- Lê Hữu Trác (1720 - 1791) hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, là một đại danh y bậc nhất ở nước ta. Bộ “Y tông tâm lĩnh” gồm 66 quyển được coi là cuốn Bách khoa toàn thư về y học trong thế kỉ XVIII. Sách còn có nhiều thơ văn, trong đó tiêu biểu nhất là tập “Thượng kinh kí sự”.
- “Thượng kinh kí sự” ghi lại những điều mắt thấy tai nghe tại chốn kinh kì, cung cấm trong chuyến tác giả lên kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán, con của Trịnh Sâm và Đặng Thị Huệ. “Thượng kinh kí sự” đã phản ánh được một phần nào cuộc sống xa hoa hưởng lạc của bọn vương hầu, mô tả cảnh vật cung cấm đế đô cuối thời Lê - Trịnh, và thuật lại cuộc tự đấu tranh kiên trì của tác giả để tránh vạ công danh.
7 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1527 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích trích đoạn “Vào phủ chúa Trịnh” trong “Thượng kinh kí sự” của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“Vào phủ chúa Trịnh”
Thứ Năm, 14/07/2011, 03:33 CH | Lượt xem: 2218
Phân tích trích đoạn “Vào phủ chúa Trịnh” trong “Thượng kinh kí sự” của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác
VÀO PHỦ CHÚA TRỊNH
(Trích “Thượng kinh kí sự”)
Lê Hữu Trác
I. Kiến thức cơ bản.
1. Tác giả:
- Lê Hữu Trác (1720 - 1791) hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, là một đại danh y bậc nhất ở nước ta. Bộ “Y tông tâm lĩnh” gồm 66 quyển được coi là cuốn Bách khoa toàn thư về y học trong thế kỉ XVIII. Sách còn có nhiều thơ văn, trong đó tiêu biểu nhất là tập “Thượng kinh kí sự”.
- “Thượng kinh kí sự” ghi lại những điều mắt thấy tai nghe tại chốn kinh kì, cung cấm… trong chuyến tác giả lên kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán, con của Trịnh Sâm và Đặng Thị Huệ. “Thượng kinh kí sự” đã phản ánh được một phần nào cuộc sống xa hoa hưởng lạc của bọn vương hầu, mô tả cảnh vật cung cấm đế đô cuối thời Lê - Trịnh, và thuật lại cuộc tự đấu tranh kiên trì của tác giả để tránh vạ công danh.
2. Những điểm chính trong đoạn văn “Vào phủ chúa Trịnh”.
a. Bức tranh Trịnh phủ giàu màu sắc hiện thực:
- Trên đường đi tới phủ Chúa, Lê Hữu Trác “ngẩng đầu lên đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đung đưa thoang thoảng mùa hương”.
- Cảnh giàu sang của vua chúa thật khác hẳn người thường!
“Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, tiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen…”
- Mỗi cung điện có một cái tên rất lạ: điếm “Hậu mã quân túc trực”, làm bên cạnh một cái hồ “có những cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ”, “cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp”. Nhà “Đại đường” gọi là “Quyển hồng” có “Gác tía” và “Phòng chè”.
Nội cung tối om, phải đi qua nhiều lớp màn gấm, trướng gấm. Đèn sáp chiếu sáng hương hoa ngạt ngào. Sập thiếp vàng, trên đặt một cái ghế rồng sơn son thiếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Có hai cái kiệu để vua chúa đi. Đồ mi trượng đều sơn son thiếp vàng. Võng điều đỏ. Lê Hữu Trác vô cùng ngạc nhiên, troáng nghợp “liếc mắt nhìn rồi cúi đầu đi”. Cụ danh y cúi đầu đi lặng lẽ suy nghĩ “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”
- Tại điếm “Hậu mã”, Lê Hữu Trác được ăn một bữa cơm thật ngon, thật sang, toàn là “mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ”, ông xúc động nghĩ “tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”.
- Con người trong phủ chúa Trịnh được nói đến là chúa Trịnh Sâm, thế tử Trịnh Các, các cung nữ, bọn quan lại, các thày thuốc, bọn lính tráng canh gác.
