Tuỳ bút " Người lái đò sông Đà" là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tuỳ bút này Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng 10 của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng 10 mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa được vui và vững bền. Chất vàng 10 của con người ấy chính là người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người nghệ sỹ tài hoa trong nghề của mình.
Với " Người lái đò sông Đà" Nguyễn Tuân đã dựng hình ảnh một sông Đà mà ông đã từng muốn" trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số 1" nhưng cũng rất đúng nếu nói rằng thiên nhiên ấy cũng chính là kẻ tôn vinh số 1 giá trị của con người. Người lái đò sông Đà kia sẽ là ai nếu con thuyền của ông không phải vật lộn với" Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá"? Có thể người ấy sẽ mang một vẻ đẹp nào đó của một ông ngư, ông chài, ông lái đò nhưng sẽ không trở thành đối tượng của một khúc hùng ca. Trái lại cái hùng vĩ của sóng, của thác, của sông nước Đà Giang đã làm sáng chói lên hình ảnh con người đẹp nhất, kiêu hùng nhất, người lái đò trên sông Đà người anh hùng người nghệ sĩ chế ngự thiên nhiên hùng mạnh.
Người lái đò Sông Đà trước hết là một ông già 70 tuổi đã giành một phần lớn cuộc đời mình cho nghề lái đò dọc trên sông Đà. Đó là một người lái đò lão luyện:" Trên dòng sông Đà ông xuôi, ông ngược hơn 100 lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu chục lần" trong thời gian hơn chục năm làm nghề lái đò cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này.
Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò và đã đạt đến trình độ " Bằng cách lấy mắt và nhớ tỷ mỉ như đóng đinh vào tất cả những luông nước của tất cả những con thác hiểm trở " Nguyễn Tuân đã bày tỏ sự khâm phục của mình đối với con người này " sông Đà đối với ông lái đò ấy như 1 thiên anh hùng mà ông đã thuộc cả đến dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng
8 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 2425 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích hình tượng người lái đò qua bài tuỳ bút người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài: 1
Phân tích hình tượng người lái đò qua bài tuỳ bút người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.
Bài làm
Tuỳ bút " Người lái đò sông Đà" là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tuỳ bút này Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng 10 của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng 10 mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa được vui và vững bền. Chất vàng 10 của con người ấy chính là người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người nghệ sỹ tài hoa trong nghề của mình.
Với " Người lái đò sông Đà" Nguyễn Tuân đã dựng hình ảnh một sông Đà mà ông đã từng muốn" trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số 1" nhưng cũng rất đúng nếu nói rằng thiên nhiên ấy cũng chính là kẻ tôn vinh số 1 giá trị của con người. Người lái đò sông Đà kia sẽ là ai nếu con thuyền của ông không phải vật lộn với" Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá"? Có thể người ấy sẽ mang một vẻ đẹp nào đó của một ông ngư, ông chài, ông lái đò nhưng sẽ không trở thành đối tượng của một khúc hùng ca. Trái lại cái hùng vĩ của sóng, của thác, của sông nước Đà Giang đã làm sáng chói lên hình ảnh con người đẹp nhất, kiêu hùng nhất, người lái đò trên sông Đà người anh hùng người nghệ sĩ chế ngự thiên nhiên hùng mạnh.
Người lái đò Sông Đà trước hết là một ông già 70 tuổi đã giành một phần lớn cuộc đời mình cho nghề lái đò dọc trên sông Đà. Đó là một người lái đò lão luyện:" Trên dòng sông Đà ông xuôi, ông ngược hơn 100 lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu chục lần" trong thời gian hơn chục năm làm nghề lái đò cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này.
Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò và đã đạt đến trình độ " Bằng cách lấy mắt và nhớ tỷ mỉ như đóng đinh vào tất cả những luông nước của tất cả những con thác hiểm trở " Nguyễn Tuân đã bày tỏ sự khâm phục của mình đối với con người này " sông Đà đối với ông lái đò ấy như 1 thiên anh hùng mà ông đã thuộc cả đến dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng".
