1.Lí do chọn đề tài
1.1 Nước ta đang trong giai đoạn hội nhập và phát triển vì thế cần có sự phát triển đồng bộ, của tất cả các hình thái ý thức xã hội, các nhân tố khác nhau trong đó có giáo dục.
Quan điểm giáo dục của Việt Nam là hướng đến sự toàn diện, không chỉ cung cấp tri thức mà quan trọng hơn cả là góp phần hoàn thiện nhân cách của con người- những Con Người thực thụ, để từ đó mỗi người có thể biết cách làm việc, biết cách chung sống, biết cách khẳng định mình. Môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông cũng không nằm ngoài hướng đi ấy bằng cách cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về văn học Việt Nam và văn học nước ngoài. Đặc biệt với bộ môn Ngữ Văn đang có những thay đổi quan trọng về cách dạy, cách học, cũng như chương trình nội dung sách giáo khoa, để phù hợp với xu thế chung của thời đại.
40 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 6794 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn - Trường THPT Quỳnh Lưu 2, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Đề mục
Nội dung
Trang
Phần đặt vấn đề
Đặt vấn đề
Lí do chọn đề tài
Lịch sử vấn đề
Giới hạn nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Phần nội dung
Nội dung
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
1.1 Nước ta đang trong giai đoạn hội nhập và phát triển vì thế cần có sự phát triển đồng bộ, của tất cả các hình thái ý thức xã hội, các nhân tố khác nhau trong đó có giáo dục.
Quan điểm giáo dục của Việt Nam là hướng đến sự toàn diện, không chỉ cung cấp tri thức mà quan trọng hơn cả là góp phần hoàn thiện nhân cách của con người- những Con Người thực thụ, để từ đó mỗi người có thể biết cách làm việc, biết cách chung sống, biết cách khẳng định mình. Môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông cũng không nằm ngoài hướng đi ấy bằng cách cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về văn học Việt Nam và văn học nước ngoài. Đặc biệt với bộ môn Ngữ Văn đang có những thay đổi quan trọng về cách dạy, cách học, cũng như chương trình nội dung sách giáo khoa, để phù hợp với xu thế chung của thời đại.
1.2. . Vị trí của văn học nước ngoài trong chương trình văn học nhà trường rất quan trọng. Văn học nước ngoài được lựa chọn giảng dạy ở trường THPT chiếm một thời lượng không nhỏ trong chương trình và là sự kết tinh tinh hoa của văn học thế giới, đủ sức vượt qua sự thử thách khắc nghiệt của không gian và của thời gian. Ta bắt gặp ở đó những đỉnh cao như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Ba sô, Sêch-xpia, Sêkhôp, Puskin, Lỗ Tấn, Sô-lô-khôp....với những tác phẩm nổi tiếng. Nhìn chung đó là những tác phẩm rất giàu giá trị nhân bản, tinh thần dân tộc có tác dụng lớn trong việc bồi dưỡng tâm hồn, hoàn thiện nhân cách. Không chỉ thế việc tiếp nhận các giá trị văn hóa lớn sẽ tạo điểm tựa tốt cho chúng ta xây dựng con người Việt Nam hiện đại, là cơ sở cho vấn đề hội nhập văn hóa thế giới- một vấn đề mang tính tất yếu hiện nay.
1.3 Từ năm học 2006-2007 đến nay SGK ngữ văn của cả ba khối lớp đã được thay đổi dựa trên tinh thần tích hợp của ba phân môn tiếng việt, làm văn và đọc văn. Đặc biệt phần văn học Việt Nam và văn học nước ngoài được thiết kế đan xen vào nhau, giúp học sinh không chỉ có cái nhìn toàn diện hơn về nền văn học Việt Nam mà còn có cơ hội so sánh đối chiếu với nền văn học thế giới. Đây là sự đổi mới hết sức đúng đắn và phù hợp với phương pháp dạy văn và học văn hiện nay.
Thực tế chương trình sách giáo khoa có sự thay đổi, vì vậy không có lí gì mà người dạy và người học văn chỉ “dậm chân tại chỗ”. Đặc biệt chúng ta không chỉ quan tâm và hứng thú với những tác phẩm văn học nước nhà, mà còn cần chú ý tìm tòi, cảm nhận sâu sắc nữa với những tác phẩm văn học nước ngoài.
