng để kết thúc một bài ca đẹp về “Đất Nước” của Ng. Đình Thi.

File đính kèm:

  • docLuyen thi Dat nuoc Nguyen Dinh Thi.doc