1/ Cảm giác chung của bài thơ là buồn. Buồn vì hàng liễu rũ. Buồn vì cái lạnh len lỏi đây đây
gợi nỗi cô đơn, buồn vì có sự chia lìa, tan tác từ hoa cỏ, chim muông tới con người. Buồn vì có
một cái gì như là nỗi nhớ nhung ngẩn ngơ, phảng phất ở không gian và lòng người.
Hồi ấy, khi bài thơ ra đời (rút trong tập Thơ thơ – 1938) mùa thu là mùa buồn, tuy thường là
nỗi buồn man mác có cái vẻ đẹp và cái nên thơ riêng của nó. Thực ra đây là một cảm hứng rất
tự nhiên và có tính truyền thống về mùa thu của thơ ca nh ân loại (Nguyễn Du, Nguyễn
Khuyến, Tản Đà. cũng như Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị.). Bài Đây mùa thu tới cũng nằm trong
truyền thống. Nhưng cảnh thu của thơ Xuân Diệu có cái mới , cái riêng của nó. Ấy là chất trẻ
trung tươi mới được phát hiện qua con mắt “Xanh non” của tác giả, là sức sống của tuổi trẻ và
tình yêu, là cái cảm giác cô đơn “run rẩy” của cái tôi cá nhân biểu hiện niềm khao khát giao
cảm với đời.
Cảm giác chung, linh hồn chung ấy của bài thơ đã được thể hiện cụ thể qua các chi tiết, các
câu thơ, đoạn thơ của tác phẩm.
42 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 1427 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tài liệu ôn thi đại học, cao đẳng - Văn học lãng mạn và hiện thực phê phán 1930 - 1945, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại Học Quốc Gia TP .HCM Biên soạn:Nguyễn Đình Hào
1
Khoa Xã Hội Và Nhân Văn
A. LỚP 11
Chuyên đề1 : Văn học lãng mạn và hiện thực phê phán 1930-1945
1/ Cảm giác chung của bài thơ là buồn. Buồn vì hàng liễu rũ. Buồn vì cái lạnh len lỏi đây đây
gợi nỗi cô đơn, buồn vì có sự chia lìa, tan tác từ hoa cỏ, chim muông tới con người. Buồn vì có
một cái gì như là nỗi nhớ nhung ngẩn ngơ, phảng phất ở không gian và lòng người.
Hồi ấy, khi bài thơ ra đời (rút trong tập Thơ thơ – 1938) mùa thu là mùa buồn, tuy thường là
nỗi buồn man mác có cái vẻ đẹp và cái nên thơ riêng của nó. Thực ra đây là một cảm hứng rất
tự nhiên và có tính truyền thống về mùa thu của thơ ca nhân loại (Nguyễn Du, Nguyễn
Khuyến, Tản Đà... cũng như Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị...). Bài Đây mùa thu tới cũng nằm trong
truyền thống. Nhưng cảnh thu của thơ Xuân Diệu có cái mới , cái riêng của nó. Ấy là chất trẻ
trung tươi mới được phát hiện qua con mắt “Xanh non” của tác giả, là sức sống của tuổi trẻ và
tình yêu, là cái cảm giác cô đơn “run rẩy” của cái tôi cá nhân biểu hiện niềm khao khát giao
cảm với đời.
Cảm giác chung, linh hồn chung ấy của bài thơ đã được thể hiện cụ thể qua các chi tiết, các
câu thơ, đoạn thơ của tác phẩm.
2/ Đoạn một:
Trong thi ca truyền thống phương Đông, oanh vàng liễu biếc thường để nói mùa xuân, tuổi trẻ
và tình yêu. Người ta dành sen tàn, lá ngô đồng rụng, cúc nở hoa để diễn tả mùa thu. Xuân
Diệu lại thấy tín hiệu của mùa thu trước hết n ơi những hàng liễu rũ bên hồ.
Trong thơ Xuân Diệu, dường như đầu mối của mọi so sánh liên tưởng là những cô gái đẹp. Vậy
thì những hàng liễu bên hồ, cành mềm, lá mướt dài rũ xuống thướt tha, có thể tưởng tượng là
những thiếu nữ đứng cúi đầu cho những làn tóc dài đổ xuống song song... Là mái tóc mà cũng
là những dòng lệ (lệ liễu). Những dòng lệ tuôn rơi hàng nối hàng cùng chiều với những áng tóc
dài.
