Tuổi trẻ mỗi đời người chỉ có một, chính vì vậy, ai cũng phải biết trân trọng, sống hết mình với tuổi trẻ. "Vội vàng" là bài thơ độc đáo nhất, "mới nhất" của thi sĩ Xuân Diệu in trong tập "Thơ Thơ" (1933-1938) - đóa hoa đầu mùa đầy hương sắc làm rạng danh một tài thơ thế kỉ.
. "Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần".
(.) Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn.".
4 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2655 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích bài thơ Vội Vàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phân tích bài thơ Vội Vàng
Tuổi trẻ mỗi đời người chỉ có một, chính vì vậy, ai cũng phải biết trân trọng, sống hết mình với tuổi trẻ. "Vội vàng" là bài thơ độc đáo nhất, "mới nhất" của thi sĩ Xuân Diệu in trong tập "Thơ Thơ" (1933-1938) - đóa hoa đầu mùa đầy hương sắc làm rạng danh một tài thơ thế kỉ.
... "Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửaTháng giêng ngon như một cặp môi gần"...(...) Ta muốn ômCả sự sống mới bắt đầu mơn mởn...".
Mỗi lần đọc những dòng thơ trên, nhạc điệu,vần điệu "Vội vàng" cứ ngân vang dào dạt mãi trong lòng ta, tình yêu đời, yêu sống như tát mãi không bao giờ vơi cạn... Cảm thức về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ... như những lớp sóng vỗ vào tâm hồn ta. "Vội vàng" là bài thơ độc đáo nhất, "mới nhất" của thi sĩ Xuân Diệu in trong tập "Thơ Thơ" (1933-1938) - đóa hoa đầu mùa đầy hương sắc làm rạng danh môt tài thơ thế kỉ.Bài thơ "Vội vàng" nói lên nhịp điệu sống, khát vọng sống của tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Một đời người chỉ có một lần tuổi trẻ. Phải biết trân trọng, quý trọng và sống hết mình với tuổi trẻ, với mùa xuân và với thời gian.Trong "Tiểu dẫn" về bài thơ "Vội vàng" này (Văn 11) Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh viết:"Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống".Thiên nhiên rất đẹp đầy hương sắc của hoa trên "đồng nội xanh rì", của lá "cành tơ phơ phất". "Tuần tháng mật" của ong bướm. "Khúc tình si" của yến anh. "Và này đây ánh sáng chớp hàng mi". Chữ "này đây" được 5 lần nhắc lại diễn tả sự sống ngồn ngộn phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu. Vì lẽ đó nên phải vội vàng "tắt nắng đi" và "buộc gió lại". Trong cái phi lí có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn.Tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Bình minh là khoảnh khắc tươi đẹp nhất của một ngày, đó là lúc "thần vui hằng gõ cửa". Tháng giêng là tháng khởi đầu của mùa xuân, "ngon như cặp môi gần". Một chữ "ngon" chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa mới lạ vừa táo bạo. Chiếc môi ấy chắc là của giai nhân, của trinh nữ. Đây là câu thơ hay nhất, mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu.Chắc là Xuân Diệu viết bài thơ này trước năm 1938, lúc ông trên dưới 20 tuổi - cái tuổi thanh niên bừng sáng. Nhưng thi sĩ đã "vội vàng một nửa", một cách nói rất thơ - chẳng cần đến tuổi trung niên (nắng hạ) mới luyến tiếc tuổi hoa niên. Dấu chấm giữa dòng thơ, rất mới, thơ cổ không hề có. Như một tuyên ngôn "vội vàng":"Tháng giêng ngon như cặp môi gầnTôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửaTôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân".Vội vàng vì thiên nhiên quá đẹp, vì cuộc sống quá yêu, vì tuổi trẻ quá thơ mộng. Đang tuổi hoa niên mà đã "vội vàng một nửa".. cảm thức của thi sĩ về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ rất hồn nhiên, mới mẻ.Quan niệm về thời gian có nhiều cách nói. Thời gian là vàng ngọc. Bóng ngả lưng ta. Thời gian vun vút thoi đưa, như bóng câu (tuấn mã) vút qua cửa sổ, như nước chảy qua cầu. Thời gian một đi không trở lại. Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng: tương phản đối lập để chỉ ra cái "lượng trời" cho một đời người chỉ có một thời xuân xanh mà tuổi trẻ một đi qua không bao giờ trở lại:"Xuân đang tới, nghĩa là xuân đương qua,Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ giàMà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mấtLòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chậtKhông cho dài thời trẻ của nhân gianNói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoànNếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại...".Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập: tới - qua, non - già, rộng - chật, tuần hoàn - bất phục hoàn, vô hạn - hữu hạn - để khẳng định một chân lí - triết lí: tuổi xuân một đi không trở lại, phải quý tuổi xuân.Cách nhìn nhận của thi nhân về thời gian cũng rất tinh tế độc đáo, nhạy cảm. Trong hiện tại đã bắt đầu có quá khứ và đã hé lộ mầm tương lai, cái đang có lại đang mất dần đi...Và mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như mang theo nỗi buồn "chia phôi", hoặc "tiễn biệt", nên phải "hờn" vì xa cách, phải "sợ" vì "độ phai tàn sắp sửa". Cảm xúc lãng mạn dào dạt trong cái vị đời. Nói cảnh vật thiên nhiên mà là để nói về con người, nói về nhịp sống khẩn trương "vội vàng" của tạo vật. Với Xuân Diệu hầu như cuộc sống nơi "vườn trần" đều ít nhiều mang "bi kịch" về thời gian:"Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt".Cũng là "gió", là "chim"... nhưng gió khẽ "thì thào" vì "hờn", còn "chim" thì bỗng ngừng hót, ngừng reo vì "sợ"! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật cái nghịch lí giữa mùa xuân - tuổi trẻ và thời gian:"Con gió xinh thì thào trong lá biếcPhải chăng hờn vì nỗi phải bay điChim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thiPhải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?"Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối, lo lắng và chợt tỉnh vì "mùa chưa ngả chiều hôm", nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả. Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:"Chẳng bao giờ / ôi / chẳng bao giờ nữa...Mau đi thôi / mùa chưa ngả chiều hôm".Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm "Thơ tiếc cảnh":- "Xuân xanh chưa dễ hai phen lạiThấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên".(Bài số 3)- "Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm".(Bài số 7)Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong "Vội vàng" về màu thơi gian, về sắc thời gian, về tuổi trẻ. Thật yêu đời, thật ham sống.Mở đầu bài thơ là cái tôi hăm hở "tôi muốn tắt nắng đi". Kết thúc bài thơ là "ta", là mọi tuổi trẻ. Một sự hòa nhập và đồng điệu trong một đời người, trong dòng chảy thời gian: sống mãnh liệt, sống hết mình. Sống nồng nàn say mê. Nghệ thuật trùng điệp trong diễn tả gợi lên cái ham hố, yêu đời. Ngôn từ đậm màu sắc cảm giác, xúc giác, rạo rực: "Ta muốn ôm", "Ta muốn riết... Ta muốn say... Ta muốn thâu...":"Ta muốn ômCả sự sống mới bắt đầu mơn mởnTa muốn riết mây đưa và gió lượnTa muốn say cánh bướm với tình yêuTa muốn thâu trong mỗi cái hôn nhiềuVà non nước, và cây và cỏ rạng".Sống cũng là để yêu, yêu hết mình. Thơ hay vì màu sắc lãng mạn. Vì giọng thơ sôi nổi. Nghệ thuật "vắt dòng" với ba từ "và" đồng hiện trong một dòng thơ làm nổi bật cảm xúc. Say mê vồ vập cảnh đẹp, tình đẹp nơi vườn trần. Tất cả mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng... đều là nỗi niềm khao khát của thi nhân:"Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sángCho no nê thanh sắc của thời tươiHỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào người!".Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp, sống ích kỉ trong hưởng thụ. "Vội vàng" thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy đã thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến. Bảy thập kỉ sau bài thơ "Vội vàng" ra đời, nhiều câu thơ của Xuân Diệu vẫn còn làm cho không ít người ngỡ ngàng! Xuân Diệu đã sống "Vội vàng" như vậy. Với hơn 50 tác phẩm, hơn 400 bài thơ tình, ông đã góp phần làm giàu đẹp cho nền thi ca Việt Nam hiện đại.Bài thơ "Vội vàng" cho thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân văn, một giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn. Có chất xúc giác trong thơ. Có cách dùng từ rất bạo, cách cấu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa. "Vội vàng" tiêu biểu nhất cho "Thơ mới", thơ lãng mạn 1932-1941.Nhà thơ Xuân Diệu đã đi vào thế giới vĩnh hằng những tao nhân mặc khách, nhưng ta vẫn cảm thấy ông đang hiện diện giữa cuộc đời và hát ca:- "Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!"- "Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ! Em, em ơi! Tình non sắp già rồi..."(Giục giã)
File đính kèm:
- phan tich bai voi vang.doc