Phía ngoài có “lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt”. Cảnh “người dữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”. Tại “Phòng Chè” có bảy, tám người “ngồi theo thứ tự” đó là các vị lương y trong phủ chúa đêm ngày chầu chực ở đấy để “hầu trà” thế tử. Nơi “Gác tía” sau tấm màn là mấy người cung nhân đang xúm xít, dưới ánh đèn sáp chiếu sáng “nổi bật màu mặt phấn và màu áo đỏ”.
Nhân vật chung tâm là một đứa bé độ năm, sáu tuổi ngồi trên sập sơn son thiếp vàng, mặc áo lụa đỏ, “da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, chân tay gầy gò”. Khi thấy cụ thầy thuốc lạy, con bệnh hồn nhiên nói và cười: “ông này lạy khéo!”. Đây là những nét vẽ hiện thực hóm hỉnh về vị con Trời nay mai sẽ bước lên ngai vàng để trị nước.
Tóm lại, cảnh và người được nói đến trong phủ chúa Trịnh có giá trị tư liệu lịch sử to lớn. Tác giả đã làm hiện lên cảnh cung cấm tráng lệ và sinh hoạt xa hoa của các bậc đế vương thời Lê Trịnh.
b. Cảm nghĩ của tác giả
- Cái giá phải trả lúc có thánh chỉ triệu vào: “Cáng chạy như ngựa lồng, tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết!”
- Vốn là con quan, sinh trưởng ở trốn phồn hoa, nhưng trong phủ chúa Trịnh thì Lê Hữu Trác “mới nghe nói thôi”. Cảnh giàu sang của vua chúa làm cho ông choáng ngợp:
“Quê mùa, cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư Phủ Đào nguyên thuở nào!”
- Tác giả mất tự nhiên, có lúc sợ sệt, hoặc “cúi đầu đi”, hoặc “liếc mắt nhìn”. Lúc xem mạch thế tử thì “khúm núm”, phải hai lần lạy tạ một đứa bé năm, sáu tuổi, mỗi lần bốn lạy
- Lúc kê đơn, Lê Hữu Trác phải qua cuộc tự đấu tranh tư tưởng giữa danh lợi, y đức và tâm nhàn. Ông nghĩ: “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được”. Lương tâm của vị thày thuốc đã nhắc nhở ông “phải dốc hết cả cái lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”.
c. Kết bài
Đoạn văn vào phủ chúa Trịnh có giá trị lịch sử và đậm đà giá trị văn chương. Đó là những trang văn độc đáo làm sống lại cuộc đời xa hoa của vua chúa, làm hiện lên cảnh Trịnh phủ là canh “sang nhất trời Nam”. Nó thể hiện tâm hồn cao quý thanh cao của vị đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
II. Bài văn tự luận, tham khảo
Phân tích trích đoạn “Vào phủ chúa Trịnh” trong “Thượng kinh kí sự” của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác
Bài làm
Lê Hữu Trác (1720-1791) hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, một đại danh y của Đại Việt. Ngoài những trước tác về y học trong bộ “Y tông tâm lĩnh” gồm 66 quyển, ông còn để lại nhiều thơ văn, trong đó có tác phẩm độc đáo “Thượng kinh kí sự”. Thơ văn của Lãn Ông nhẹ nhàng, hóm hỉnh, giàu tính hiện thực, phản ánh một nhân cách cao đẹp: coi thường công danh phú quý, yêu thiên nhiên, yêu quý đồng loại, thích cuộc sống thanh nhàn.
“Thượng kinh kí sự” ghi lại hành trình của ông lên Kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán. Đoạn văn “Vào phủ chúa Trịnh” trích trong cuốn kí sự ấy rất giàu giá trị hiện thực và cho thấy một ngòi bút đậm đà, tài hoa.
Lần đầu, Lê Hữu Trác được vào Trịnh phủ. Ông ngẫm nghĩ và quan sát rất kĩ càng. Cửa sau vào phủ chúa phải đi qua con đường bên trái, ông ngẩng đầu lên nhìn một khung cảnh tuyệt đẹp “đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đung đưa thoang thoảng mùi hương”.
