Nền văn học của một dân tộc như dân tộc Việt Nam quả không thiếu những áng văn chương mang ý nghĩa của những bản tuyên ngôn độc lập : “Nam quốc sơn hà” ( Lý Thường Kiệt ) hay “Bình Ngô đại cáo “( Nguyễn Trãi ).Tuy nhiên , xét về mặt đó là lời cáo chung cho một kỷ nguyên và khai sinh ra một kỷ nguyên hoàn toàn mới mẻ thì không một áng văn nào trong số những áng văn mà chúng ta vừa kể trên có thể so sánh được với bản “ Tuyên ngôn độc lập “ mà sáng ngày 2.09.1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã sang sảng đọc trong một ngày thu đẹp, dưới lồng lộng trời xanh của một quảng trường Ba Đình vàng rực nắng. Xét về mặt ấy, “ Tuyên ngôn độc lập “ không chỉ là một văn kiện mở đầu cho một thời kỳ lịch sử mà còn là một tác phẩm đã mở ra cả một thời đại văn chương .Bởi áng văn chính luận ấy bản thân nó cũng xứng đáng là một tác phẩm văn chương mẫu mực.
Không khó khăn để nhận thấy rằng bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Bác Hồ đã được mở đầu bằng những câu văn trích từ các bản tuyên ngôn của nước Mĩ và nước Pháp.
Hỡi đồng bào cả nước,
“ Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.“
Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là : tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói :
“ Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.”
6 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 3736 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích bài Tuyên ngôn độc lập, tác giả Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tuyên ngôn độc lậpHồ Chí Minh
Nền văn học của một dân tộc như dân tộc Việt Nam quả không thiếu những áng văn chương mang ý nghĩa của những bản tuyên ngôn độc lập : “Nam quốc sơn hà” ( Lý Thường Kiệt ) hay “Bình Ngô đại cáo “( Nguyễn Trãi ).Tuy nhiên , xét về mặt đó là lời cáo chung cho một kỷ nguyên và khai sinh ra một kỷ nguyên hoàn toàn mới mẻ thì không một áng văn nào trong số những áng văn mà chúng ta vừa kể trên có thể so sánh được với bản “ Tuyên ngôn độc lập “ mà sáng ngày 2.09.1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã sang sảng đọc trong một ngày thu đẹp, dưới lồng lộng trời xanh của một quảng trường Ba Đình vàng rực nắng. Xét về mặt ấy, “ Tuyên ngôn độc lập “ không chỉ là một văn kiện mở đầu cho một thời kỳ lịch sử mà còn là một tác phẩm đã mở ra cả một thời đại văn chương .Bởi áng văn chính luận ấy bản thân nó cũng xứng đáng là một tác phẩm văn chương mẫu mực.
Không khó khăn để nhận thấy rằng bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Bác Hồ đã được mở đầu bằng những câu văn trích từ các bản tuyên ngôn của nước Mĩ và nước Pháp. Hỡi đồng bào cả nước,“ Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.“Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là : tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói :“ Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.” Đó là một cách mở đầu mang nhiều ý nghĩa. Bác đã chọn những lời tuyên ngôn ấy trước hết và nhiều nhất bởi đó xứng đáng là những lời bất hủ. Chứa đựng trong những câu văn ấy là những chân lý vĩnh hằng, chắc chắn không thể cũ với thời gian. Những chân lý ấy đã được làm nổi bật hẳn lên, chói lọi hẳn lên trong những cách diễn đạt tuyệt hay. Và những câu trích dẫn rất có giá