Phân tích bài thơ duyên của Xuân Diệu

- Nhận thức chung:

- Rất nhiều người đã nhận thấy: nếu đặt Thơ duyên vào toàn bộ sáng tác của Xuân Diệu trước CM thì nó sẽ là một trong số ít bài đứng bên lề các sáng tác của ông. Bởi vì thơ Xuân Diệu trước CM nói chung là u sầu, buồn bã, cô đơn. vậy mà Thơ duyên không có một chút gì những thứ đó. Thơ duyên là tiếng thơ yêu đời, ấm áp, là tiếng lòng gắn bó với cuộc đời, với con người và tạo vật.

- Điều này rất khó phủ nhận, bởi thơ Xuân Diệu trước CM đúng là thơ u sầu, buồn bã cô đơn thật. Tuy nhiên nếu xét kỹ, phải thấy bản chất thơ Xuân Diệu trước CM cho dù có u sầu cô đơn vẫn là thơ của lòng yêu đời, ham sống đến si mê. Chính vì vậy hình ảnh cuộc đời qua lăng kính hồn thơ Xuân Diệu mới đẹp đẽ như một thiên đường đầy hoa thơm trái ngọt vậy. Chỉ có điều khát vọng sống, khát vọng yêu của cái tôi ấy được thỏa mãn đến đâu lại là điều nằm ngoài ý muốn chủ quan của nhà thơ. Đó là mâu thuẫn không thể dung hoà. Vậy nên hiểu cái u sầu u uất của Xuân Diệu là hệ quả tất yếu của lòng ham sống. Khi tâm hồn ham sống ấy không gặp mảnh đất để sinh sôi nảy nở.

- Nếu để nhận xét về phong cách thơ Xuân Diệu trong bài này lại phải thấy, tâm hồn Xuân Diệu là sự kết hợp hai trạng thái dường như trái ngược nhau: Sự sôi sục tràn đầy và sự tinh tế, duyên dáng. Nếu trạng thái thứ nhất tạo ra những bài thơ sôi nổi cuồng nhiệt như Vội vàng, Xa cách, Giục giã. thì trạng thái thứ hai lại tạo ra những bài thơ tinh tế nhạy cảm như Đây mùa thu tới, Nhị hồ, Nguyệt cầm. Nhà phê bình Hoài Thanh đã nhận xét: “Sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã biểu hiện ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi” (Thi nhân Việt Nam). Như thế thực ra hai trạng thái dường như trái ngược kia ở Xuân Diệu vẫn là một tâm hồn nhất quán. Thơ duyên là một trường hợp rất tiêu biểu cho cái đặc sắc của tâm hồn và lối xúc cảm của Xuân Diệu.

Cho nên ở Xuân Diệu không phải chỉ có cái khát khao giao cảm mà còn có năng lực giao cảm kỳ diệu với thế giới xung quanh. Cho nên Thơ duyên mới chính là bài thơ đã bắt vào cái nguồn mạch thơ của Xuân Diệu: là thế giới của sự giao cảm là năng lực giao cảm và hoà điệu - hoà điệu của thiên nhiên và giao cảm của con người.

Có hiểu như thế mới thấy tính nhất quán của một dòng chảy trong các bài thơ Xuân Diệu. Dù là Đây mùa thu tới, Vội vàng hay Thơ duyên đều chảy từ một nguồn cội Xuan Diệu.