Thế nhưng, nó dường như vẫn chưa được quan tâm đúng mức, dường như vẫn còn là một mảnh đất thiêng với cả giáo viên và học sinh do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau.Giáo viên thì thụ động, ngại nghiên cứu nên cũng không có được những phương pháp dạy học sáng tạo để cuốn hút học sinh. Học sinh thì cũng ngại học nên đã có những suy nghĩ mơ hồ hoặc là sai lệch về các tác phẩm văn học đích thực đó. Phải chăng sự cách biệt về văn hóa, về ngôn ngữ là một rào cản quan trọng khiến văn học nước ngoài ít được chủ động đón nhận ở trường phổ thông?
1.4 Cả Lỗ Tấn và Puskin đều đã khẳng điịnh được vị trí không thể thay thế của mình trên văn đàn thế giới.Nếu Lỗ Tấn là nhà văn cách mạng vĩ đại của Trung Quốc"trước Lỗ Tấn chưa hề có Lỗ Tấn, sau Lỗ Tấn có vô vàn Lỗ Tấn" thì Puskin là ''mặt trời thi ca Nga, là người đóng vai trò khởi đầu cho mọi sự khởi đầu".Và hai tác phẩm được lựa chọn giảng dạy ở bậc phổ thông là "Thuốc" và "Tôi yêu em" đều có một vị trí xứng đáng trong sự nghiệp văn học của hai tác giả nhưng sự tiếp cận của cả giáo viên và học sinh chưa thực sự đúng mức, vì thế chưa thể thấu hết giá trị tư tưởng và nghệ thuật.
Trước thực trạng dạy học tác phẩm văn học nước ngoài trong trường phổ thông hiện nay, cùng với sự phát triển rực rỡ của khoa học dạy học văn, người viết muốn kế thừa những thành tựu của những người đi trước, cụ thể hơn, ứng dụng lý thuyết tiếp nhận văn học vào việc thực hiện đề tài "Dạy văn học nước ngoài ở trường trung học phổ thông qua hai tác phẩm "Thuốc" và "Tôi yêu em"
Qua đó, chúng tôi đề ra những giải pháp cụ thể để ứng dụng vào công việc giảng dạy những bài văn học nước ngoài trong chương trình phổ thông theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học sinh.
2. Lịch sử vấn đề
Văn học là sản phẩm của tâm hồn nên dạy văn là một công việc lý thú nhưng không hề đơn giản. Dạy thế nào cho hay, cho hấp dẫn lại càng khó khăn bội phần. Vì dạy văn trong nhà trường có những yêu cầu và nhiệm vụ khắt khe riêng bởi phải nhìn nhận nó vừa là một bộ môn khoa học đồng thời cũng là một bộ môn nghệ thuật đầy phức tạp. Vì thế tài liệu nghiên cứu và hướng dẫn giảng dạy xuất hiện rất nhiều nhưng chưa có một chuyên đề riêng biệt cụ thể về hướng dẫn dạy tác phẩm văn học nước ngoài ở trường phổ thông mà chỉ có những bài hướng dẫn ở trong các cuốn sách khác nhau.
Qua việc xem xét, nghiên cứu các tài liệu liên quan chúng tôi nhận thấy:
Thứ nhất, những bài viết, những công trình nghiên cứu về các tác giả văn học lớn trên thế giới cũng như phương pháp dạy học văn khá phong phú và đa dạng, giúp ích rất nhiều cho giáo viên trong quá trình giảng dạy. Tuy nhiên, các công trình ấy mới chỉ ra một cách khái quát hướng giảng dạy tác phẩm văn học nước ngoài ở trường phổ thông ở cấp độ nội dung chứ chưa hướng dẫn một cách cụ thể các phương thức tiến hành.
Thứ hai, các cuốn sách giới thiệu các bài học đó còn tản mát ở các cuốn sách khác nhau, đặc biệt chưa chỉ ra cho học sinh thấy được cách thức chung khi tiếp cận một tác phẩm thơ hoặc văn xuôi nước ngoài như thế nào theo đặc trưng thi pháp thể loại và tính chất của tiếp nhận văn học Do đó, trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi đã học tập, kế thừa thành quả của những bậc tiền bối với mong muốn góp một tiếng nói nhỏ để từng bước nâng cao chất lượng dạy văn học văn hiện nay.