Vậy là mùa thu của Xuân Diệu tuy buồn mà vẫn đẹp, và nhất là vẫn trẻ trung. Ở hai câu đầu
của đoạn thơ, nhà thơ khai thác triệt để thủ pháp láy âm để tạo nên giọng điệu buồn, đồng thời
gợi tả cái dáng liễu (hay những áng tóc dài) buông xuống, rủ mãi xuống. Những “nàng liễu”
đứng chịu tang một mùa hè rực rỡ vừa đi qua chăng?
Tin thu tới trên hàng liễu, nhà thơ như khẽ reo lên “Đây mùa thu tới – mùa thu tới”. Đàng sau
tiếng reo thầm, ta hình dung cặp mắt long lanh, trẻ trung của nhà thơ. Mùa thu của Xuân Diệu
Đề 1 : ĐÂY MÙA THU TỚI –
Xuân Diệu
Đại Học Quốc Gia TP .HCM Biên soạn:Nguyễn Đình Hào
2
Khoa Xã Hội Và Nhân Văn
không gợi sự tàn tạ, mà như khoác bộ áo mới tuy không rực rỡ, nhưng mà đẹp và thật là thơ
mộng rất phù hợp với mùa thu: “Với áo mơ phai dệt lá vàng”.
3/ Ở hai đoạn hai và ba, nhà thơ chủ yếu cảm nhận mùa thu bằng xúc giác: sương lạnh, gió
lạnh. Có lẽ cái lạnh không chỉ đến với nhà thơ bằng xúc giác. Ông đem đến thêm cho cảnh thu
cái run rẩy của tâm hồn mình nữa chăng? Một tâm hồn rất nhạy cảm với thân phận của hoa
tàn, lá rụng, những nhánh cây gầy guộc trơ trụi... Chúng đang rét run lên trước gió thu! Lại một
thành công nữa trong thủ pháp láy âm “những luồng run rẩy rung rinh lá”.
Cái rét càng dễ cảm thấy ở nơi trống vắng, nhất là cảnh trống vắng ở những bến đò. Bến đò là
nơi lộng gió. Bến đò lại là nơi tụ hội đông vui. Thu về, gió lạnh, người ta cũng ngại qua lại bên
sông. Xuân Diệu đã diển tả cái lạnh bằng một câu thơ đặc sắc “Đã nghe rét mướt luồn trong
gió”. Một chữ “luồn” khiến cái rét như được vật cha át hóa hơn, có sự tiếp xúc da thịt cụ thể
hơn.
4/ Đoạn bốn
Nguyễn Du nói “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Ở đây người cũng buồn mà cảnh cũng
buồn. Buồn nhất là sự trống vắng và cảnh chia lìa. Cả bài thơ gợi ý này, nhưng đến đoạn cuối
nhà thơ mới nói trực tiếp như muốn đưa ra một kết luận chăng:
Mây vẫn từng không chim bay đi
Khi trời u uất hận chia li
Tuy nhiên cảm giác về mùa thu, tâm sự về mùa thu là một cái gì mông lung, làm sao có thể
kết luận thành một ý nào rõ rệt. Vậy thì tốt nhất là nói lửng lơ:
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì?
Lời kết luận nằm ở trong lòng những thiếu nữ đứng tựa cửa bâng khuâng. Nét mặt các cô thì
buồn và cặp mắt các cô thì nhìn ra xa, nghĩa là không nhìn một cái gì cụ thể – chắc hẳn là
đang nhìn vào bên trong lòng mình để lắng nghe những cảm giác buồn nhớ mông lung khi mùa
thu tới. Lời kết luận không nói gì rõ rệt nhưng lại gợi mở rất nhiều cảm nghĩ cho người đọc.
Trong tập Trường ca, Xuân Diệu từng viết: Trời muốn lạnh nên người ta cần nhau hơn. Và
người nào chỉ có một thân thì cần một người khác (...) Thu, người ta vì lạnh sắp đến mà rất cần
đôi, cho nên không gian đầy những lời nhớ nhung, những hồn cô đơn thảo ra những tiếng thở
dài để gọi nhau”.