Hình dáng bề ngoài của ông lái đò được Nguyễn Tuân phác hoạ khá độc đáo luôn gợi đến dòng sông và nghề nghiệp của ông " Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cùng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như nước trước mặt ghềnh sông nhỡn giới ông vời vợi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Thân hình ông cao to và gọn quánh như chất sừng chất mun".
Người xưa vẫn coi " Cưỡi con gió mạnh, đạp đầu sóng dữ là biểu trưng cho một lý tưởng sống anh hùng. Ông lái đò này dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng chính là con người cưỡi gió đạp sóng theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Người lái đò của Nguyễn Tuân không có phép màu ông đâu có đôi cánh tay Hec Quyn vào để sánh được với sức lực của Thuỷ Tinh. Nhưng ông đã " Nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá" và cái kinh nghiệm đò giang sông nước lên thác xuống ghềnh và cái trí tuệ ấy đã khiến cho ông lái dù trong tay chỉ có cây chèo (cái que nhỏ giữa nguy nga sóng thác) vẫn có thể phá thành vượt ải như 1 chiến tướng bách thắng trong sự nghiệp đấu tranh chống thiên nhiên. Một cảm hứng hào hùng đã khiến ngòi bút Nguyễn Tuân tả một cuộc vượt thác Sông Đà vẫn diễn ra thường nhật thành một trận đánh biến ảo hấp dẫn, một khúc hát ca ngợi chiến công của một bậc anh hùng. Cuộc chiến đấu của người lái đò có thể chia thành 3 chặng vượt vòng vây của thác nước, đá sông.
ở trùng vi thứ nhất: Vừa vào trận, sóng nước, đá sông hò la vang dậy, ùa vào bẻ gãy cán chèo vô khí, đá trái thúc vào bụng, vào hông thuyền. Nước như đô vật túm thắt lưng ông đò rồi đánh miếng đòn độc, đánh vào chỗ hiểm. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái, mặt méo lệch đi. Con thuyền bơi chèo vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn và tỉnh táo của người cầm lái, ông đò thực là 1 chiễn sĩ dũng cảm, rất bình tĩnh nén mọi đau đớn để chiến thắng kẻ thù.
ở trùng vi thứ 2: Kẻ địch thay chiến thuật, chúng tăng thêm nhiều cửa tử .Cửa sinh bố trí lệch sang phía tả ngạn, lập lờ, bí hiểm hơn ở trùng vi trước, hòng đánh lừa con thuyền. Nhưng ông đò đã nắm chắc binh pháp của thân sông, thần đá thuộc quy luật phục kích của lũ đá. Ông" Cưỡi lên thác Sông Đà phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ". Nắm chặt được cái bờm của sóng đúng luồng rồi ông đò ghì cương lái phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chéo con thuyền lướt nhanh, bất ngờ khiến cả bọn đá thủy quân không kịp trở tay, khiến " Cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đá tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng". Ông đò người chỉ huy ấy thật thông minh tài giỏi xiết bao.
ở trùng vi thứ 3: ít cửa hơn, bên phải, bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở ngay giữa con thác. Ông đò như một người chỉ huy dày dạn cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa, giữa đó " Vút vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng thuyền như 1 mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được" Bản hùng ca vượt thác lên đến cao trào. Con thuyền lướt nhanh trên đầu sóng, sóng nước của Sông Đà và sóng của Nguyễn Tuân trên con thuyền vun vút đó chúng ta nhìn rõ hình ảnh người lái đò anh hùng vừa dũng cảm thông minh vừa thật là tài hoa. ở phần vĩ thanh của khúc ca vượt thác, nhà văn chuyển gam với mấy câu tả êm nhẹ câu kể thủ thỉ, tâm tình " Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác, xèo xèo tan trong trí nhớ. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh. Chả thấy ai bàn thêm 1 lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua. ở đây ta lại thấm thía thêm một vẻ đẹp nữa của những người lái đò, chèo đò. Họ anh hùng xiết bao, cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ dội để giành lấy sự sống từ tay những con thác nên cũng "Không có gì là hồi hộp đáng nhớ". Họ nghĩ như thế cái phi thường đã trở thành bình thường. Phẩm chất chiến sĩ đã hoà quyện với phong thái tài tử, nghệ sĩ. Dường như cảm nhận đầy đủ vẻ đẹp mang " Chất vàng 10 của những người lao động bình dị ở Tây Bắc trên 1 chặng vượt thác Sông Đà Nguyễn Tuân đã không cầm lòng được. Trước khi chia tay họ để gặp lại dòng sông, ông giữ lại một ước nguyện thật đẹp đẽ chân tình " Tôi nghĩ nếu sau này làm phim màu về Sông Đà, cũng phải đưa ống quay phim lên tàu bay, cho bay là là trên thác mà gí máy xuống mà lượn ống máy theo những luồng sinh của thác trên thác hiên ngang một người lái đò Sông Đà có tự do, vì người lái đò ấy đã nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước Sông Đà.