3. Giới hạn của đề tài
Nghiên cứu đề tài này, do khuôn khổ của một sáng kiến kinh nghiệm và khả năng có hạn chúng tôi tập trung vào một số vấn đề sau:
- Khảo sát nội dung,cấu trúc, thời lượng của chương trình văn học nước ngoài, vị trí cũng như thực tiễn giảng dạy ở trường THPT hiện nay
- Chỉ ra thực trạng giảng dạy tác phẩm Thuốc, Tôi yêu em và một số vấn đề cần chú ý về thi pháp Lỗ Tấn thể hiện trong tác phẩm Thuốc, đặc điểm thở trữ tình Puskin.
- Thiết kế thể nghiệm hai giáo án giảng dạy Thuốc và Tôi yêu em .Trên cơ sở đó đề ra những giải pháp pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy tác phẩm văn học nước ngoài.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
4.1. Phương pháp khảo sát thực tiễn
4.2. Phương pháp phân tích, so sánh, quy nạp
4.3. Phương pháp so sánh đối chiếu
4.4.Giảng dạy thực nghiệm
Để minh chứng cho những nghiên cứu, tìm tòi của mình, chúng tôi cũng đã tiến hành giảng dạy thể nghiệm ở các lớp khác nhau trong các năm học 2009-2010, 2010-2011, 2011-2012 có sự dự giờ góp ý của các đồng nghiệp, để từ đó có cơ sở so sánh đối chiều với những hướng tiếp cận khác.
5. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và thư mục tham khảo, đề tài được chia làm 3 chương
- Chương 1: Văn học nước ngoài trong nhà trường phổ thông hiện nay
- Chương 2: Những vấn đề cần lưu ý khi dạy hai tác phẩm Thuốc của Lỗ Tấn và Tôi yêu em của Puskin theo đặc trưng thi pháp thể loại và tính chất cuả tầm tiếp nhận của học sinh
- Chương 3: Thiết kế giáo án thể nghiệm
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I- VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY
1. Cấu trúc, thời lượng chương trình của văn học nước ngoài trong SGK Ngữ văn – chương trình
Theo tinh thần tích hợp, những nhà soạn sách đã cân nhắc kỹ lưỡng để lựa chọn được những tác giả và tác phẩm cần thiết, đảm bảo tính tiêu biểu, gọn nhẹ.
Phân phối chương trình môn Ngữ văn- Chương trình cơ bản phần văn học nước ngoài (VHNN) gồm các bài cụ thể như sau:
Lớp
Tác giả- tác phẩm
Nền văn học
Số tiết
Ngữ văn 10
- Uy-lit-xơ trở về(Trích sử thi Ô-đi-xê) của Hôme
- Ra-ma-buộc tội
- Tạo lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng- Lý Bạch
- Cảm xúc mùa thu- Đỗ Phủ
- Đọc thêm: Lầu Hoàng Hạc(Thôi Hiệu),Nỗi oán của người phòng khuê(Vương Duy), Khe chim kêu(Vương Xương Linh)
- Thơ hai-cư của Ba-sô
Hy Lạp
Ấn Độ
Trung Quốc
Trung Quốc
Trung Quốc
Nhật Bản
2
2
1
1
1
1
Ngữ Văn 11
- Tình yêu và thù hận(trích Rô-mê-ô và Ju-li-ét) của Sêch-xpia
- Tôi yêu em- Puskin
- Bài thơ số 28 của Ta-go
- Người trong bao- Sêkhôp
- Người cầm quyền khôi phục uy quyền(trích Những người khốn khổ ) của V.Huygô
- Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác- Ăngghen
Anh
Nga
Ấn Độ
Nga
Pháp
Đức
2
1
1
2
2
2
Ngữ văn 12
- Đọc thêm: Đôt-xtôi-ep-xki của Xvai-gơ
- Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS,1-12-2003- Coophi- Annan
- Đọc thêm: Tự do- Pôn Êluya
- Thuốc- Lỗ Tấn
- Số phận con người- Sô-lô-khôp
- Ông già và biển cả- E.hê-minh-uê
Áo
Nam Phi
Pháp
Trung Quốc
Nga
Mỹ
1
2
1
2
2
2
Tổng hợp
Có sự xuất hiện của: tác phẩm, tác giả
Có sự xuất hiện của 13 nền văn học ở khắp các châu lục trên thế giới
Lớp 10: 8 tiết
Lớp 11: 10 tiết
Lớp 12: 10 tiết
Từ bảng thống kê đó có thể khẳng định: Văn học nước ngoài ở trường phổ thông có một tầm quan trọng đặc biệt
2. Vị trí, vai trò của văn học nước ngoài
2.1. Giúp học sinh có mộ cái nhìn tổng thể về tinh hoa văn học thế giới
Từ bảng thống kê trên, chúng ta thấy rằng chương trình VHNN trong trường phổ thông đã bao quát hầu hết văn học của các châu lục trên thế giới: Châu Á(với các đại diện như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản), Châu Âu(với các đại diện như Anh, Pháp, Đức, Nga,Hy lạp, Áo), Châu Mỹ(với đại diện là Mỹ), Châu Phi (với đại diện là Nam Phi). Trong cấu trúc của chương trình có nhiều tác phẩm của các tác giả nổi tiếng tiêu biểu cho các nền văn học qua các thời kỳ văn học khác nhau.Điều đó đã tạo điều kiện cho học sinh có thể mở rộng và nâng cao phông văn hóa của mình.