Đó phải chăng cũng là tâm trạng của tác giả Đây mùa thu tới và của những thiếu nữ trong bài
thơ này chăng?
Đại Học Quốc Gia TP .HCM Biên soạn:Nguyễn Đình Hào
3
Khoa Xã Hội Và Nhân Văn
Đề 2 : TRÀNG GIANG
Huy Cận
Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận viết nhiều về thiên nhiên, vũ trụ – Đây là một hồn thơ
buồn, nỗi buồn của một con người gắn bó với đất nước, quê hương, nhưng cô đơn bất lực,
thường tìm đến những cảnh mênh mông bát ngát, hoang vắng lúc chiều tà và đem đối lập nó
với những sự vật gợi lên hình ảnh những thân phận nhỏ nhoi, tội nghiệp, bơ vơ trong tàn tạ và
chia lìa.
Bài thơ Tràng giang là một trường hợp tiêu biểu cho những đặc điểm phong cách nói trên.
1/ Tràng giang nghĩa là sông dài. Nhưng hai chữ nôm na “ sông dài” không có được sắc thái
trừu tượng và cổ xưa của hai âm Hán Việt “tràng giang”. Với hai âm Hán Việt, con sông trong
thơ tự nhiên trở thành dài hơn, trong tâm tưởng người đọc, rộng hơn, xa hơn, vĩnh viễn hơn
trong tâm tưởng người đọc. Một con sông dường như của một thuở xa xưa nào đã từng chảy qua
hàng nghìn năm lịch sử, hàng nghìn năm văn hóa và in bóng trong hàng nghìn áng cổ thi. Cái
cảm giác Tràng giang ấy lại được tô đậm thêm bởi lời thơ đề là “Bâng khuâng trời rộng nhớ
sông dài” (Nhớ hờ – Lửa thiêng)
2/ Khổ một: Ở hai câu đầu, cảnh vật thực ra tự nó không có gì đáng buồn. Nhưng lòng đã buồn
thì tự nhiên vẫn thấy buồn. Đây là cái buồn tự trong lòng lan tỏa ra theo những gợn sóng nhỏ
nhấp nhô “điệp điệp” với nhau trên mặt nước mông mênh. Cũng nỗi buồn ấy, tác giả thả trôi
theo con thuyền xuôi mái lặng lẽ để lại sau mình những rẽ nước song song.
Ở hai câu sau, nỗi buồn đã tìm được cách thể hiện sâu sắc hơn trong nỗi buồn của cảnh: ấy là
sự chia lìa của “thuyền về nước lại” và nhất là cảnh ngộ của một cành củi lìa rừng không biết
trôi về đâu giữa bao dòng xuôi ngược. Thử tưởng tượng: một cành củi khô gầy guộc chìm nổi
giữa bát ngát tràng giang... Buồn biết mấy!
3/ Khổ hai: Bức tranh vẽ thêm đất thêm người. Cái buồn ở đây gợi lên ở cái tiếng xào xạc chợ
chiều đã vãn từ một làng xa nơi một cồn cát heo hút nào vẳng lại. Có thoáng hơi tiếng của con
người đấy, nhưng mơ hồ và chỉ gợi thêm không khí tàn tạ, vắng vẻ, chia lìa. Hai câu cuối của
khổ thơ đột ngột đẩy cao và mở rộng không gian của cảnh thơ thêm để càng làm cho cái bến
sông vắng kia trở thành cô liêu hơn:
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót.
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
4/ Khổ ba: Cảnh mênh mông buồn vắng càng được nhấn mạnh hơn bằng hai lần phủ định:
Đại Học Quốc Gia TP .HCM Biên soạn:Nguyễn Đình Hào
4
Khoa Xã Hội Và Nhân Văn
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật...
Không có một con đò, không có một cây cầu, nghĩa là hoàn toàn không bóng người hay một
cái gì gợi đến tình người, lòng người muốn qua lại gặp gỡ nhau nơi sông nước.
