Phân tích bài thơ "Tôi yêu em"

Một trong những chủ đề lớn của thơ trữ tình Puskin là tình yêu. “Hầu như tình yêu, tình bạn luôn là những tình cảm chi phối nhà thơ nhiều nhất và là ngọn nguồn trực tiếp nhất của hạnh phúc và đau khổ của cả đời ông. Màu sắc chung của thơ Puskin, đặc biệt trong thơ trữ tình là vẻ đẹp nội tâm con người và lòng nhân ái vuốt ve tâm hôn” (Biêlinxki). Cùng với “Gửi K.”, “Tôi yêu em” là bài thơ nổi tiếng của Puskin về tình yêu.

 

Thời kỳ sống ở Pê tec bua, Puskin thường lui tới nhà vị Chủ tịch Viện Hàn lâm nghệ thuật Nga để gặp gỡ những người làm nghệ thuật, và cũng vì một thiếu nữ đẹp tên là A.A. Ôlênnhia, con gái vị chủ nhà. Mùa hè năm 1828, nhà thơ ngỏ lời cầu hôn nhưng không được nhận lời. Năm 1829, bài thơ ra đời trên cơ sở của mối tình có thật này.

 

Thơ tình yêu của Puskin thường bắt nguồn từ những xúc cảm cụ thể, chân thực với những trải nghiệm tình cảm sâu xa, do đó, đã thể hiện được những vẻ đẹp đa dạng, tinh tế của thế giới tâm hồn con người. Bài thơ “Tôi yêu em” đã gây một niềm xúc động lớn lao vì đã vươn tới những giá trị tinh thần chung của loài người: những tình cảm chân thành, cao thượng, nhân ái của tình yêu chứa đựng trong những lời lẽ giản dị, trong sáng nhất.

 