Các tác phẩm được đưa vào giảng dạy đều là những tác phẩm nổi tiếng, kết tinh tư tưởng và phong cách nghệ thuật của các tác giả.Với những bộ tiểu thuyết lớn học sinh sẽ được học các trích đoạn tiêu biểu con phần lớn là được tiếp nhận trọn vẹn tác phẩm.
Hơn nữa, văn học chính là linh hồn của mỗi một dân tộc. Văn học dân tộc nào thì kết tinh tư tưởng của văn học đó nhưng tất cả các nền văn học trên thế giới đều hướng đến một mục tiêu chung là giúp con người sống tốt hơn, nhân ái hơn và cao thượng hợn.Việc tiếp cận được nhiều giá trọ văn hóa chúng ta lại càng thự hiện tốt vần đề này.
2.2 Giúp học sinh có sự đối sánh với văn học Việt Nam
Nội dung của chương trình được sắp xếp theo tiến trình văn học của các dân tộc đó trong tiến trình văn học thế giới (trong đó có Việt Nam), đặc biệt được sắp xếp đan xen với văn học Việt Nam. Cách sắp xếp như vậy sẽ giúp học sinh có cái nhìn so sánh mang tính chất tổng thể với văn học nước nhà.
Các tác phẩm được lựa chọn giảng dạy nhiều cũng thể hiện một điều, đó là sự đa dạng phong phú về thể loại như:sử thi, thơ, kịch, tiểu thuyết, chân dung văn học, văn nghị luận...Đây cũng là cơ sở quan trọng để học sinh đối chiếu với các tác phẩm văn học trong nước có cùng thể loại. Cũng là cơ sở để cung cấp thêm kiến thức nền khi tiếp cận các tác phẩm theo đặc trưng thi pháp thể loại.
Không chỉ đối sánh với văn học Việt Nam về tiến trình, thể loại mà khi tiếp cận chúng ta vẫn tìm được tiếng nói chung giữa các nền văn học về những vấn đề lớn lao như chiến tranh, hòa bình, quyền sống của con người...Và rõ ràng đó chính là những chất keo kết dính làm nên mối quan hệ mật thiết giữa nền văn học các dân tộc.Và tất nhiện, khi đặt trong sự đối sánh đó, chúng ta vẫn nhận thấy sự khác biệt lớn về các trào lưu văn học. Chẳng hạn, chủ nghĩa nhân văn, vấn đề con người cá nhân đã xuất hiện ở phương Tây từ thời Phục hưng nhưng vấn đề này chỉ thực sự xuất hiện ở Việt Nam vào nửa cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX.
2.3 Góp phần xây dựng con người Việt Nam hiện đại để hội nhập văn hóa thế giới
Với mục tiêu đem đến cho học sinh một cái nhìn tổng thể về tinh hoa của văn học thế giới cũng như xây dựng con người Việt Nam hiện đại, VHNN trong sách giáo khoa (SGK) phổ thông đã có một vị trí tương đối thích hợp trong toàn bộ khung chương trình.VHNN chiếm 17,5% khung chương trình của phân môn đọc văn (28/160 tiết của phân môn đọc văn ở cả 3 khối lớp).