Chỉ có những cánh bèo đang trôi dạt về đâu: lại thêm một hình ảnh của cô đơn, của tan tác,
chia lìa.
5/ Khổ bốn: Chỉ có một cánh chim xuất hiện trên cảnh thơ. Xưa nay thơ ca nói về cảnh hoàng
hôn thường vẫn tô điểm thêm một cánh chim trên nền trời:
Chim hôm thoi thóp về rừng
(Nguyễn Du)
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi.
(Bà Huyện Thanh Quan)
Chim mỏi về rừng tìm chốn trú
(Hồ Chí Minh)
Bài thơ Huy Cận cũng có một cánh chim chiều nhưng đúng là một cánh chim chiều trong “thơ
mới”, nên nó nhỏ nhoi hơn, cô đơn hơn. Nó chỉ là một cánh chim nhỏ (chim nghiêng cánh
nhỏ) trên một nền trời “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Và cánh chim nhỏ đang sa xuống phía
chân trời xa như một tia nắng chiều rớt xuống.
Người ta vẫn nói đến ý vị cổ điển của bài thơ. Nó thể hiện ở hình ảnh nhà thơ một mình trước
vũ trụ để cảm nhận cái vĩnh viễn, cái vô cùng của không gian, thời gian đối với kiếp người. Ý
vị cổ điển ấy lại được tô đậm thêm bằng một tứ thơ Đường.
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Tác giả Tràng giang tuy nói “không khói hoàng hôn” nhưng chính là đã bằng cách ấy đưa
thêm “khói hoàng hôn Thôi Hiệu” vào trong bài thơ của mình để làm giàu thêm cái buồn và
nỗi nhớ của người lữ thứ trước cảnh tràng giang.
6/ Mỗi người Việt Nam đọc Tràng giang đều liên tưởng đến một cảnh sông nước nào mình đã
đi qua. Có một cái gì rất quen thuộc ở hình ảnh một cành củi khô hay những cánh bèo chìm
nổi trên sóng nước mênh mông, ở hình ảnh những cồn cát, làng mạc ven sông, ở cảnh chợ
chiều xào xạc, ở một cánh chim chiều.
Một nhà cách mạng hoạt động bí mật thời Pháp thuộc mỗi lần qua sông Hồng lại nhớ đến bài
Tràng giang. Tình yêu đất nước quê hương là nội dung cảm động nhất của bài thơ.
Đại Học Quốc Gia TP .HCM Biên soạn:Nguyễn Đình Hào
5
Khoa Xã Hội Và Nhân Văn
Còn “cái tôi Thơ mới” thì tất nhiên là phải buồn. Thơ Huy Cận lại càng buồn. Buồn thì cảnh
không thể vui. Huống chi lại gặp cảnh buồn. Nhưng trong nỗi cô đơn của nhà thơ, ta cảm thấy
một niềm khát khao được gần gũi,hòa hợp, cảm thông giữa người với người trong tình đất
nước , tình nhân loại – niềm khát khao có một chuyến đò ngang hay một chiếc cầu thân mật
nối liền hai bờ sông nước Tràng giang.
Đề 3 : ĐÂY THÔN VĨ DẠ
– Hàn Mặc Tử
Căn cứ vào bản thân văn bản thơ, ta thấy nổi lên hàng đầu là hình ảnh Huế đẹp và thơ. Bài
thơ gồm 3 khổ, 12 câu thất ngôn. Mỗi khổ thơ dường như được dành để nói về một phương
diện của Huế.
1/ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Câu hỏi làm sống dậy kỷ niệm về thôn Vĩ, nói rộng hơn
về xứ Huế, trong tâm hồn đằm thắm và thơ mộng của Hàn Mặc Tử.
Cảnh buổi sớm nơi thôn Vĩ: Nắng mới lên, chiếu sáng, lấp loáng những hàng cau. Vĩ Dạ có
những hàng cau thẳng tắp thân cao vượt lên trên các mái nhà và những tán cây. Những tàu
cao con bóng loáng sương đêm như hút lấy ánh sáng lúc ban mai.