doc4 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4903 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích bài thơ "Tôi yêu em", để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phân tích bài thơ "Tôi yêu em" Một trong những chủ đề lớn của thơ trữ tình Puskin là tình yêu. “Hầu như tình yêu, tình bạn luôn là những tình cảm chi phối nhà thơ nhiều nhất và là ngọn nguồn trực tiếp nhất của hạnh phúc và đau khổ của cả đời ông... Màu sắc chung của thơ Puskin, đặc biệt trong thơ trữ tình là vẻ đẹp nội tâm con người và lòng nhân ái vuốt ve tâm hôn” (Biêlinxki). Cùng với “Gửi K.”, “Tôi yêu em” là bài thơ nổi tiếng của Puskin về tình yêu. Thời kỳ sống ở Pê tec bua, Puskin thường lui tới nhà vị Chủ tịch Viện Hàn lâm nghệ thuật Nga để gặp gỡ những người làm nghệ thuật, và cũng vì một thiếu nữ đẹp tên là A.A. Ôlênnhia, con gái vị chủ nhà. Mùa hè năm 1828, nhà thơ ngỏ lời cầu hôn nhưng không được nhận lời. Năm 1829, bài thơ ra đời trên cơ sở của mối tình có thật này. Thơ tình yêu của Puskin thường bắt nguồn từ những xúc cảm cụ thể, chân thực với những trải nghiệm tình cảm sâu xa, do đó, đã thể hiện được những vẻ đẹp đa dạng, tinh tế của thế giới tâm hồn con người. Bài thơ “Tôi yêu em” đã gây một niềm xúc động lớn lao vì đã vươn tới những giá trị tinh thần chung của loài người: những tình cảm chân thành, cao thượng, nhân ái của tình yêu chứa đựng trong những lời lẽ giản dị, trong sáng nhất. Có thể chia bài thơ thành hai phần: Bốn câu thơ đầu, nhân vật trữ tình - Tôi, khẳng định tình yêu vẫn còn nhưng xin rút lui vì không muốn gây phiền muộn cho người mình yêu. Bốn câu cuối, diễn tả các cung bậc khác nhau của tình yêu và lời khẳng định một tình yêu đằm thắm, chân thành. Điệp khúc “tôi yêu em” là giọng điệu chủ đạo của bài thơ. Dịch giả Thúy Toàn đã lựa chọn cách dịch “Tôi yêu em” một cách rất phù hợp. Nếu dịch thành “ tôi yêu cô’ thì bộc lộ một khoảng cách xa, trang trọng ít tình cảm, hơn nữa từ “cô” trong tiếng Việt ít chỉ quan hệ tình yêu. Nếu dịch thành “Anh yêu em” thì lại quá thân thiết, gần gũi, trong trường hợp của nhà thơ Puskin lại chưa phù hợp. Lựa chọn cụm từ “Tôi yêu em”, Thúy Toàn đã chuyển tải chính xác một quan hệ vừa gần vừa xa, vừa rụt rè vừa đằm thắm. Nhân vật Tôi chưa thân thiết với nhân vật cô gái đến mức xưng Anh; khi xưng Tôi, quan hệ tình yêu lại mang một sắc thái trầm tĩnh, tự tin, đúng mực, có mang Ý thức về mình. Nét tinh tế trong quan hệ hai nhân vật được bộc lộ qua hai đại từ nhân xưng “Tôi” và “Em” này. Mở đầu bài thơ là điệp khúc khẳng định: “Tôi yêu em”, một lời bộc lộ chân thành xuất phát từ một trái tim trung thực, báo hiệu một tình yêu thực sự. “Tôi yêu em”, lời lẽ giản dị mà mang bao nỗi quyến rũ, bí ẩn muôn đời: Tôi yêu em: đến nay chừng có thể, Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai. Lời thơ chậm rãi, tình thơ thâm trầm, kín đáo. Một sự khẳng định pha chút cân nhắc, dè dặt với những từ “có thể”, “chưa hẳn”(Nguyên văn: “Tình yêu, có lẽ, còn chưa hoàn toàn lụi tắt trong lòng tôi”). Dùng một từ ngữ mang tính phủ định, “chưa hoàn toàn lụi tắt”, nhân vật trữ tình bày tỏ một tình yêu, một say mê mang dáng vẻ âm thầm, dai dẳng, dấu hiệu của những cảm xúc vững bền, của một trái tim chung thủy, không phải là sự đam mê bột phát vụt lóe sáng rồi lụi tàn ngay đấy. Mạch thơ chuyển đột ngột: Nhưng không để em bận lòng thêm nữa, Hay hồn em phải gợn bóng u hoài. Câu thơ thể hiện cái điềm tĩnh của lí trí, cái dồn nén của cảm xúc. Điệp từ “không” (Nguyên văn: Nhưng mong sao nó không làm em băn khoăn thêm nữa, Tôi chẳng muốn làm em buồn vì bất cứ lẽ gì”) nhấn mạnh sự dứt khoát: càn phải dập tắt ngọn lửa tình yêu (dù chỉ là âm thầm, dai dẳng) để tránh cho em phải bận lòng, tránh cho hồn em phải gợn bóng u hoài. Lời thơ như một lời tự nhắc nhủ, một sự tự Ý thức về tình yêu của mình và cũng như một lời nói bên trong đầy dịu dàng, trân trọng với hồn em. Nhưng đằng sau những lời lẽ điềm tĩnh, đúng mực ấy là bao nỗi niềm, bao sắc thái của tình yêu: có cái chua xót của thân phận vì nếu tình yêu không đem lại hạnh phúc, niềm vui mà chỉ là nỗi băn khoăn, buồn bã cho người mình yêu thì nên chấm dứt tình yêu đó; có thể là sự chế ngự của lí trí với con tim; có cái cao thượng, tế nhị của tình tôi ( điều quan trọng không phải là tình yêu của tôi mà là sự yên tĩnh, thanh thản của hồn em); có cái tôn thờ, sùng kính của bậc nam nhi đối với người phụ nữ. Tình yêu có thể chấm