Xét một cách tổng thể thì văn học là tiếng nói của dân tộc, nên khi ta tiếp cận với một tác phẩm cũng có nghĩa là ta đang tiếp cận với một nền văn hóa.Vì vậy, khi tiếp nhận văn học nước ngoài theo tình thần đối thoại thì mỗi một học sinh sẽ được nâng cao tầm nhận thức, hiểu biết cơ bản về các giá trị tinh thần đặc sắc của nhân loại để từ đó tạo cho mình một điểm tựa vững chắc khi giao lưu học hỏi. Trên cơ sở hiểu được ngôn ngữ, tư tưởng và tâm hồn của các dân tộc khác nhau trên thế giới thì cơ hội để chúng ta xích lại gần nhau trong xu thế hội nhập là dễ dàng hơn rất nhiều.
Nhìn chung, nội dung, cấu trúc và thời lượng chương trình VHNN ở SGK phổ thông đã có sự đổi mới, tương đối phù hợp tầm tiếp nhận của học sinh qua từng lớp học. Từ nội dung chương trình như thế có thể thấy rằng văn học nước ngoài đã khẳng định được vai trò của mình .Đó thực sự là sự nỗ lực không ngừng của những nhà soạn sách.
3. Thực trạng giảng dạy văn học nước ngoài ở trường trung học phổ thông hiện nay
Để tạo cơ sở thực tiễn cho việc nghiên cứu đề tài chúng tôi đã phát phiếu tham khảo ý kiến giáo viên và học sinh ở một số trường THPT thuộc địa bàn huyện Quỳnh Lưu, đồng thời dự giờ rút kinh nghiệm của các đồng nghiệp ở trường THPT Quỳnh Lưu 2 trong 3 năm học liên tiếp. Từ việc xử lí phiếu điều tra, chúng tôi thu được kết quả sau:
- Có 85/120 HS (chiếm tỉ lệ 70,8%) trả lời là không thích học văn học nước ngoài
- Có 77/120HS (chiếm tỉ lệ 64,1%) trả lời là cách dạy của giáo viên "nhạt" hơn rất nhiều so với văn học Việt Nam.
Đồng thời, thực tiễn cũng cho thấy rằng cùng một văn bản văn học nhưng mỗi cá nhân học sinh có cách tiếp nhận khác nhau, các giáo viên cũng không ai đi chung một con đường khi khám phá tác phẩm.
Từ kết quả khảo sát, từ thực tiến việc giảng dạy của bản thân và dự giờ đồng nghiệp thường xuyên, chúng tôi thấy thực trạng dạy học VHNN hiện nay bắt nguồn từ hai phía: cả giáo viên và học sinh
3.1. Về phía giáo viên
3.1.1. Rất nhiều giáo viên đã không chú ý đến đổi mới phương pháp giảng dạy.
Phương pháp chủ yếu của giáo viên chủ yếu vẫn là thuyết giảng- giáo viên làm thay công việc của học sinh.Điều này hoàn toàn đi ngược lại mục tiêu của đổi mới phương pháp dạy học văn hiện nay.Cũng bởi thực tế đó nên các tiết học chưa tạo được hứng thú cho học sinh khi tiếp cận, cắt nghĩa tác phẩm. Điều này đã tạo ra sự bị động cho học sinh và không thực hiện các tính chất của quá trình tiếp nhận văn chương.
Thông thường trong các tiết dạy, giáo viên chỉ chú trọng chuyển tải về mặt nội dung mà ít hướng dẫn cho học sinh tạo ra một "chìa khóa" để có thể mở bất cứ tác phẩm nào cùng thể loại.Đây cũng là tồn tại chung hiện nay. Do tiếp cận theo hướng này mà chúng ta đôi khi tìm hiểu tác phẩm chỉ ở góc độ xã hội học chứ chưa đi theo đặc trưng thi pháp thể loại.
Không chỉ thể, khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm, rất nhiều giáo viên không chú ý đến tính tích hợp. Chẳng hạn, không tìm ra mối liên hệ giữa các tác phẩm, các nền văn học. Chẳng hạn, trong chương trình lớp 10, có thể liên hệ khi dạy 3 tác phẩm sử thi (Ô-đi-xê của Hy Lạp, Ra-ma-y-a-na của Ấn Độ, Đam San của Việt Nam) để thấy được những điểm tương đồng và khác biệt nhưng nhiều giáo viên đã không để ý đến điều đó.