trị này sẽ góp phần không nhỏ trong việc làm nên giá trị của bản tuyên ngôn độc lập mà Bác Hồ sẽ viết trong gần hai thế kỷ sau. Mặt khác, việc trích dẫn những câu của “ Bản tuyên ngôn độc lập “ Mĩ và “ bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền “ của Pháp cũng góp phần khắc hoạ một tư thế, tầm nhìn, trình độ của dân tộc Việt Nam , cách đó không lâu vẫn còn chưa có tên trên bản đồ thế giới. Những câu trích dẫn chứng tỏ rằng tầm mắt của chúng ta không chật hẹp. Người Việt Nam đã đủ khả năng hấp thụ những tinh hoa văn hoá không chỉ của Phương Đông mà còn của loài người. Cũng không phải ngẫu nhiên mà trong rất nhiều câu danh ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn và chỉ chọn một câu của Hoa Kì và một câu của Pháp. Sự lựa chọn ấy nhất định còn phải có một nguyên cớ khác, chứng tỏ sự sáng suốt của Bác Hồ và của Cách mạng Việt Nam giữa một tình hình bộn bề phức tạp của những năm tháng ấy vẫn nhận ra được kẻ thù chính, những thế lực mà chúng ta cần phải chĩa mũi nhọn đấu tranh. Và những câu trích dẫn ấy do đó còn là một vũ khí đấu tranh, còn có một sức mạnh để ngăn chặn tội ác xâm lược, chí ít là trên các phương diện công lý và đạo lý. Bằng cách trích dẫn ấy, Bác Hồ đã có thể nói lên rằng nếu thực dân Pháp và sau đó là đế quốc Mĩ có trở lại xâm lược nước ta thì hành động đó không chỉ là một tội ác đối với dân tộc Việt Nam mà còn là một sự phản bội, sỉ nhục đối với những truyền thống tốt đẹp nhất của chính người Mĩ và người Pháp. Chính cách ấy đã thể hiện một trong những thủ pháp sắc bén nhất trong cách lập luận của Bác Hồ. Mặt khác nữa, bằng cách trích dẫn, Bác đã đặt ngang hàng cuộc Cách mạng tháng Tám của ta ngang bằng với cuộc Cách mạng Mỹ năm 1776 và Cách mạng Pháp năm 1789. Không chỉ vậy, cách mạng Việt Nam còn toàn diện hơn cả ở chỗ đã đạt được cả hai nhiệm vụ của cả hai cuộc cách mạng tr#n - “đánh đổ xiềng xích thực dân “ và “đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ”.Tuy nhiên, những điều nói trên không có nghĩa là về mặt tư tưởng, lý luận, bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Việt Nam phải núp dưới bóng những chân lý mà người Mĩ và người Pháp từ lâu đã nêu ra. Bác Hồ đã tìm ra cơ sở tư tưởng riêng cho nhân dân và đất nước mình, cho phong trào Cách mạng của mình.Tác giả đã đưa ra một tư tưởng có ý nghĩa khác biệt lớn lao và sâu sắc, cho dù sự sâu sắc và lớn lao đã được nói đến khiêm tốn dưới hình thức “ suy rộng ra “. Các bản tuyên ngôn độc lập của Mĩ và Pháp đã nói rất đúng và rất hay về quyền bình đẳng, tự do và hạnh phúc nhưng đó là những quyền của những con người, cá nhân. Bác Hồ cũng nói đến “ hạnh phúc, tự do, bình đẳng “ nhưng ở một cấp độ khác, cấp độ của những “ dân tộc”. Điều đó chứng minh rằng chủ tịch Hồ Chí Minh đã không chỉ dừng lại ở tư tưởng nhân quyền tư sản vì nhiều lý do. Ngược lại, trong phần đầu của bản Tuyên Ngôn Độc Lập, Hồ Chí Minh đã hiện lên trong tác phẩm như là một người chiến sĩ kiên cường, đấu tranh cho sự bình đẳng , đấu tranh cho dân tộc. Người đã đặt nền tảng cho sự bình đẳng, tự do và cũng là hiện thân cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Toàn bản “ Tuyên ngôn độc lập “ sẽ được xây dựng trên tư tưởng ấy : quyền của các dân tộc trên thế giới.