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” là câu thơ không có gì đặc sắc tân kỳ lắm về mặt sáng
tạo hình ảnh và từ ngữ, nhưng càng nghĩ càng thấy tả những vườn cây tươi tốt, xum xuê của
Vĩ Dạ cũng chỉ có thể nói như thế mà thôi. Mỗi ngôi nhà ở Vĩ Dạ, nói chung ở Huế, được gọi
là những nhà vườn. Vườn bọc quanh nhà, gắn với ngôi nhà xinh xinh thường là nhà trệt,
thành một cấu trúc thẩm mĩ chặt chẽ. Xuân Diệu gọi mỗi cấu trúc ấy là một bài thơ tứ tuyệt.
Vì thế vườn được chăm sóc chu đáo – Những cây cảnh và cây ăn quả đều xanh tốt mơn mởn
và sạch sẽ, dường như được cắt tỉa, lau chùi, mài giũa thành những cành vàng lá ngọc. Sự ví
von ở đây được nâng lên theo hướng cách điệu hoá. Khuynh hướng cách điệu hóa được đẩy
lên cao hơn nữa ở câu thứ tư: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Đã gọi là cách điệu hóa thì
không nên hiểu theo nghĩa tả thực, tuy rằng cách điệu hoá cũng xuất phát từ sự thực: thấp
thoáng đằng sau những hàng rào xinh xắn, những khóm trúc, có bóng ai đó kín đáo, dịu dàng,
phúc hậu.
2/ Trong khổ thơ thứ hai, dòng kỷ niệm vẫn tiếp tục. Nhớ Huế không thể không nhớ dòng
sông Hương. Dòng sông Hương, gió và mây. Con thuyền ai đó đậu dưới ánh trăng nơi bến
vắng... Bốn câu thơ như diễn tả cái nhịp điệu nhẹ nhàng, chậm rãi của Huế.
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Đại Học Quốc Gia TP .HCM Biên soạn:Nguyễn Đình Hào
6
Khoa Xã Hội Và Nhân Văn
Cái tinh tế ở đây tả làn gió thổi rất nhẹ, không đủ cho mây bay, không đủ cho nước gợn,
nhưng gió vẫn run lên nhè nhẹ cho hoa bắp lay. Tất nhiên đây phải là cảnh sông Hương chảy
qua Vĩ Dạ lững lờ trôi về phía cửa Thuận. Đúng là nhịp điệu của Huế rồi.
Hai câu tiếp theo đầy trăng. Cảnh trong kỷ niệm nên cảnh cũng chuyển theo lôgich của kỷ
niệm. Cảnh sông Hương không gì thơ mộng hơn là dưới ánh trăng – Hàn Mặc Tử cũng không
mê gì hơn là mê trăng. Trăng trở thành nhân vật có tính huyền thoại trong nhiều bài thơ của
ông. Ánh trăng huyền ảo tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí hư ảo, như là trong mộng:
Thuyền ai đậu bến sông trăng gió
Có chở trăng về kịp tối nay?
Phải ở trong mộng thì sông mới có thể là “sông trăng” và thuyền mới có thể “chở trăng về”
như một du khách trên sông Hương... Hình ảnh thuyền chở trăng không gì mới, nhưng “sông
trăng” thì có lẽ là của Hàn Mặc Tử.
3/ Khổ thứ ba: Người xưa nơi thôn Vĩ.
Nhớ cảnh không thể không nhớ người. Người phù hợp với cảnh Huế không gì hơn là những
cô gái Huế. Ai làm thơ về Huế mà chẳng nhớ đến những cô gái này (Huế đẹp và thơ của
Nam Trân. Dửng dưng của Tố Hữu...)
Những khổ thơ dường như mở đầu bằng một lời thốt ra trước một hình ảnh ai đó tuy mờ ảo
nhưng có thực:
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Mờ ảo vì “khách đường xa” và “nhìn không ra” nhưng có thực vì “áo em trắng quá”. Hình
ảnh biết bao thân thiết nhưng cũng rất đỗi xa vời. Xa, không chỉ là khoảng cách không gian
mà còn là khoảng cách của thời gian, và mối tình cũng xa vời – vì vốn xưa đã gắn bó, đã hứa
hẹn gì đâu. Vì thế mà “ai biết tình ai có đậm đà?”