Một thực tế nữa cũng dễ nhận thấy là rất GV sử dụng các phương tiện hỗ trợ dạy học tích cực.Dường như xuất phát từ quan điểm không thi, không nằm trong phạm vi kiểm tra đánh giá nhiều lắm nên GV cũng chỉ dạy qua loa, chiếu lệ
3.1.2. GV không đặt tác phẩm vào vào bầu không khí văn hóa, lịch sử của dân tộc sản sinh ra nó
Văn học là sản phẩm tinh thần của một nhà văn nhưng nhà văn lại kí thác trong đó nhưng ước mơ, khát vọng của mình, của dân tộc mình và thời đại mình đúng như O.Banzac từng nói "Nhà văn là người thư kí trung thành của thời đại".Bởi lẽ đó một tác phẩm văn học bao giờ cũng được sản sinh trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể và chính hoàn cảnh đó sẽ chi phối nhiều đề tài, chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Nhưng nhiều giáo viên đã lãng quên đi mất điều này. Không phải là chúng ta sa đà vào khám phá tác phẩm theo hướng xã hội học nhưng đó vẫn là yếu tố cần thiết.
Hơn nữa, mỗi một dân tộc, mỗi một vùng miền có một có cái những nét văn hóa khác nhau, GV phải nắm vững điều này để tạo điểm tựa vững chắc khi tiếp cận tác phẩm. Chẳng hạn, về phương thức sống, nếu phương Tây hướng ngoại thì phương Đông lại hướng nội.Nhưng một số GV do ngại đọc, ngại vận động nên kiến thức nền ở vấn đề này vẫn còn hạn hế. Và một lẽ tất nhiện, khi những vấn thuộc về kiến thức nền tảng mà giáo viên không vững thì chắc chắn khả năng giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức sẽ giảm đi rất nhiều.
3.2. Về phía học sinh
Một điều dễ nhận thấy qua các tiết học là HS không chịu đọc tác phẩm trước ở nhà nên khi GV yêu cầu các em tái hiện kiến thức thì các em tỏ ra lúng túng, điều này thực sự gây khó khăn cho GV
Khi trực tiếp giảng dạy và dự giờ đồng nghiệp, chúng tôi nhận thấy thêm rằng năng lực cảm thụ, tiếp nhận của HS còn yếu. Có HS còn hiểu ngô nghê, sai lệch tác phẩm.Chẳng hạn, khi được hỏi "cảm nhận của em về Puskin qua tác phẩm tôi yêu em" thì có HS trả lời rằng "Đó là một con người hèn nhát vì không dám đấu tranh cho tình yêu"
Nếu như ở các giờ đọc- hiểu khác HS tham gia giờ học sôi nổi thì đến các tác phẩm VHNN HS tỏ ra không mấy hứng thú, cũng không có sự đối thoại dân chủ giữa GV- HS vì thế không phát huy được tính chủ động, sáng tạo của các em.
3. Nguyên nhân
Từ thực tế đáng lo ngại đó, chúng tôi đã cố gắng để đi tìm nguyên nhân nhằm tìm ra những giải pháp phù hợp, hữu ích cho quá trình giảng dạy. Bước đầu chúng tôi ghi nhận được những nguyên nhân sau:
3.1. Nguyên nhân khách quan
* Có một thực tế mà người dạy trực tiếp chương trình ngữ văn không thể không nhận ra là từ lâu nay bộ phận văn học nước ngoài ít nằm trong chương trình kiểm tra, đánh giá, thi cử. Nếu có thì % điểm cũng rất thấp (20-30%). Chính điều đó khiến cho cả GV- HS đều xem nhẹ phần này.
* Do sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ nên sự tiếp nhận tác phẩm của học sinh cũng chỉ ở mức độ vừa phải, đặc biệt là đối với các tác phẩm trữ tình. Bởi dịch một tác phẩm thơ để chuyển tải hết vẻ đẹp ngôn từ, nhạc điệu so với nguyên tác là một ông việc vô cùng khó khăn.
* Một nguyên nhân nữa cũng không kém phần quan trọng là sự tác động của thực tế xã hội. Do nền kinh tế phát triển quá nhanh nên hiện nay đa số học sinh đều hướng đến khoa học tự nhiên, xem nhẹ khoa học xã hội không chỉ thể hiện trong quá trình học mà cả xu hướng chọn ngành nghề.Điều này dẫn đến một thực tế đáng buồn là các em chỉ đến với môn Ngữ văn một cách qua loa, chiếu lệ. Tìm được những học sinh đam mê văn chương thực sự không phải là việc dễ dàng.