Sử dụng nghệ thuật của ngôn từ rồi nghệ thuật của hội hoạ, âm nhạc với những tri thức trong chiến đấu, trong võ thuật với bao nhiêu hiểu biết rộng và sâu khác nữa để khắc hoạ, ngợi ca nhân vật mà vẫn cảm thấy chưa đủ đến đây nhà văn dùng thêm phương pháp của điện ảnh. Hình tượng người lái đò hiên ngang, sừng sững hiện lên trong ống quay phim của nhà nghệ sĩ, cao lớn, lung linh như một thiên thần. Cùng với vẻ đẹp của người anh hùng trí dũng tài hoa từng chiến thắng ghềnh thác, người lái đò thêm một " Chất vàng" nữa người lao động có tự do đạt tới độ thành thục, điêu luyện vì làm chủ được thiên nhiên, chế ngự thiên nhiên, đem lại cuộc sống ấm no cho đời mình, sự giàu đẹp cho Tổ quốc. Ca ngợi người lao động phải chăng Nguyễn Tuân muốn ngợi ca lao động ngợi ca con người? Con người dưới con mắt nghệ sĩ tài hoa, uyên bác Nguyễn Tuân luôn luôn là hiện thân của cái đẹp của nghệ thuật của sự bất tử. Chính điều này người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Tuân đã có điểm gặp gỡ với người nghệ sĩ Nga M.Gorki " Con người! Tiếng ấy thật tuyệt diệu! Tiếng ấy vang lên kiêu hãnh và hùng tráng xiết bao".
Đọc " Người lái đò Sông Đà" suy ngẫm về nhân vật ông đò chúng ta nhớ tới Huấn Cao, hình tượng đặc sắc trong tác phẩm " Chữ người tử tù" một sáng tác của Nguyễn Tuân trước CM tháng 8. Tất nhiên nhân vật ông đò trong tuỳ bút không hiện lên với đầy đủ phẩm chất, tính cách như nhân vật ông Huấn Cao trong truyện ngắn. Họ có nhiều nét khác nhau vì họ xuất hiện trong hai thời kỳ khác nhau của lịch sử đất nước, cũng vì những chuyển biến trong phong cách nghệ thuật và cảm hứng thẩm mĩ của nhà văn. Song cả 2 đều giống nhau ở chất nghệ sĩ, chất chiến sĩ vẻ đẹp thăng hoa của con người trong vị trí xã hội, trong công việc cụ thể khi làm người và một nét chung nữa, ông đò cũng như ông Huấn đều rạng ngời phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: Tài hoa, uyên bác đầy sáng tạo bất ngờ trong dùng từ, viết câu và nồng ấm một tình yêu con người. " Cái đẹp là cuộc sống Secnusepxki. Nhưng biết nhìn thấy nó và biết cách làm cho mọi người cũng nhìn thấy nó lại tuyệt nhiên không phải chuyện dễ dàng. Cảm ơn Nguyễn Tuân người nghệ sĩ tài hoa đã bằng cảm hứng lãng mạn và phép thuật ngôn từ đem lại cho ta chất vàng 10 quý giá của đời, làm giàu sang cho tâm và cho trí của ta dạy ta biết yêu hơn Tổ quốc, nhân dân, cuộc sống.