 

doc12 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 10695 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích bài thơ duyên của Xuân Diệu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thơ Duyên - Xuân Diệu - I - Kiến thức cơ bản - Nhận thức chung: - Rất nhiều người đã nhận thấy: nếu đặt Thơ duyên vào toàn bộ sáng tác của Xuân Diệu trước CM thì nó sẽ là một trong số ít bài đứng bên lề các sáng tác của ông. Bởi vì thơ Xuân Diệu trước CM nói chung là u sầu, buồn bã, cô đơn... vậy mà Thơ duyên không có một chút gì những thứ đó. Thơ duyên là tiếng thơ yêu đời, ấm áp, là tiếng lòng gắn bó với cuộc đời, với con người và tạo vật. - Điều này rất khó phủ nhận, bởi thơ Xuân Diệu trước CM đúng là thơ u sầu, buồn bã cô đơn thật. Tuy nhiên nếu xét kỹ, phải thấy bản chất thơ Xuân Diệu trước CM cho dù có u sầu cô đơn vẫn là thơ của lòng yêu đời, ham sống đến si mê. Chính vì vậy hình ảnh cuộc đời qua lăng kính hồn thơ Xuân Diệu mới đẹp đẽ như một thiên đường đầy hoa thơm trái ngọt vậy. Chỉ có điều khát vọng sống, khát vọng yêu của cái tôi ấy được thỏa mãn đến đâu lại là điều nằm ngoài ý muốn chủ quan của nhà thơ. Đó là mâu thuẫn không thể dung hoà. Vậy nên hiểu cái u sầu u uất của Xuân Diệu là hệ quả tất yếu của lòng ham sống. Khi tâm hồn ham sống ấy không gặp mảnh đất để sinh sôi nảy nở. - Nếu để nhận xét về phong cách thơ Xuân Diệu trong bài này lại phải thấy, tâm hồn Xuân Diệu là sự kết hợp hai trạng thái dường như trái ngược nhau: Sự sôi sục tràn đầy và sự tinh tế, duyên dáng. Nếu trạng thái thứ nhất tạo ra những bài thơ sôi nổi cuồng nhiệt như Vội vàng, Xa cách, Giục giã... thì trạng thái thứ hai lại tạo ra những bài thơ tinh tế nhạy cảm như Đây mùa thu tới, Nhị hồ, Nguyệt cầm... Nhà phê bình Hoài Thanh đã nhận xét: “Sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã biểu hiện ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi” (Thi nhân Việt Nam). Như thế thực ra hai trạng thái dường như trái ngược kia ở Xuân Diệu vẫn là một tâm hồn nhất quán. Thơ duyên là một trường hợp rất tiêu biểu cho cái đặc sắc của tâm hồn và lối xúc cảm của Xuân Diệu. Cho nên ở Xuân Diệu không phải chỉ có cái khát khao giao cảm mà còn có năng lực giao cảm kỳ diệu với thế giới xung quanh. Cho nên Thơ duyên mới chính là bài thơ đã bắt vào cái nguồn mạch thơ của Xuân Diệu: là thế giới của sự giao cảm là năng lực giao cảm và hoà điệu - hoà điệu của thiên nhiên và giao cảm của con người. Có hiểu như thế mới thấy tính nhất quán của một dòng chảy trong các bài thơ Xuân Diệu. Dù là Đây mùa thu tới, Vội vàng hay Thơ duyên đều chảy từ một nguồn cội Xuan Diệu. Kiến thức cơ bản cần nắm: 1/ Sự hoà điệu và giao cảm giữa thiên nhiên và con người Sự hoà điệu của thiên nhiên: - Sự vật gắn bó với nhau trong sự cặp đôi (chiều mộng nhánh duyên, cây me, cặp chim chuyền…) - Thiên nhiên hoà điệu vì được cảm nhận qua tâm trạng “lần đầu rung động nỗi thương yêu” [phân tích cách dùng từ, (chiều mộng nhánh duyên, cây me, cặp chim chuyền, con đường nho nhỏ, gió xiêu xiêu…)] Sự giao cảm của con người: - Thiên nhiên là bối cảnh là khúc nhạc đêm để làm nổi bật bản tình ca say đắm của con người (Mặc dù nhiều câu thơ nói về thiên nhiên nhưng con người mới là chủ thể) - Niềm giao cảm của con người bền chặt hơn huyền diệu hơn cả thiên nhiên nhưng con người mới là chủ thể (lúc đầu là vô tâm nhưng sau đó là hữu tình, lúc đầu là lòng ta ý bạn nhưng sau đó là lòng anh cưới lòng em. Phân tích cái hay của cách dùng từ; dùng hình ảnh cặp vần, “lòng anh cưới lòng em” 2/ Sự thể hiện niềm yêu cuộc sống bằng hồn thơ mãnh liệt, tinh tế Viết về chiều thu nhưng không buồn mà rạo rực niềm vui : - Thơ xưa viết về chiều thu vào buổi chiều thường buồn (nỗi buồn cộng hưởng) - Chiều thu trong thơ duyên không buồn, chan hoà ánh sáng và âm thanh Sự cảm nhận tinh tế của 1 hồn thơ khát khao yêu đời yêu cuộc sống đến mãnh liệt - Cảnh vật đều có hồn, có tâm trạng (từ 1 cái nhìn tinh tế của nhà thơ) - Phát hiện ra sức sống bên trong của sự vật. Phân tích hình ảnh cánh cò trong thơ Duyên ( có so sánh với hình ảnh cánh cò trong thơ Vương Bột đời Đường, lưu ý tới lời bình của Hoài Thanh). II - Gợi ý phân tích 1. ý nghĩa nhan đề của thơ Duyên: - “Duyên” chứ không phải là “tình”, “duyên” là nguyên cớ, nguyên do dẫn đến mối quan hệ. “Duyên” là ngẫu nhiên là vô tình mà dẫn đến sự gắn bó trong tình yêu, sự gắn bó bền chặt vì vậy mà càng thú vị. - Thơ duyên chứ không phải thơ tình bởi bài thơ không đơn thuần nói về tình yêu lứa đôi, cái duyên mà tác giả nói tới có ý nghĩa rộng hơn. Đó là cái duyên của thiên nhiên với thiên nhiên, của thiên nhiên với con người và của con người với con người. Vậy mà rất nhiều người vẫn đồng nhất Thơ duyên với thơ tình. Thực ra duyên phải được hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm cả tình trong đó (duyên trong thơ HXH: “Có phải duyên nhau thì thắm lại…” duyên trong Nguyễn khuyến: “Kính yêu từ trước đến sau – Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời”(Khóc Dương Khuê). Hoặc trong thơ cổ: “Hữu duyên thiên lý…” thì khái niệm duyên đã được mở rộng cho nhiều cuộc tao ngộ tương phùng. Trong bài Thơ duyên, cảm hứng của tác giả có thể bắt đầu từ tình yêu, nhưng nó chỉ là điểm nhìn để từ đó phát hiện ra bao mối tơ duyên hoà hợp, phát hiện ra thế giới của hoà điệu và giao cảm – sự hoà điệu của thiên nhiên và sự giao cảm của con người. 2. Phân tích giá tri tác phẩm: a) Kết cấu: Mạch cảm xúc đI từ sự bén duyên nhau giữa tạo vật với tạo vật khiến con người cũng xích lại bên nhau. ậ đây cảnh tác động, lây lan cảm xúc sang người. Khác hẳn với các trường hợp khác nghĩa là cảm xúc con người lây lan sang cảnh. Tâm trạng vui buồn của người phủ sang cảnh khiến cảnh buồn theo. Đối với Thơ duyên chúng ta có thể chọn cả hai cách tiếp cận là bổ ngang hoặc bổ dọc. - Nếu bổ ngang cắt từng khổ một ta thấy: + Khổ 1: cảnh vật mùa thu tươI tắn, rộn ràng, thơ mộng + Khổ 2: Cảnh như xui khiến con người (ta và bạn) để ý nhau. + Khổ 3: hai người (anh và em) tưởng như vô tâm nhưng thực ra đã tạo thành một cặp vần giữa bài thơ dịu. + Khổ 4: Cảnh trong chiều mộng đẫ ngả hoàng hôn, trời thấm lạnh, ngẩn ngơ lúc giáp ranh sáng tối khiến con người không thể vô tâm được nữa mà như hữu ý với nhau, tìm nhau và gắn bó cùng nhau. + Khổ 5: Hai tâm hồn hòa làm một - Nếu bổ dọc khai thác trên 2 ý lớn: hoà điệu của thiên nhiên và sự giao cảm của con người (Trong đó: Mối liên tự nhiên bên trong giữa vạn vật (khổ 1, 4), giữa vạn vật với con người (khổ 2), giữa con người với con người (khổ 3, 5) ở đây chúng ta chọn cách bổ ngang: - Phân tích khổ 1 Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên, Cây me ríu rít cặp chim chuyền. Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá, Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền. Khi phân tích thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu, phải thấy thiên nhiên ấy bao giờ cũng đầy sức sống, luôn rạo rực và không tồn tại biệt lập mà luôn tìm đến với nhau để giao cảm, hay chính xác là để giao hoà tình tự: Dù là buổi tối: Một tối bầu trời đắm sắc mây, Cây tìm nghiêng xuống nhánh hoa gầy, Hoa nghiêng xuống cỏ trong khi cỏ Nghiêng xuống làn rêu, một tối đầy. (Với bàn tay ấy) Hay một sớm mai giữa vườn xuân: ánh sáng ôm trùm những ngọn cao Cây vàng rung nắng, lá xon xao; Gió thơm phơ phất bay vô ý Đem đụng cành mai sát nhánh đào. (Nụ cười xuân) Như vậy dù ở đâu và lúc nào thiên nhiên ấy cũng nồng nàn say đắm. Đây chính là cái tôi bản ngã của Xuân Diệu. Bởi XD khi vui hay buồn cũng đều nồng nàn da diết. Đặc biệt đối với thiên nhiên ông càng nồng nàn say đắm hơn bao giờ hết. Câu 1: Mở đầu bài thơ là một khung cảnh buổi chiều thu thật đẹp và thơ mộng. Hình ảnh đầu tiên mà chúng ta bắt gặp ở khổ đầu là “chiều mộng”. Nhiều người đã từng đặt câu hỏi: “Chiều mộng” là buổi chiều thơ mộng, hay buổi chiều trong cõi mộng. Trước khi trả lời câu hỏi này lại phải thấy, miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên Xuân Diệu ít khi gọi chúng với cách gọi sáo mòn, cũ kĩ mà thường gọi một cách đắm đuối yêu thương. Chẳng hạn “xuân hồng”, “chiều thơm” “tháng giêng ngon”… Trong bài này “chiều thu” cũng đã thành “chiều mộng” nhánh cây thành “nhánh duyên” nghĩa là đã được gọi theo cách riêng rất Xuân Diệu. Mặt khác không phải ai cũng có thể nhận ra thế giới hữu tình của thiên nhiên để có thể nhìn sự vật trong sự cặp đôi. 2 người trong bài thơ này đang ở trong tâm trạng “lần đầu rung động nỗi thương yêu” cho nên nhìn sự vật qua con mắt thương yêu vì thế hiện thực trở thành thơ mộng huyền ảo, cho nên “chiều thu” thành “chiều mộng”, nhánh cây thành “nhánh duyên”. Hình ảnh tiếp theo là “nhánh duyên”. Nhiều người cũng đã từng đặt câu hỏi: “nhánh duyên” là Một câu hỏi được đặt ra: Nhánh duyên là làm duyên hay sự duyên dáng tình tứ? Có lẽ nên hiểu nhánh duyên là những đường nét duyên dáng của nhành lá. Câu 2: “Cây me ríu rít cặp chim chuyền” Tại sao lại là cặp chim chuyền chứ không phải là đôi, là 2 chim chuyền? Thực ra nếu dùng đôi hay là 2 thì việc miêu tả chim chỉ thuần túy là miêu tả cảnh quan, 2 con chim chỉ đơn thuần là số lượng. Khi XD dùng “cặp chim” thì không phải chỉ là miêu tả cảnh quan nữa là là miêu tả mà là miêu tả thế giới tinh thần của nó. Cặp đôi diễn tả sự gắn bó khăng khít thân mật. Câu 3: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá” Đây là một câu thơ miêu tả màu sắc – màu xanh ngọc, màu xanh được lọc qua ánh sáng (So sánh với “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” màu xanh non tơ của Hàn Mặc Tử). ở đây màu xanh đẹp bởi kết hợp với sắc trời – bầu trời xanh trong, ánh sáng của nó đổ xuống muôn lá nhuộm không gian một màu xanh ngọc (màu xanh có ánh sáng bên trong). Câu 4: “Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền.” “Tiếng huyền” là tiếng thu hay sự huyền ảo? Mỗi mùa thường có một âm thanh riêng. Mùa xuân là mùa thì thầm của những cành cây đâm chồi nẩy lộc. Mùa hạ tưng bừng với tiếng ve kêu rộn rã. Mùa đông là mùa của tiếng gió rít lạnh