3.2. Nguyên nhân chủ quan
* Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến đó là GV chưa có sự chuẩn bị tốt bài dạy cũng như tâm thế tiếp nhận cho các em học sinh, chưa nắm bắt đúng tinh thần của tiếp nhận văn học,đặc biệt là văn học nước ngoài. Nói tới quá trình tiếp nhận văn chương là nói tới quá trình tổ chức hoạt động, hướng dẫn nhận thức của GV và hoạt động học tập của họ sinh nhằm chiếm lĩnh tác phẩm văn học.Nhưng thực sự chúng ta chưa làm tốt điều này.
* Nhiều GV chưa hướng dẫn cho học sinh những công việc cụ thể cho tiết học sau. Rõ ràng là trong các hoạt động quan trọng của một giờ dạy bao giờ cũng có phần củng cố và dặn dò nhưng GV để cho HS tự bơi.Vốn dĩ HS đã không chủ động trong học tập, công với việc HS thả nổi như thế sẽ khiến HS thụ động hoàn toàn, gây cản trở lớn trong quá trình học trên lớp.
* Giáo viên cũng không chú ý để hướng dẫn học sinh cách thức tiếp cận một tác phẩm hoặc một tác phẩm trữ tình là như thế nào? Hầu hết các giáo viên mới chỉ quan tâm mình đã truyền đạt được bao nhiêu kiến thức cho học sinh mà chưa chú ý để cung cấp cho học sinh một chiếc chìa khóa để các em có thể mở bất cứ cánh cửa nào. Đây là một vấn đề cần được lưu tâm vì hiện nay chúng ta đang hướng đến việc dạy các tác phẩm văn chương phải theo đặc trưng thi pháp, thể loại.
* Cuối cùng, chúng tôi nhận thấy một nguyên nhân rất quan trọng để cho học sinh ngày càng rời xa môn văn đó là do chính chúng ta- những người được mệnh danh là kĩ sư của tâm hồn nhưng lại chưa phải là những nghệ sĩ thực sự. Chúng ta chưa chú ý để đổi mới phương pháp giảng dạy, không đưa văn học về với đời sống. Chúng tôi nghĩ chỉ cần một chút thay đổi trong cách thức tiến hành hoặc một chút liên hệ thực tế thì học sinh sẽ rất có hứng thú. Chẳng hạn, khi dạy bài Tôi yêu em nếu GV tích hợp bằng cách ở phần tổng kết ho học sinh trình bày quan điểm của mình về tình yêu đẹp chắc chắn chúng ta sẽ nghe được nhiều ý kiến của HS rất thú vị.
Tiểu kết
Trên đây chúng tôi đã có một cái nhìn tương đối tổng thể vị trí,vai trò, chương trình cũng thư thực trạng dạy và học văn học nước ngoài ở trường trung học phổ thông hiện nay.Để minh chứng rõ ràng hơn cho cách nhìn đó và để có những ý kiến đề xuất mang tính thuyết phục hơn khi giảng dạy bộ phận văn học nước ngoài chúng tôi sẽ đi cụ thể hơn vào hai tác phẩm thuộc thời kì văn học hiện đại là Thuốc và Tôi yêu em
CHƯƠNG II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN CHÚ Ý KHI GIẢNG DẠY TÁC PHẨM THUỐC VÀ TÔI YÊU EM THEO ĐẶC TRƯNG THI PHÁP THỂ LOẠI VÀ TẦM TIẾP NHẬN CỦA HỌC SINH
1. TÁC PHẨM "THUỐC"(NGỮ VĂN 12)
1.1. Thực trạng giảng dạy tác phẩm "Thuốc" của Lỗ Tấn
Như chúng ta đã biết, Lỗ Tấn có một vai trò quan trọng trong lịch sử cách mạng và văn hóa Trung quốc, được xem là "Gorki của Trung Quốc".Tác phẩm của ông tái hiện lại lịch sử của đất nước Trung Quốc một thời.