“Ai” là anh hay là em? Có lẽ là cả hai. Giữa hai người (Hàn Mặc Tử và cô gái mà nhà thơ đã
từng thầm yêu trộm nhớ) là “sương khói” của không gian, của thời gian, của mối tình chưa có
lời ước hẹn, làm sao biết được có đậm đà hay không? Lời thơ cứ bâng khuâng hư thực và gợi
một nỗi buồn xót xa.
Nhưng khổ thơ không chỉ minh hoạ cho mối tình cụ thể giữa nhà thơ và người bạn gái. Đặt
trong dòng kỷ niệm về Huế, ta thấy hiện lên trong sương khói của đất kinh đô hình ảnh rất
đặc trưng của các cô gái Huế. Những cô gái Huế thường e lệ quá, kín đáo quá nên xa vời, hư
ảo quá. Những cô gái ấy khi yêu, liệu tình yêu có đậm đà chăng? Đây không phải là sự đánh
giá hay trách móc ai. Tình yêu càng thiết tha, càng hay đặt ra những nghi vấn như vậy.
Đại Học Quốc Gia TP .HCM Biên soạn:Nguyễn Đình Hào
7
Khoa Xã Hội Và Nhân Văn
Tình trong thơ bao giờ cũng là tình riêng. Nhưng tình riêng chỉ có ý nghĩa khi nói được tình
của mọi người. Phép biện chứng của tình cảm nghệ sĩ là như vậy. Đối với sự tiếp nhận của
người đọc, nổi lên trước hết trong khổ thơ này, cũng như trong toàn bộ bài thơ vẫn là hình ảnh
thơ mộng và đáng yêu của cảnh và người xứ Huế.
Đề 5 : Phân tích bức tranh phố huyện nghèo trong
truyện ngắn
“Hai đứa trẻ” – Thạch Lam
“Hai đứa trẻ” tuy chưa phải là truyện ngắn hay nhất nhưng lại khá tiêu biểu cho phong cách
nghệ thuật của Thạch Lam: bình dị, nhẹ nhàng mà tinh tế, thâm thuý. Truyện dường như
chẳng có gì: hầu như không có cốt truyện, chẳng có xung đột gay cấn, chắng có gì đặc biệt
cả. “Hai đứa trẻ” chỉ là một mảng đời thường bình lặng của một phố huyện nghèo từ lúc
chiều xuống cho tới đêm khuya, với hương vị màu sắc, âm thanh quen thuộc: tiếng trống thu
không cất trên một chiếc chòi nhỏ, một ráng chiều ở phía chân trời, một mùi vị âm ẩm của
đất, tiếng chó sủa, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve... những âm thanh của mấy người bé nhỏ,
thưa thớt, một quán nước chè tươi, một gánh hàng phở, một cảnh vãn chợ chiều với vỏ nhãn,
vỏ thị, rác rưởi và những đứa trẻ con nhà nghèo đang cúi lom khom tìm tòi, nhặt nhạnh, một
đoàn tàu đêm lướt qua... và nỗi buồn mơ hồ với những khao khát đến tội nghiệp của “Hai đứa
trẻ”
Chuyện hầu như chỉ có thế.
Nhưng những hình ảnh tầm thường ấy, qua tấm lòng nhân hậu, qua ngòi bút tinh tế, giàu chất
thơ của Thạch Lam lại như có linh hồn, lung linh muôn màu sắc, có khả năng làm xao động
đến chỗ thầm kín và nhạy cảm nhất của thế giới xúc cảm, có khả năng đánh thức và khơi gợi
biết bao tình cảm xót thương, day dứt, dịu dàng, nhân ái.
Đó là truyện của “Hai đứa trẻ” nhưng cũng là truyện của cả một phố huyện nghèo với những
con người bé nhỏ thưa thớt, tội nghiệp đang âm thầm đi vào đêm tối.