lẽo. Mùa thu có âm thanh riêng đó là mùa của lá rơi xào xạc. Tác giả không gọi là tiếng thu như LTL từng gọi đích danh mà gọi là tiếng huyền. Chữ huyền đúng là mang cả cái nghĩa huyền ảo.Nhưng vì là thu đến cho nên tiếng huyền chính là tiếng thu. Cách gọi này được phát triển tiếp từ ý trên “chiều thu” thành “chiều mộng”, nhánh cây thành “nhánh duyên”, tiếng thu thành tiếng huyền. Như vậy là sự vật đã đi từ vô tình đến hữu tình, từ vô cảm đến hữu cảm, từ thực đến ảo. Hay chính xác là thực ảo đan cài vào nhau, khiến đất trời cây cỏ đến chim muông đều có duyên với nhau. Nếu đọc kĩ, chúng ta sẽ thấy cả 4 câu thơ là thế giới của sự cặp đôi. Chiều mộng thì hoà thơ trên nhánh duyên, cây me thì ríu rít cặp chim chuyền, bầu trời thì như dồn toàn ánh sáng để đổ ngọc qua muôn lá. Mùa thu đến âm thanh rộn rã đón chào khiến nơi nơi động tiếng huyền. Như vậy cái đẹp ở đây không phải ở từng chi tiết, từng hình ảnh riêng rẽ mà chủ yếu ở sự hoà hợp, tương ứng, tương giao của chúng. - Phân tích khổ 2 Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu, Lả lả cành hoang nắng trở chiều. Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn, Lần đầu rung động nỗi thương yêu. Trong bài Thơ duyên có mấy câu thơ khá đặc sắc mà nhờ nó nhiều người biết đến thi phẩm này. Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu, Lả lả cành hoang nắng trở chiều… Mây biếc về đâu bay gấp gấp, Con cò trên ruộng cánh phân vân Đặc biệt sau khi mấy câu thơ này được ngòi bút phê bình tài hoa của Hoài Thanh ngó tới thì nhiều người đã có nhận xét: nếu Thơ duyên không dành được một chỗ trong sách giáo khoa, nếu Thơ duyên không được ngòi bút phê bình tài hoa của Hoài Thanh bình luận thì chắc ít ai ngó ngàng đến thi phẩm của XD, hoặc có ngó tới chăng cũng chỉ là ngó tới mấy câu hay chứ chưa chắc đã ngó tới toàn bài. Sự thực thì Thơ duyên đã được nhiều người biết đến trước khi có lời phê bình của Hoài Thanh, chỉ có điều khi có lời phê bình của Hoài Thanh thì người ta si mê nó hơn thôi. Vẫn tiếp tục miêu tả thiên nhiên trong sự cặp đôi, nhưng ở đây bản ngã Xuân Diệu trở nên rõ nét hơn. Toàn bộ cái thần của hai câu thơ đầu tập trung ở những cặp từ láy: Con đường nho nhỏ thì đi với gió xiêu xiêu. Cành hoang lả lả như có tình với nắng chiều. Với khổ này nhiều người đã phân tích: Ngọn gió xiêu xiêu như say, như chuếng choáng. Cành cây thì lả mình vào trong nắng như tâm trạng ngây ngất của người say trong cõi mộng. Lại có người phân tích “con đường nhỏ nhỏ”ở đây là con đường tình! – “lả lả cành hoang” là sự lơi lả tình tứ. Con đường như dụi đầu vào gió, cành hoang lả mình vào nắng. Tác giả lạc bước vào vương quốc của tình yêu nên nhận ra một biến đổi kỳ diệu vừa diễn ra trong trời đất. Thực ra bản ngã thơ Xuân Diệu không chỉ độc đáo trong cái nhìn thị giác, thính giác khác thường, mà còn là khả năng khêu gợi. Vận dụng những Gió vốn không có hình có khối mà thường chỉ gắn với cường độ tốc độ (gió nhanh, gió mạnh..), nhưng khi viết gió “xiêu xiêu” thì thấy gió hiện ra có hình có dáng có sự sống yếu đuối mong manh. Cũng như vậy, nắng thường chỉ hiện ra với màu sắc hoặc nhiệt độ, nhưng khi viết “nắng trở chiều” thì lại gợi sự cảm nhận về thân phận và thời gian của nắng… Như vậy từ láy tính từ này vừa mô tả được đường nét, dáng điệu mềm mại của cảnh vật, lại tạo nên nhạc điệu thật