Đề bài: 2
Em hãy phân tích hình ảnh dòng sông Đà trong tuỳ bút "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả cảnh vật thiên nhiên của nhà văn.
Bài làm
I/ Đặt vấn đề:
Nguyễn Tuân tự nhận mình là người mắc căn bệnh " Xê dịch". Trước cách mạng tháng 8 ông " Xê dịch" để thay đổi thực đơn cho giác quan. Sau cách mạng sự " Xê dịch" đã đem lại cho ông nhiều hiểu biết mới mẻ về cảnh sắc thiên nhiên và con người đất nước Tuỳ bút" Người lái đò Sông Đà" trích trong tập tuỳ bút Sông Đà (1960) là kết quả chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958 của nhà văn. Trong tuỳ bút ông đã phát hiện và miêu tả " Chất vàng mười" của cảnh sắc núi sông và con người Tây Bắc. Đặc biệt với ngòi bút tài hoa của nhà pháp thuật ngôn từ Nguyễn Tuân con Sông Đà của Tây Bắc hiện lên vừa hung bạo hùng vĩ vừa tuyệt vời thơ mộng.
II/ Giải quyết vấn đề:
1) Giới thiệu chung hình ảnh Sông Đà trong tác phẩm:
Dòng Sông Đà là một trong hai hình tượng nghệ thuật chính của tuỳ bút cùng với hình tượng người lái đò làm nên bức tranh toàn cảnh và hết sức sinh động về Sông Đà. Dòng Sông Đà là phông nền, khung cảnh để từ đó hiện ra hình tượng trung tâm: Người lái đò. Hình ảnh dòng Sông Đà vừa là đối tượng đuợc Nguyễn Tuân miêu tả trực tiếp vừa là phương thức nghệ thuật để gián tiếp làm nổi bật hình tượng nhân vật trung tâm: Người lái đò. Tuy nhiên trong thiên tuỳ bút này Nguyễn Tuân dành khá nhiều bút lực để miêu tả dòng sông. Dòng sông được miêu tả bằng tất cả sự say mê hứng khởi của Nguyễn Tuân. Phong cách nghệ thuật, sở trường của Nguyễn Tuân cũng được bộc lộ đầy đủ ở hình tượng dòng Sông Đà. Dòng sông như một khám phá của Nguyễn Tuân, như một cơ hội được nhà văn khoe ra tất cả sự tài hoa uyên bác nghệ sĩ của chính mình. Dòng sông Đà hiện lên trong trang tuỳ bút như một sinh thể độc đáo vừa có hình hài vừa có cá tính, phong cách có cả số phận. Ngòi bút của Nguyễn Tuân đi sâu miêu tả hai nét tính cách trái ngược của dòng sông Đà: hung bạo và trữ tình.
2) Phân tích hình ảnh dòng sông Đà:
Khác với những hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm tự sự ( truyện ngắn, tiểu thuyết) hình ảnh sông Đà trong tuỳ bút này được giới thiệu về phẩm chất, tính cách một cách trực tiếp. Trữ tình và hung bạo là hai nét tính cách mà Nguyễn Tuân phát hiện từ dòng sông Đà rồi giới thiệu tới người đọc. Đây cũng là nét phong cách riêng của Nguyễn Tuân khi thể hiện một hình tượng nghệ thuật.
a) Sông Đà hung bạo:
Ngay từ lời đề Nguyễn Tuân đã phát hiện ra cái độc đáo của sông Đà " Chúng thuỷ giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu" Sông Đà không chịu chung hướng với các dòng sông khác mà chọn một hướng đi riêng. Cái độc đáo của sông Đà trước hết bộc lộ ở tính cách hung bạo. Cái hung bạo của con sông Đà hiện lên ở bờ đá ven sông " đá bờ sông dựng vách thành" Vách đá chẹn ngang lòng sông như một cái yết hầu Nguyễn Tuân đưa ra khá nhiều hình ảnh để tả lòng sông chỗ bị đá chen. Tài quan sát và vốn từ ngữ phong phú đã giúp Nguyễn Tuân miêu tả thành công cái dữ dội của đá nơi lòng sông. Vách đá ấy giống như một thứ hùm beo ăn thịt đời sống của cả dòng sông Đà.