Nơi cung cấm, hành lang “quanh co nối nhau liên tiếp”, người giữ cửa, vệ sĩ canh giữ nghiêm ngặt, ai muốn vào ra phải có thẻ, người có việc quan qua lại như mắc cửi, “truyền báo rộn ràng”.
Quan sát cảnh cung cấm, Lê Hữu Trác ngẫm nghĩ: “Bước chân đến đây mới hay các cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Rồi ông làm thơ nói lên sự ngạc nhiên, xúc động của mình tựa như “ngư phủ Đào nguyên thuở nào”:
“Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen…”.
Ông thầy thuốc trên đường đi khám bệnh, mang tâm hồn thi sĩ, tả cảnh, vịnh thơ, ta tưởng như ông đang đi thăm thú cảnh đẹp. Cách viết kí sự của Lê Hữu Trác hấp dẫn ta vì thế!
Trong Trịnh phủ, cung điện nguy nga tráng lệ. Mỗi lâu đài, cung điện có một cái tên riêng. Là “Điếm Hậu mã quân túc trực” làm bên một cái hồ, cột và bao lơn “lượn vòng kiểu cách thật là xinh đẹp”, phía ngoài có những cây “lạ lùng”, có những hòn đá “kì lạ”. Nhà “Đại Đường” còn gọi là “Quyển Hồng”. Là cái lầu cao và rộng, “cột đều sơn son thiếp vàng” gọi là “Gác Tía”, nơi Thế tử dùng “chè thuốc”, nên gọi là “Phòng Chè”.
Lê Hữu Trác có phần choáng ngợp sợ hãi “chỉ dám liếc mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ, từ vườn hoa đến hồ, từ lầu son đến gác tía là những công trình văn hoá nghệ thuật do tài trí công sức của nhân dân làm nên, vì thế Lê Hữu Trác đã xúc động ngắm nhìn. Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ được miêu tả còn mang ý nghĩa hiện thực phản ánh cuộc sống xa hoa của bọn vua chúa thời Lê - Trịnh, cảnh giàu sang “khác hẳn người thường”.
Phương tiện đi lại của vua chúa là hai cái kiệu; đồ nghi trượng đều sơn son thiếp vàng. Thứ để ngồi và nằm là một cái sập thiếp vàng, trên sập mắc một cái võng điều đỏ. Xung quanh cái sập bày bàn ghế vô cùng quý giá, sang trọng làm cho ông thầy thuốc phải tấm tắc và cảm thấy “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”.
Thế tử - con bệnh - là con Trời, mới lên 5, 6 tuổi mặc áo lụa đỏ, ngồi trên cái sập thiếp vàng. Bên cạnh sập đặt một cái ghế rồng sơn son thiếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Lê Hữu Trác phải đi qua năm, sáu lần trướng gấm mới đến được nơi Thế tử ngồi để “lạy bốn lạy” trước và sau khi khám bệnh. Nơi nội cung, đèn sáp chiếu sáng, sau chiếc màn là cung nhân đứng xúm xít, “mặt phấn, màu áo đỏ”. Cả một không gian “lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”. Thật đúng “Cả trời Nam sang nhất là đây!”.
Vua chúa và bọn quan lại trong phủ chúa ăn uống như thế nào? Tại điếm “Hậu Mã”, lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong cuộc đời, vị đại danh y được ăn một bữa cơm ngon nhớ mãi. Tuy chỉ được quan Chánh đường “san mâm cơm cho ăn”, nhưng “mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ”.Ông thầy thuốc mà danh tiếng “như sấm động” đã suy nghĩ và nói: “Tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”.
Chốn đế đô cung cấm là nơi “lính nghìn cửa vác đòng nghiêm nhặt”. Lê Hữu Trác chỉ mới được đặt chân tới một vài cung điện, mới tiếp xúc một vài cảnh, một số ít người, nhưng ông đã nêu bật được cuộc sống xa hoa, hưởng lạc của vua chúa thời Lê- Trịnh. Cuộc sống đế vương được xây dựng trên mồ hôi xương máu của nhân dân, mọi thứ vật ngon của lạ do người lao động cả nước làm ra bị tước đoạt cho một số ít người hưởng thụ. “Cơm ngự thiện bữa nghìn quan” xưa nay đều thế! Tác giả “Thượng kinh kí sự” có một lối viết rất hiện thực và ấn tượng, mọi chi tiết được ông nói đến rất sống.