quyến luyến, êm dịu, một vẻ duyên dáng, tinh tế cho câu thơ. Có thể coi đây là hai câu thơ đặc trưng rất Xuân Diệu đồng thời cũng là hai câu thơ hay của thơ ca Việt Nam. Chính Xuân Diệu đã chứng tỏ khả năng kì diệu của Tiếng Việt trong việc tạo nên những hình tượng ngôn ngữ tuyệt đẹp và diễn tả những sắc thái thật tinh tế của cảm xúc. - Hai câu thơ tiếp theo diễn tả tâm trạng của con người. XD nhận ra một biến đổi kỳ diệu vừa diễn ra trong trời đất lập tức trong lòng nảy sinh ý tưởng cắt nghĩa những biến đổi kỳ diệu diễn ra trong tình cảm lứa đôi. Cụ thể là tâm trạng lần đầu rung động của “anh” và “em”. Đây là cái rung động vừa dịu êm vừa mơ màng, trong sáng (vì nó là lần đầu chứ không phải lần N). Có một gianh giới mơ hồ và rõ rệt đánh dấu một đột biến của tâm hồn trong hai chữ “buổi ấy” và “lần đầu”. Khi những rung động, luyến ái đầu đời xuất hiện. Trong lần rung động ấy, với một năng lực giao cảm kỳ diệu, con người cảm nhận được sự tương giao như một ái lực thầm kín gắn kết những tâm hồn cô đơn giữa một khung cảnh chiều thu thật hài hoà êm dịu. Cùng với sự thay đổi thầm kín ấy là sự thay đổi dược bộc bạch: cách xưng hô từ Ta – Bạn sang Anh – Em. Đặc biệt khi con người đã sống trong nỗi yêu thương thì sẽ có cái nhìn kì thú về cái duyên của thiên nhiên cảnh vật. - Phân tích khổ 3 Em bước điềm nhiên không vướng chân, Anh đi lững đững chẳng theo gần, Vô tâm – Nhưng giữa bài thơ dịu Anh với em như một cặp vần - Đọc 2 câu đầu chúng ta thấy hơi lạ. Xuân Diệu xưa nay rất sợ khoảng cách, với ông mọi thứ bao giờ cũng phải giao hoà, gần gũi vậy mà ở đây chúng ta lại thấy một khoảng cách giữa anh với em.Đặc biệt không đơn thuần là khoảng cách về không gian, mà là khoảng cách về tình cảm: “bước điềm nhiên” là bước thản nhiên, thư thái chẳng bận lòng; “không vướng chân” là luống cuống mất bình tĩnh. Anh đi lững đững là đi thơ thẩn hờ hững… nghĩa là không ai để ý đến ai… - Nhưng hai câu kết gần như đảo lại hoàn toàn ý hai câu trên. Mặc dù họ “vô tâm”, nhưng cái duyên không nằm trong khoảng cách hình thức ấy, bởi họ đang đi trong một chiều mộng, trong 1 mảnh vườn tình ái lại đang ở giữa một bài thơ mà thiên nhiên là khúc nhạc đệm làm nổi bật bản tình say đắm của con người. Cho nên những người trẻ tuổi trẻ lòng có duyên với nhau từ vô tâm đến hữu tình, đã trở thành một cặp vần: Vô tâm – Nhưng giữa bài thơ dịu Anh với em như một cặp vần Xuân Diệu viết “Anh với em như 1 cặp vần”, nhưng người đọc vẫn hiểu là cặp yêu. Đây là 1 sáng tạo của Xuân Diệu để nói về tình cảm lứa đôi. Thơ ca đã có bao nhiêu hình tượng để nói lên tình cảm này: “Thuyền và bến; Mận và Đào; Non và nước; Mùa Đông với cái rét; Mùa Xuân với cánh chim én”. Nhưng sự gắn bó lứa đôi như 1 cặp vần thơ có lẽ chỉ đến nhà thơ Xuân Diệu mới xuất hiện. “Anh với em như 1 cặp vần” là sự gắn bó bền chặt không thể thiếu. Bởi lẽ vần chỉ có ý nghĩa trong sự cặp đôi, nếu tách riêng vần không còn có ý nghĩa nữa. Cái duyên của con người không chỉ là sự gắn bó bền chặt mà còn đạt tới hình thức cao nhất của sự giao hoà. Nhớ lại thơ xưa, nhớ lại thơ lãng mạn và nhớ lại thơ Xuân Diệu lúc bấy giờ, viết về chiều thu thường buồn. Đó là nỗi buồn nhân đôi vì có sự cộng hưởng giữa nỗi buồn của mùa thu. Nỗi buồn của buổi chiều với bóng xế tà, với bước chân vội vàng của người lữ khách… Nỗi buồn mùa thu với ao thu