Đoạn văn tiếp sau được mở đầu bằng hai chữ “ Thế mà”.Chữ “ thế “ sẽ giúp khán giả một lần nữa nhấn mạnh những chân lý đúng đắn, đẹp đẽ và cao cả đã được nêu trên. Những chữ ấy còn như báo trước rằng những điều nói ở bên dưới sẽ trái ngược với những chân lý đó. Và quả thế, Bác Hồ sẽ nói đến một thực tế diễn ra trên đất nước ra hơn 80 năm . Thực tế là bọn thực dân Pháp đã mượn chiêu bài “ tự do, bình đẳng, bác ái “ của Cách mạng tư sản Pháp để làm những điều hoàn toàn ngược lại với truyền thống cao đẹp và chính cuộc cách mạng ấy đã nêu lên. Đó chính là cách thức để Bác Hồ có thể tố cáo đanh thép sự vô nhân đạo, phi nghĩa của chế độ thực dân Pháp ở nước ta trong gần một thế kỉ. Vì vậy, phần chủ yếu trong đoạn này là một loạt những câu văn ngắn gọn, cô đúc được đặt theo một cách giống nhau và hầu như đều bắt đầu bằng chữ “ chúng “ . Cách diễn đạt đó làm cho đoạn văn giống như những lời trong một phiên toà, một phiên xét xử những tội ác của bọn thực dân. Ở đó chế độ thực dân Pháp đã bị đẩy vào ghế của một tội nhân, còn nhân dân Việt Nam sẽ đàng hoàng đứng ở vị trí của quan toà. Nhưng những câu văn ấy đã được viết thật rành rọt, rõ ràng, gọn ghẽ. Đó là những lời tuyên án chứ không phải là nghị án, là những lời kết tội chứ không phải là luận tội.Bởi đây là những tội ác đã rất rõ ràng, rành mạch ra thước thanh thiên bạch nhật, tội ác mà Bác chỉ cần nêu ra chứ không cần có thêm một lời biện giải. Đây là những lời kết án cuối cùng của những tội ác mà hồ sơ của nó từ lâu đã được chuẩn bị một cách đầy đủ trong cuốn “ Bản án chế độ thực dân Pháp “ xuất bản tại Pari tròn hai mươi năm trước đó.Những lời ấy ngắn gọn mà vẫn đầy đủ và được sắp xếp một cách thật hệ thống và sáng sủa với hai phần chính : những tội ác về chính trị và những tội ác về kinh tế. Mặt khác, cách diễn đạt ngắn gọn ấy không làm cho câu văn mất đi sức truyền cảm. Tác giả “Tuyên ngôn độc lập” cũng đã kịp đưa ra những cách nói, những hình ảnh có sức lay động sâu xa. Chẳng hạn như là những câu viết về nạn đói khủng khiếp đến mức “kết quả là từ cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kì, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”, về những “nhà tù nhiều hơn trường học”; hình ảnh cô đúc của “những nhà tư sản không thể ngóc đầu lên”. Hay như cách tác giả dùng một chữ thật đắt - chữ “tắm” trong câu “Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”, gọn gàng thôi nhưng tích tụ những năng lượng lớn lao của một lòng căm thù đang được nén chặt lại.
Nhưng thiên tài nghị luận của chủ tịch Hồ Chí Minh còn được thể hiện nhiều hơn, đáng để cho chúng ta ngạc nhiên và khâm phục hơn cả là trong đoạn văn tiếp đó, đoạn văn mà Bác đã tố cáo tội ác của Pháp trong vòng năm năm trước đó, kể từ mùa thu 1940. Trong đoạn văn ấy, Bác đã tập trung lên án việc thực dân Pháp bán nước ta cho Nhật, mà lại bán tới hai lần chỉ trong vòng chưa tới năm năm, mà lại bán một cách hèn nhát, nhục nhã. Điều ấy đã được diễn tả trong một loạt những câu văn đầy hình ảnh và được sử dụng một cách thật xác đáng, đắt giá. Bác không nói một cách đơn giản là “Pháp đầu hàng” mà phải là “Pháp quì gối đầu hàng”, gợi nên thật nhiều xúc cảm. Để rồi nối tiếp sau đó là hình ảnh “mở cửa nước ta rước Nhật”, hình ảnh gợi ấn tượng về sự hèn đớn, quỵ luỵ của bọn thực dân trước một kẻ xâm lược mới. Sau ấy Bác đã sử dụng tài tình chữ “hoặc” trong đoạn văn nói về tình cảnh của quân đội Pháp từ sau ngày “9 tháng 3 năm nay”, khi đã bị quân Nhật tước đi khí giới , và chúng “hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng”. Như vậy có nghĩa là không còn khả năng thứ ba nào khác. Bác Hồ cho thấy việc Pháp bán Việt Nam cho Nhật đã khiến dân tộc Việt Nam phải lâm vào thảm hoạ lớn nhất trong lịch sử dân tộc, trong đó chúng ta phải chịu tới hai tầng xiềng xích của ngoại xâm. Đây cũng là thời kì mà đất nước ta trở nên “nghèo nàn, thiếu thốn, xơ xác, tiêu điều”. Sự thật hùng hồn lại chính là điều được Bác nêu lên trong bản “Tuyên ngôn độc lập” : nạn đói năm 1945 - tai hoạ thảm khốc nhất trong lịch sử mấy nghìn năm nước Việt ta - thảm khốc tới mức “hơn hai triệu đồng bào ta chết đói”.