dứt vì nhiều lí do, nhưng cái lí do đầy dịu dàng, trân trọng và cao thượng ấy đối với người phụ nữ dễ mấy ai có được. Nếu bốn câu thơ đầu, cảm xúc có xu hướng bị dồn nén, bị lí trí chi phối thì ở bốn câu thơ sau, mạch cảm xúc lại tuôn trào, không tuân theo mệnh lệnh của lí trí, khẳng định một tình yêu mãnh liệt không che giấu với điệp khúc “Tôi yêu em” được nhắc lại lần thứ hai: Tôi yêu em âm thầm, không hi vọng, Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen. Nhịp thơ nhanh hơn với những từ “lúc”, “khi”, diễn tả những trạng thái tình yêu biến đổi vô cùng, dồn dập. Nhân vật trữ tình bộc lộ thẳng thắn tâm hồn mình: một tình yêu “âm thâm”, “không hi vọng”, vừa khẳng định lại nét âm thầm, vừa nhân mạnh không hi vọng, như tô đạm thêm nét đặc biệt của mối tình đơn phương này. Nhưng dù vậy, tình yêu ấy vẫn diễn ra với mọi sắc thái muôn thuở: nỗi đau khổ âm thầm, niềm tuyệt vọng, sự rụt rè, lòng ghen tuông giày vò. Hai câu thơ mang tính chất thú nhận đã khơi mở những lớp tình cảm phức tạp mà rất con người dưới đáy sâu tâm hồn, sau lớp vỏ ngôn từ bình thản, điềm tĩnh thể hiện qua cách xưng hô, qua vẻ ngoài lặng lẽ rụt rè, qua Ý thức cố ghìm nén tình cảm, chỉ cho phép nói rằng tình yêu của mình chưa lụi tắt chứ không phải là dang bùng cháy mãnh liệt. Nhân vật trữ tình không ngại ngần mà trung thực bày tỏ: “khi hậm hực lòng ghen”, nghĩa là “Tôi” cũng chỉ như muôn người bình thường khác, cũng bị những tình cảm khổ đau, u ám muôn thuở trong tình yêu vò xé tâm can. Tuy nhiên, có ai đã từng nói, lòng ghen tuông như con rắn độc, nó bóp nghẹt trái tim, bởi vì ghen tuông trong tình yêu dẫn đến mất sáng suốt, như Mê đê vì thù chồng mà giết chết con mình (kịch Mê đê- Ơ ri pít), như Ô ten lô bóp chết vợ Đex đê mô na (kịch Ô ten lô-Sếc pia), như Lenxki thách Ônhêghin đấu súng (kịch thơ Ep ghê nhi Ô nhê ghin – Puskin), như Hoạn Thư hành hạ Thúy Kiều (Truyện Kiều-Nguyễn Du). Liệu nhân vật trữ tình trong bài thơ có bị nỗi ghen tuông ngự trị làm hạ thấp cong người như vậy không? Hai câu cuối cũng là câu trả lời, vụt sáng lên một giá trị nhân văn, một tư thế cao thượng cảu con người đáng yêu ấy: Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm, Cầu em được người tình như tôi đã yêu em. Cảm xúc bị dồn nén được giải tỏa, tuôn trào. Điệp khúc “Tôi yêu em”được láy lại lần thứ ba với một lời khẳng định bản chất của mối tình này: chân thành, đằm thắm. Trong tiếng Nga, động từ “yêu” luôn được để ở thể chưa hoàn thành, điều ấy có nghĩa là ngọn lửa tình yêu trong trái tim nhà thơ sẽ không bao giờ tắt, sẽ không bao giờ lụi tàn, nhạt phai. Chính sự chân thành, đằm thắm không bao giờ nhạt phai ấy là cái gốc của tấm lòng cao thượng trong tình yêu này. Nó lí giải vì sao nhân vật trữ tình ở đoạn trên lại có một xử sự dịu dàng, tế nhị, trân trọng người mình yêu và đến cuối bài thơ lại có một lời chúc thiêng liêng, đầy vị tha: tôi cầu mong em có được một người yêu em cũng chân thành, đằm thắm như tôi. Có một điều tế nhị sâu xa trong hoàn cảnh trớ trêu này. Tình yêu khi không được đền đáp thường là nỗi khổ đau, đưa đến lòng tự ái, hận thù. Nhưng nếu đó là tình yêu của một trái tim chân thạt, độ lượng, nhân hậu thì dù bị cự tuyệt, con người vẫn có thể có những xử sự cao thượng. Lời cầu mong cuối bài thơ cũng còn là lời nhắn nhủ của một trái tim giàu độ lượng, chở che như nhà thơ đã viết trong một bài thơ khác: Nhưng nếu gặp ngày buồn rầu đau đớn, Em thầm thì hãy gọi tên lên, Và hãy tin: còn đây một kỉ niệm, Em vẫn còn sống giữa một trái tim. Chính thái độ trân trọng, tôn thờ, sùng kính “sự thuần khiết” đối với phụ nữ đã đưa bài thơ của Puskin vươn tới những giá trị nhân văn cao cả trong kho tàng thơ tình nhân loại. Bài thơ đã diễn tả một tình yêu vô vọng, thấm một sắc điệu buồn, nhưng hơn hết vẫn là sự mãnh liệt va cao thượng của trái tim con người với một mối tình không đơm hoa kết trái. Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, không có biện pháp tu từ nào ngoài điệp ngữ “tôi yêu em’. Chất thơ cảu bài thơ toát ra từ những cảm xúc chân thành, ghìm nén, từ những lời nói giản dị nưhng đầy thết tha, tế nhị mà nmamhx liệt, đằm thắm mà cao thượng, như Biêlixki từng nhânnj định: “Đặc điểm thơ ca Puskin là khả năng phát hiện trong con người mĩ cảm và lòng nhân ái, hiểu theo nghĩa là lòng kính trọng vô hạn đối với phẩm giá con người với tư cách là Con Người”./.

File đính kèm:

  • docPhân tích bài thơ TOI YEU EM.doc