lạnh lẽo với hoa rụng cành sắc đỏ rũa màu xanh với rét mướt luồn trong gió với vắng người sang chuyến đò thơ xưa viết về chiều thu thường như thế. - Đến với thơ Duyên chiều không buồn và thu cũng không buồn. Thế giới của thơ Duyên có niềm vui tràn ngập âm thanh và ánh sáng. Âm thanh thì náo nức rạo rực “ríu rí gặp chim chuyền” “nơi nơi động tiếng huyền”. Âm thanh thì trong trẻo tinh khiết “ đổi trời xanh ngọc qua muôn lá”. - Cảnh vật trong thơ duyên là cảnh vật có hồn. Tác giả đi giữa chiều thu mà như đi giữa bài thơ dịu lắng nghe tiếng thu êm nhẹ nhàng mà trào dâng cuốn hút. Thế giới của thơ duyên từ vô cảm đã thành hữu cảm từ vô cảm đã có linh hồn. - Phân tích khổ 4, 5 Mây biếc về đâu bay gấp gấp, Con cò trên ruộng cánh phân vân Chim nghe trời rộng giăng thêm cánh Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần Ai hay tuy lặng bước thu êm, Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm, Trông thấy chiều thu ngơ ngẩn vậy, Lòng anh thôi đã cưới lòng em” - Đây là những câu thơ thể hiện sự sáng tạo tuyệt vời của Xuân Diệu. Sự sáng tạo có được không phải chỉ bởi cách dùng từ mà còn bởi cách cảm nhận. Những đám mây trắng trên bầu trời vốn là hình ảnh quá quen thuộc trong cả thực tế và trong thi ca. Tuy nhiên nếu lâu nay hình ảnh những đám mây trắng muôn đời lững lờ trôi phía trời xa luôn được các thi nhân mượn để ví với sự trôi nổi vô định, thì ở đây XD lại nhìn thấy trạng thái bay “gấp gấp” của nó. Với trạng thái này mây không bay vô tư nữa. Nó có tâm sự và câu hỏi “mây trắng về đâu” như xoáy vào tâm trí người đọc. Vậy là mượn không gian để biểu đạt thời gian, hình ảnh mây bay gấp gấp đã gợi không chỉ cái rợn ngợp của không gian, mà còn cả cái gấp gáp của thời gian. Qua câu thơ thấy đặc điểm phong cách thơ Xuân Diệu vẫn thiên về cảm thức về thời gian. Bước sang câu 2: “Con cò trên ruông cánh phân vân” người đọc lại bắt gặp một sáng tạo khác của XD - Trước hết đó là sự sáng tạo trong việc dùng hình ảnh cánh cò. Hình ảnh cánh cò đã từng xuất hiện nhiều trong thơ ca Việt Nam. Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng (Trần Nhân Tông) Vắt trâu nghe mấy tiếng Cò trắng giật mình bay (Thơ Thái Thuận thời Lê) Cánh cò chớp trắng trên sông kinh thầy (Trần Đăng Khoa) Nhìn chung những cánh cò trong thơ ca thường gợi lên tình quê hương Đất nước. Trong khi cánh có của XD thì không hướng tới điều này. Về sự sáng tạo này Hoài Thanh đã từng nhận xét rằng “từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với dáng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân có sự phân biệt của hơn 1000 năm và của 2 thế giới”. Sự cách biệt của thời gian 1000 năm đã quá nhiều đổi thay, sự cách biệt của 2 thế giới - thế giới thơ Đường và Thơ Mới càng nhiều thay đổi. So sánh hình ảnh cánh cò trong câu thơ: “Lạc hà dữ cô vụ tề phi - Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc” (Ráng vàng cùng cò trắng đều bay- Màu nước với da trời một sắc) của Vương Bột, chúng ta thấy cánh cò trong thơ Vương Bột tan vào nắng chiều vào cõi vĩnh hằng. Ráng chiều cùng cánh cò đơn chiếc đang bay thật khó lòng phân biệt đâu là cánh cò đâu là nắng chiều đang lấp loáng phía chân trời xa. Trong khi đó thế giới của thơ Mới là thế giới của cái riêng tách khỏi cái chung. Do vậy cánh cò trong thơ Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân. Tả