* Tác phẩm "Thuốc" –một câu chuyện vẻn vẹn gần 2000 chữ nhưng chất chứa bao suy tư, trăn trở, ước mơ và hy vọng của nhà văn về số phận của nhân dân và dân tộc mình. Đó là một tác phẩm lớn, một truyện ngắn nhưng có sức nén như một tiểu thuyết dù cốt truyện của nó rất đơn giản, mà như Nguyễn Tuân nói thì đó chỉ là câu chuyện của người tìm thuốc, mua thuốc, bán thuốc và uống thuốc.Bởi sự cô đọng và súc tích đó mà đến nay khi dạy tác phẩm này vẫn có nhiều câu hỏi chưa có chung lời giải đáp như:
- Yếu tố nào tạo cho Lỗ Tấn trở thành một nhà văn cách mạng vĩ đại của Trung Quốc?
- Nhân vật chính của tác phẩm là ai?
- Kết cấu của tác phẩm độc đáo ở chỗ nào?
- Hình ảnh vòng hoa và con quạ có ý nghĩa gì?
- Người kể chuyện có đặc điểm gi?...
* Hơn nữa, khảo sát thực tế giảng dạy tác phẩm này ở các đồng nghiệp, chúng tôi nhận thấy ngoài sự chưa thống nhất trên, thì khi tiếp cận văn bản chủ yếu các đồng nghiệp tiến cận theo các hướng:
- Hướng thứ nhất, đi theo thiết kế của GS Phan Trọng luận trong cuốn "Thiết kế bài học Ngữ Văn 12- NXB Giáo dục". Đi theo hướng này giáo viên sẽ giúp học sinh định hình được con đường đến với nghề văn của Lỗ Tấn,tóm tắt được tác phẩm theo hệ thống sơ đồ.Ở phần đọc hiểu chi tiết,thiết kế này đi theo hướng với các đề mục cụ thể( a.Hình tượng "thuốc"- bánh bao tẩm máu người và ý nghĩa nhan đề tác phẩm; b.Hạ Du- hình ảnh tượng trưng cho những người cách mạng Tân Hợi; c.Vòng hoa trên mộ Hạ Du- niềm tin mãnh liệt của tác giả vào tiền đồ của cách mạng).
Đi theo hướng này, chúng tôi nhận thấy bài dạy đã chuyển tải được phần lớn nội dung của tác phẩm nhưng vẫn còn những bất cập: Đặt đề mục quá lộ trong khi hướng giảng dạy của chúng ta hiện nay là đang cùng học sinh chiếm lĩnh tác phẩm theo các cấp độ khác nhau như cảm thụ trực tiếp, cảm thụ đế thấy nội dung tư tưởng và cuối cùng là phải thấy được cả giá trị tư tưởng và nghệ thuật.Hơn nữa, cách khai thác này giáo viên chưa định hướng đượ cho học sinh thấy được kết cấu đặc biệt của tác phẩm cũng như những vấn đề quan trọng khác về thi pháp tác giả.
- Hướng thứ hai, đi theo thiết kế của TS Nguyễn Văn Đường trong cuốn "Thiết kế bài giảng Ngữ Văn 12, NXB Hà Nội": Đây là cuốn sách được rất nhiều giáo viên tìm đọc và ướng dụng.Nhưng ở tác phẩm này, chúng tôi nhận thấy hướng thiết kế cũng không có điểm khác biệt nhiều lắm so với thiết kế của GS Phan Trọng Luận. Chỉ có điều trong thiết kế này TS Nguyễn Văn Đường đã có những gợi dẫn cụ thể hơn và chú ý nhiều hơn các chi tiết thuộc về kết cấu độc đáo của tác phẩm.
- Hướng thứ ba, là giảng dạy một cách đơn giản, chỉ giới thiệu một cách sơ lược về tác giả Lỗ Tấn, ý nghĩa nhan đề thuốc và nhân vật Hạ Du.Ở hướng đi này chúng tôi thấy cách tiếp cận khá hời hợt, thiếu sự liền mạch, học sinh chỉ đóng vai trò thụ động, chỉ biết ghi chép và nghe giáo viên truyền thụ, không thể hiện được sự chủ động trong việc tiếp nhận một tác phẩm văn chương.
* Không chỉ vậy, khi dự giờ và trao đổi với đồng nghiệp, chúng tôi c
File đính kèm:
- SKKN Giang day VHNN qua Thuoc va Toi Yeu em.doc