Tuy nhiên, đó chưa phải là nội dung duy nhất của đoạn văn. Ở đây Bác Hồ cũng còn muốn tập trung nhiều tài năng, công sức vào một nội dung khác. Hãy sống trở lại vào tình hình của nước ta vào những năm tháng mà cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã kết thúc với phần thắng thuộc về phe Đồng minh, trong đó Pháp là một thành viên chủ chốt. Những người lãnh đạo Việt Nam hiểu rất rõ rằng thực dân Pháp sẽ quay trở lại Việt Nam. Sự quay lại ấy được hậu thuẫn bằng một nghị quyết cho phép những nước thắng trận được trở về với địa vị của mình. Và như thế, chúng ta nhất định phải chống chọi lại âm mưu xâm lược của Pháp. Nhưng vào lúc ấy, chúng ta không thể chống Đồng minh, càng không thể chống những nghị quyết của phe Đồng minh. Đó là một điều có thể nói là cực kì khó khăn, một điều dường như không thể nào làm được. Và Bác Hồ đã làm được điều tưởng như không thể làm nổi ấy bằng một tiến trình lập luận sáng suốt, tinh tế, không một chút sai lầm, dù chỉ là trong một đường tơ kẽ tóc.
Trước hết, Bác Hồ đã chứng minh một cách tinh tường, sáng tỏ rằng suốt từ 1940, thực dân Pháp ở Đông Dương đã không hề thực hiện nghĩa vụ của một nước Đồng minh. Việc rước Nhật vào Đông Dương vì thế không chỉ là tội ác đối với nhân dân của ba nước đó mà còn là tội ác đối với sự nghiệp chiến đấu của Đồng Minh. Bác cũng đã rất khôn khéo khi viết “phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh”. Nhưng không chỉ “mở cửa nước ta rước Nhật” ,thực dân Pháp còn từ chối mọi lời liên minh chống Nhật. Và như thế, sự phản bội càng trở nên tuyệt đối, triệt để khi thực dân Pháp tàn nhẫn ra tay giết hại những người đứng về phe Đồng minh chống Nhật. Và bằng cách ấy, Bác đã chỉ ra rằng trên thực tế, Pháp đã đứng về phía đối lập với Đồng minh, chống lại Đồng minh. Chúng không có tư cách hưởng quyền lợi của một nước Đồng minh, ít nhất là ở một đất nước như Việt Nam ta.
Bác Hồ cũng đã chứng minh được rằng trong khoảng thời gian 5 năm ấy, ở Việt Nam nếu có một lực lượng nào thực sự đứng về phía Đồng minh chống phát xít thì chỉ có thể là nhân dân Việt Nam, dưới sự tổ chức và lãnh đạo của Việt Minh. Chính Việt Nam mới là dân tộc gan dạ đứng lên chống Nhật. Hơn thế nữa, Việt Minh còn kêu gọi người Pháp cùng liên minh chống Nhật với mình, nhắc nhở Pháp về nghĩa vụ của chúng. Và trong khi Pháp “nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng” - những người đứng về phía Đồng minh chống phát xít thì Việt Minh đã có thái độ “khoan hồng và nhân đạo”, giúp đỡ, che chở cho người Pháp. Từ đó, chỉ có thể kết luận rằng chính nhân dân Việt Nam mới là dân tộc duy nhất có thể được hưởng quyền lợi của một nước thắng trận. Và điều ấy đã được Bác sơ kết lại một cách sáng sủa và cô đúc trong những câu văn bắt đầu bằng ba chữ giống nhau - “ sự thật là”. Và như thế, Bác Hồ đã làm một sự phân biệt một cách thật rành rọt, tinh tường những điều vốn dễ gây nhầm lẫn, những điều có ảnh hưởng đến sự an nguy, sinh tử của đất nước ta ngày ấy, khi xác định rằng “ Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật.... Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật ,chứ không phải từ tay Pháp.”