cánh cò, Vương Bột chú ý tới những chuyển động từ bên ngoài, những chuyển động như thấy được còn Xuân Diệu lại gợi tả những chuyển động từ bên trong những chuyển động mới có trong gân cốt. “Cánh cò phân vân” là hình tượng khá đẹp. Hoàng Trung Thông cũng rất tâm đắc với hình ảnh này. Ông viết: “Con cò trên ruộng lững lờ đôi cánh không biết nên bay cao hay bay thấp, bay gần hay bay xa, bay lên hay bay xuống, nhập vào đồng ruộng hay lên quãng trời xanh” Có lẽ không nên đặt những câu hỏi cụ thể cho cánh cò của XD. Chỉ nên hiểu “Cánh cò phân vân” là cánh cò mang đầy tâm trạng. Nó bâng khuâng khó hiểu – khó hiểu như chính nỗi niềm Xuân Diệu. 2 câu kết của khổ: Chim nghe trời rộng giang thêm cánh Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dồn Nếu cánh cò trên ruộng mang đầy tâm sự thì cánh chim trên trời lại vô cùng nhậy cảm. Chim không nhìn trời biết “rộng” mà “nghe” trời rộng. Vậy là khi bay nó mới nghe thấy cảm giác rợn ngợp qua đôi cánh. Và mọi cố gắng để xóa bớt cảm giác chống chếnh trước không gian rộng lớn bằng cách giang rộng đôi cánh của nó trở nên vô hiệu. Chiều thưa, sương xuống làm không gian như rộng và lạnh hơn. XD đã miêu tả một cảnh thu xúc cảm khác hẳn với khung cảnh chiều thu đẹp lúc đầu. Lúc này nắng tắt dần và sương lạnh làm cho con người càng cô đơn hơn. Sự cô đơn làm người ta muốn xích lại gần nhau, hòa hợp với nhau. Khổ kết: Ai hay tuy lặng bước thu êm, Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm, Trông thấy chiều thu ngơ ngẩn vậy, Lòng anh thôi đã cưới lòng em” - Với khổ này, người đọc thấy XD tìm cách kết luận chung cho toàn bộ sự cắt nghĩa của mình ở trên. + “Bước thu êm” là sự cảm nhận tinh tế và lắng sâu tình thu và cảnh thu ở trạng thái tĩnh lặng, nhưng sức cảm hóa vạn vật xung quanh. + “Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm” nghĩa là không cần tác động môi giới + “Chiều thu ngơ ngẩn” hay chính là sự ngơ ngẩn của con người. Chúng ta đã từng gặp một vầng “trăng tự ngẩn ngơ” trong Đây mùa thu tới, ở đây lại gặp một chiều thu ngơ ngẩn. Phải chăng cảnh vật và con người đang xúc động và đang trong một thoáng mộng tưởng mơ hồ xa xôi. + “Lòng em thôi đã cưới lòng anh” là một câu đặc biệt.Chúng ta đã từng gặp cưới nhiều hình thức cưới (cưới trả nợ, cưới chạy tang), nhưng chưa bao giờ thấy cưới lòng. “Cưới lòng” là trạng thái tình cảm tương tư là “Tình trong như đã mặt ngoài còn e”. “Cưới lòng” là đính hôn bí mật và hứa hôn thầm kín. Chữ “thôi” trong câu thơ nói lên trạng thái tình cảm không thể cưỡng lại được, cái duyên của con người đi từ vô tâm đến hữu tình huyền diệu là thế. 2. Kết luận Phát hiện sức sống bên trong, sức sống từ những phút giây cử động nảy mầm đó là minh chứng thuyết phục nhất cho sức sống tiềm tàng mãnh liệt của hồn thơ Xuân Diệu. Hoài Thanh ngay từ 1940 khi viết “Thi nhân Việt Nam” đã nhận ra điều này : “ sự sống muôn hình thức mà trong những hình thức nhỏ nhặt thường lại ẩn náu 1 nguồn sống rồi rào không cần phải là con hổ ngự trị chốn rừng xanh, không cần phải là con chim đại bàng bay 1 lần 9 vạn dặm mới là sống, sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra 1 cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi”. Nhận định của Hoài Thanh thật đúng với trường hợp Thơ duyên.

File đính kèm:

  • docTho Duyen Xuan Dieu.doc
Giáo án liên quan