Cái dữ dội của dòng sông Đà còn ở tiếng nước, thác nước. Lối văn trùng điệp hình tượng hoá tiếng nước dữ dội của sông Đà. Nó lúc nào cũng trong tư thế cuồng phong thuỷ chiến. Tiếng nước được nhà văn miêu tả như tiếng một con vật khổng lồ đang bị hành hình.
Dòng sông được miêu tả như một thuỷ quái đang giãy chết. Như một điện ảnh gia Nguyễn Tuân còn hình dung ra cảnh: một anh bạn quay phim táo tợn ngồi vào chiếc thuyền để hút nước sông Đà hút xuống dưới tận đáy sông để rồi từ đó lia ngược máy quay phim lên. Nước sông Đà như một khối bê tông thuỷ tinh đúc dày. Khối bê tông này có thể đổ ập xuống cả người, cả máy quay phim. Hình ảnh ấy gợi ra vẻ dữ dội nhưng kỳ vĩ của sông Đà. Dòng dông lúc nào cũng ở trong cơn cuồng nộ muốn hút vào lòng nó tất cả những gì trên bề mặt sông Đà. Tính hiếu chiến ấy là biểu hiện rõ nhất của dòng sông Đà hung bạo. Nguyễn Tuân còn tả hết sức tường tận những thác nước sông Đà. "Tiếng thác nước nghe như là oán trách gì rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích giọng gằn mà chế nhạo" Dòng sông Đà như uất ức hờn giận. Đặc sắc nhất là Nguyễn Tuân lấy lửa để tả nước làm cảnh sắc sông Đà dữ dội, hoành tráng " Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vẫn tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng".
Đá ở sông Đà cũng hung bạo như thác nước sông Đà. Những hiểu biết về võ thuật, quân sự giúp Nguyễn Tuân miêu tả thành công thạch bàn trên ở lòng sông. Mỗi hòn đá mang gương mặt của những chiến binh " Mặt hòn nào cũng ngỗ ngược" một hò đá trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi tên chiếc thuyền. Cả đại dương đá dàn thành trận địa sẵn có hàng tiền vệ, có những boong ke, pháo đài đá, cửa tử, cửa sinh. Khi con thuyền của người lái đò xuất hiện đá ở sông Đà nước ở sông Đà tất cả nhổm cả dậy giao chiến với người lái đò. Sông Đà trở thành một chiến địa dữ dội hào hùng.
b) Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân sông Đà không chỉ hung bạo mà nó còn rất trữ tình. Trước hết là hình day mềm mại duyên dáng của dòng sông. Từ trên cao nhìn xuống Nguyễn Tuân được chiêm ngưỡng toàn cảnh dòng sông trong dáng hình mềm mại uốn lượn tự nhiên của nó. Nguyễn Tuân đã so sánh dòng sông Đà với sợi dây thừng ngoằn ngoèo. Sự so sánh giản đơn nhưng chính xác độc đáo nên tạo được sự bất ngờ thú vị. Sông Đà đẹp thơ mộng trước hết ở vẻ đẹp tự nhiên ấy.
Dòng nước sông Đà cũng mang vẻ đẹp duyên dáng, thi vị: " Từng nét sông tải ra trên đại dương đá. Từ trên cao, trên nền một đại dương đá núi ẩn hiện lờ mờ qua làn mây là một con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng 2 và cuồn cuộn khói núi mèo đốt nương xuân" Nguyễn Tuân so sánh dòng sông với áng tóc của người con gái. Sông Đà hiện lên như một mỹ nhân duyên dáng, đài các. Sông Đà trở thành nơi hội tụ vẻ đẹp của đất trời, con người Tây Bắc. ít nhà thơ, nhà văn nào tả sông nước bằng hình ảnh nét sông tãi ra, tả con sông bằng áng tóc trữ tình. Nguyễn Tuân đã miêu tả dòng sông bằng tâm hồn của một thi sĩ nên đã tạo được những liên tưởng kỳ thú như thế về dòng sông.