Lê Hữu Trác vốn dòng dõi thế tộc thời Lê sinh trưởng ở chốn phồn hoa, trong cấm thành chỗ nào cũng đã từng biết, nhưng Trịnh phủ thì “ông mới nghe nói thôi”, lần đầu đi vào ông choáng ngợp như bước vào cảnh thần tiên:
“Quê mùa cung cấm chưa quen ,
Khác gì ngư phủ Đào nguyên thuở nào!”.
Coi thường danh lợi, ông đã vào tận Hương Sơn, Hà Tĩnh sinh sống, chuyên tâm nghề y, chữa bệnh cứu người làm lẽ sống. Vì có tài, tiếng tăm như sấm động nên có thánh chỉ triệu vào cung chữa bệnh cho Thế tử. Ông viết một cách hóm hỉnh về cái bả công danh: “Cáng chạy như ngựa lồng, tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết!”. Nửa thế kỉ sau, Cao Bá Quát chua chát viết: “Ơn vua kèm theo sấm sét!”.
Tiếp xúc với cảnh và người nơi Trịnh phủ, Lê Hữu Trác có lúc mất tự nhiên, có lúc sợ sệt, hoặc “cúi đầu đi”, hoặc “liếc mắt nhìn”. Lúc xem mạch thì “khúm núm” phải hai lần vái lạy một đứa bé độ 5, 6 tuổi, mỗi lần bốn lạy!
Lúc kê đơn là một cuộc tự đấu tranh tư tưởng diễn ra vô cùng gay gắt xung quanh vấn đề danh lợi, y đức và chữ nhàn. Ông nghĩ: “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được”. Về núi để được sống tự do, thảnh thơi, chan hoà với thiên nhiên. “Lưng khôn uốn, lộc nên từ” là thế!
Lương tâm bậc danh y lại nhắc nhở ông “phải dốc hết cả cái lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của ông cha mình mới được”. Cái lòng thành mà ông nói đến là lương y như từ mẫu, là y đức coi việc chữa bệnh cứu người là lẽ sống cao đẹp. Vì thế, mặc dù quan Chánh đường có gợi ý nên dùng những vị thuốc “phát tán mới xong”, mặc dù có năm, sáu vị lương y của sáu cung hai viện đang ngày đêm chầu chực xung quanh con bệnh, nhưng Lê Hữu Trác vẫn có chủ kiến riêng, lập luận riêng của mình:
“Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên…”.
Qua đó, ta thấy tài năng và đức độ của Lê Hữu Trác, một đại danh y coi thường danh lợi, sống thanh bạch, thích nhàn, lấy việc trị bệnh cứu người, đặt lên trên hết, lên trước hết. Biệt hiệu “Lãn Ông” thật giàu ý nghĩa: ông già lười, lười làm quan và biếng danh lợi.
Đoạn văn “Vào phủ chúa Trịnh” thật hay và thú vị, ta cảm thấy mình được tác giả dẫn đi xem cung điện Thăng Long thời Lê - Trịnh. Đoạn văn cũng như tác phẩm “Thượng kinh kí sự” vừa có giá trị văn chương vừa giàu giá trị lịch sử.
Đoạn văn rất giàu tính hiện thực, nó đã phản ánh chân thực cảnh vàng son nơi Trịnh phủ và cuộc sống xa hoa, phú quý của vua chúa, quan lại thời Lê - Trịnh.
Cách viết của Lãn Ông rất đặc sắc hấp dẫn. Vừa tả, vừa kể, vừa lồng ý nghĩ cảm xúc, rất chân thực, hóm hỉnh. Ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ cung đình, ngôn ngữ chuyên môn về y học được tác giả sử dụng rất sáng tạo, biến hóa.
“Vào phủ chúa Trịnh”, đoạn kí sự giàu chất thơ đã phản chiếu vào một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao quý.
ST
File đính kèm:
- VAO PHU CHUA TRINH(1).doc