Một sự chính xác và tinh tế như thế, chúng ta sẽ gặp lại ở câu văn tiếp theo, ngắn gọn, nhưng Bác đã cân nhắc và tuyệt đối đúng đắn đến từng chữ một . “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị.” Và hai câu còn lại là hai câu mà một người thường không thể nào viết gọn gàng, đầy đủ và chính xác hơn về ý nghĩa của cuộc Cách Mạng mà chúng ta vừa thực hiện thành công. “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng Hoà.” Câu văn làm nổi bật, sáng rõ ý nghĩa của một cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ.
Người đứng đầu , soạn thảo và đọc “Tuyên ngôn độc lập” vẫn không thể quên một công việc có tầm quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với một chính quyền mới, một đất nước Việt Nam mới, đó là phải xác định lại mối quan hệ giữa Việt Nam và Pháp. Vì thế mà Bác đã viết đoạn văn tiếp theo , đoạn văn mà sự tồn tại của nó là không thể thiếu. Nhờ đoạn văn ấy, chúng ta đã “thoát li hẳn mối quan hệ thực dân” cũng như “xoá bỏ hết những hiệp ước, đặc quyền đặc lợi của Pháp” trong mối quan hệ Pháp - Việt. Bằng cách đó, Bác Hồ đã không cho thực dân Pháp một kẽ hở nào để chúng có thể lợi dụng mà quay trở lại.
Tuy nhiên, đến đây bản “Tuyên ngôn độc lập” vẫn chưa thể đi tới phần kết thúc, bởi Bác Hồ vẫn thấy cần thiết một lần nữa hướng tới thế lực đang quyết định, chi phối vận mệnh của thế giới lúc bấy giờ. Chúng ta rất cần sự ủng hộ của thế lực Đồng minh, hay ít ra cũng không hậu thuẫn cho việc thực dân Pháp trở lại xâm chiếm Đông Dương. Bởi vậy, trong câu viết tiếp theo, Bác Hồ đã công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. Nhưng chúng ta cũng có thể thấy : chúng ta vận động chứ không cầu xin. Những lời văn mà chúng ta nói với các nước Đồng minh trong “Tuyên ngôn độc lập” vẫn giữ được một tư thế đường hoàng, quang minh chính đại, không mất đi sự tự tin của một đất nước, một dân tộc đã giành lại tự do một cách đường đường chính chính. Vì thế, Bác đã không viết “Chúng tôi mong rằng” mà viết “chúng tôi tin rằng”. Sự khẳng định quyền độc lập của dân tộc Việt Nam cũng được nói ra bằng một từ mạnh - “quyết”, cùng với sự khẳng định được nói ra bằng hai lần phủ định - “không thể không”. Đó là sự khẳng định không thể bác bỏ, nơi mà ở đó khả năng bác bỏ đã bị loại trừ. Nhưng sự hùng hồn của câu văn được nói đến còn được làm nên từ cách đặt câu : “Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam”. Rõ ràng câu văn hiện ra như một định luật, một chân lý với đầy đủ cả hai vế : vế đầu nêu lên những điều kiện, tiền đề ; vế sau là kết luận tất yếu được rút ra từ điều kiện, tiền đề đó. Lối kiến trúc câu văn làm cho nền độc lập của Việt Nam trở thành kết quả tất yếu của một logic thép, và do đó không thể nào đảo ngược.