Sông Đà còn có màu nước trữ tình, mùa xuân dòng xanh ngọc bích mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Sự thay đổi màu nước theo mùa làm dòng sông giống hệt một thiếu nữ thất thường. Nghệ thuật so sánh bất ngờ táo bạo rất Nguyễn Tuân đã làm nên một sông Đà thơ mộng, trữ tình, đa tình, đa cảm. Sông Đà là con sông gợi cảm. Dòng sông Đà mang lại khơi dậy trong lòng người bao nỗi niềm xúc cảm: "Đã có lần tôi nhìn sông Đà như một cố nhân". Sông Đà gợi niềm vui của con người với cảnh cũ, tình xưa. Đến với sông Đà Nguyễn Tuân còn thấy lòng mình như trẻ lại, thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt rồi bỏ chạy. Sông Đà đã gợi nỗi niềm thơ bé trong lòng tác giả. Cảnh bờ bãi ven sông còn gợi lên trong Nguyễn Tuân niềm vui, niềm hứng khởi rất thi sĩ: " Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Đặc biệt sông Đà còn gợi trào dâng cảm hứng thi sĩ, đứng trước sông Đà không ai không nghĩ đến những câu ca dao thần thoại Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, những câu thơ tình của Tản Đà, những câu thơ Đường của Lý Bạch. Bỗng chốc sông Đà đã biến Nguyễn Tuân thành thi sĩ của tình yêu cảnh vật, cuộc đời, thiên nhiên xã hội con người.
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn toát lên từ không gian tĩnh lặng. Phải chăng đây là đoạn Sông Đà ở hạ nguồn dòng sông hiền lành yên ả" Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi ". Cái tình lặng ở sông Đà đưa Nguyễn Tuân trở về với quá khứ. Sông Đà trở thành nơi hội tụ của vẻ đẹp lịch sử. Cũng bằng liên tưởng, xúc cảm đồi dào Nguyễn Tuân đã nhận ra vẻ đẹp mộng mơ, huyền ảo, hồn nhiên hoang dã của sông Đà. " Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích thủa xưa". "Bờ tiền sử, nỗi niềm cổ tích thủa xưa" là cách nói rất độc đáo của riêng Nguyễn Tuân. Nó không chỉ tạo cho câu văn nhạc tính mà còn làm ra giá trị gợi cảm của nó. Dòng sông Đà hiện nên thơ mộng, trữ tình, hồn nhiên, tươi sáng. Cảnh sắc ven sông Đà đẹp như trong huyền thoại cổ tích. ở đó cây lá đều tươi mới non tơ" những lá ngô non đầu mùa, những búp nõn cỏ gianh, ở đó có những con vật hoang dã nhưng nghe được tiếng người: ở đó con người đắm chìm trong cảnh vật, thấu hiểu tiếng nói của loài vật. Vẻ đẹp của dòng sông Đà thật trữ tình thơ mộng.
Hung bạo và trữ tình là hai nét tính cách đối lập nhau tạo nên vẻ đẹp đầy sức lôi cuốn của sông Đà. Trong cách miêu tả của Nguyễn Tuân, sông Đà thực sự là 1 người tình nhân chưa quen biết, là một mỹ nhân lắm bệnh nhiều chứng chốc dịu dàng đấy, chốc lại bẳn tính gắt gỏng. Bút pháp lãng mạn với thủ pháp tương phản, hệ thống hình ảnh được tạo ra từ những liên tưởng kỳ thú đã giúp Nguyễn Tuân miêu tả vẻ đẹp kỳ thú đặc biệt độc đáo của sông Đà.
File đính kèm:
- Hinh tuong song Da va nguoi lai do.doc