Một cách đặt câu tương tự thế, chúng ta còn bắt gặp ở những dòng tiếp theo. “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải được độc lập !” Tuy nhiên, đây là một câu văn sơ kết lại của phần thứ hai trong bản “Tuyên ngôn độc lập”, sơ kết lại toàn bộ tiến trình lập luận đã được Bác tiến hành trong toàn bộ phần thứ hai đó. Câu văn đã nêu lên hai tiền đề , hoàn toàn tương ứng với hai luận điểm chính : “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay” - “một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay”. Và bằng cách ấy, Bác Hồ đã làm cho phần thứ hai nói riêng và cả bản “Tuyên ngôn độc lập” nói chung vô cùng chặt chẽ và nhất quán. Cũng không thể không chú ý rằng trong câu văn này, Bác đã không viết “dân tộc Việt Nam” hay “dân tộc ta” mà nhất định phải là “một dân tộc”, bởi bằng cách này, quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam không chỉ được xem xét như một trường hợp riêng biệt mà được đặt trong một nguyên lý chung cho mọi dân tộc, toàn nhân loại. Và như thế, quyền độc lập ấy càng trở nên tất yếu, không cần một sự chiếu cố, nhân nhượng nào. Sự khẳng định nhờ đó mà càng thêm hùng hồn, mạnh mẽ. Mặt khác, sự mạnh mẽ trong câu văn này còn được làm nên bằng những từ như “gan góc” trở đi trở lại, làm cho cảm nhận về một dân tộc Việt nam cảm trở nên sinh động, gần gũi hơn, cũng như ấn tượng về sự “gan góc” được nhân lên nhiều hơn nhờ cách tác giả đặt nó vào một vị trí nổi bật khác thường.
Phần cuối cùng của bản “Tuyên ngôn độc lập” được Bác Hồ viết ngắn gọn, như là mọi phần kết luận cần phải thế. Nhưng chính những dòng văn ngắn gọn này đã chứa đựng mục đích mà vì nó, bản tuyên ngôn được viết ra : tuyên bố về nền tự do - độc lập của dân tộc Việt Nam, không chỉ với đồng bào toàn quốc mà với tất cả các nước trên thế giới. Và lời tuyên bố ấy được cất lên bằng một giọng văn trang nghiêm, trịnh trọng. Hoàn toàn có thể nói rằng đây là một câu văn đã đúc kết lại toàn bộ tư tưởng và nội dung của bài văn. Chính vì vậy, đây là một câu kết lý tưởng. “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập.” Trong vòng chưa đầy hai mươi chữ, Bác Hồ đã cho thấy nền độc lập của Việt Nam vừa là chân lý, lại vừa là một thực tế hiển nhiên. Tuy vậy, phần cuối cùng này cũng không chấm dứt sau lời tuyên bố, và chúng ta không thể không chú ý rằng trong bản tuyên ngôn của Bác, sau mỗi lời tuyên bố, luôn có một câu văn mang dáng dấp của một lời tuyên thệ, một lời nguyền. Bác đã không quên viết tiếp : “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Cần phải như thế, bởi hoàn cảnh viết bản tuyên ngôn lúc ấy không thể cho phép Bác nói được như Trần Quang Khải nói trong “Tụng giá hoàn kinh sư” hay Nguyễn Trãi viết trong “Bình Ngô đại cáo”. Bởi lúc Bác viết và đọc “Tuyên ngôn độc lập” thì những đám mây đen xâm lược đã vần vũ ở chân trời. Chỉ ba tuần sau, nhân dân Nam Bộ đã vùng lên kháng chiến. Vì thế câu cuối cùng đã được sinh ra trong một tình thế đặc biệt, bộc lộ một sự quyết tâm, tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Đó cũng là một lời cảnh báo đối với những kẻ thù xâm lược. Và như thế, không chỉ coi câu kết nói riêng và “Tuyên ngôn độc lập” nói chung chỉ là giấy mực mà là cả khát vọng tình yêu, độc lập, tự do làm nên bằng chính máu xương của dân tộc Việt Nam đã và sẽ đổ ra để giành lấy cái mà Bác sau này có đúc kết : “Không có gì quí hơn độc lập- tự do”
...
File đính kèm:
- Luyen thi Tuyen ngon Doc lap.doc