Ít có tác phẩm nào hình ảnh đêm tối lại được miêu tả đậm đặc, trở đi trở lại... như một ám
ảnh không dứt như trong truyện “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam: tác phẩm mở đầu bằng những
dấu hiệu của một “ngày tàn” và kết thúc bằng một “đêm tịch mịch đầy bóng tối”, ở trong đó,
màu đen, bóng tối bao trùm và ngự trị tất cả: đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy
bóng tối, tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào
làng lại sẫm đen hơn nữa. Một tiếng trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn,
Đại Học Quốc Gia TP .HCM Biên soạn:Nguyễn Đình Hào
8
Khoa Xã Hội Và Nhân Văn
khô khan, không vang động ra xa, rồi cũng chìm ngay vào bóng tối... Cả đoàn tàu từ Hà Nội
mang ánh sáng lướt qua trong phút chốc rồi cũng “đi vào đêm tối”...
Trong cái phông của một khung cảnh bóng tối dày đặc này, là những mảnh đời của những
con người sống trong tăm tối. Họ là những con người bình thường, chỉ xuất hiện thoáng qua,
hầu như chỉ như một cái bóng, từ hình ảnh mẹ con chị Tí với hàng nước tồi tàn đến một gia
đình nhà xẩm sống lê la trên mặt đất, cho đến cả những con người không tên: một vài người
bán hàng về muộn, những đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom nhặt nhạnh, tìm tòi...
... Tất cả họ không được Thạch Lam miêu tả chi tiết: nguồn gốc, xuất thân, số phận... nhưng
có lẽ nhờ thế mà số phận họ hiện lên càng thêm bé nhỏ, tội nghiệp, ai cũng sống một cách
âm thầm, nhẫn nhục, lam lũ. Văn Thạch Lam là như thế : nhẹ về tả , thiên về gợi và biểu
hiện đời sống bên trong: sống trong lặng lẽ, tăm tối nhưng giữa họ không thể thiếu vắng tình
người. Qua những lời trao đổi và những cử chỉ thân mật giữa họ ta nhận ra được mối quan
tâm, gắn bó. Và tất cả họ dường như đều hiền lành, nhân hậu qua ngọn bút nhân hậu của
Thạch Lam.
Nhưng giữa bấy nhiêu con người, nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới tâm hồn của “hai đứa trẻ”:
Liên và An. Chúng chưa phải là loại cùng đinh nhất của xã hội nhưng là tiêu biểu cho những
con nhà lành, đang rơi vào cảnh nghèo đói, bế tắc vì sa sút, thất nghiệp.
Không phải ngẫu nhiên tác giả lấy “Hai đứa trẻ” để đặt tên cho truyện ngắn của mình. Hình
ảnh tăm tối của phố huyện và những con người tăm tối không kém, sống ở đây hiện lên qua
cái nhìn và tâm trạng của chị em Liên, đặc biệt là của Liên. Mở đầu tác phẩm ta bắt gặp hình
ảnh Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và
cái buồn của buổi chiều quê thấm vào tâm hồn ngây thơ của chị” và “chị thấy buồn man mác
trước cái giờ khắc của “ngày tàn”. Thạch Lam không miêu tả tỉ mỉ đời sống vật chất của họ,
nhà văn chủ yếu đi sâu thể hiện thế giới tinh thần của Liên với nỗi buồn man mác, mơ hồ của
một cô bé không còn hoàn toàn trẻ con, nhưng cũng chưa phải là người lớn. Tác giả gọi “chị”
là vì quả Liên là một người chỉ biết quan tâm săn sóc em bằng tình cảm trìu mến, dịu dàng,
biết đảm đang tảo tần thay mẹ nhưng tâm hồn Liên thì vẫn còn là tâm hồn trẻ dại với những
khao khát hồn nhiên, thơ ngây, bình dị.
Ở đây, nhà văn đã nhập vào vai của “hai đứa trẻ”, thấu hiểu, cảm thông, chỉa sẻ và diễn tả
cái thế giới tâm hồn trong sáng của chị em Liên: hình ảnh bóng tối và bức tranh phố huyện
mà ta đã nói trên kia được cảm nhận chủ yếu từ nỗi niềm khao khát của hai đứa trẻ. Tâm hồn
trẻ vốn ưa quan sát, sợ bóng tối và khát khao ánh sáng. Bức tranh phố huyện hiện ra chính là
qua tâm trạng này: “Hai chị em gượng nhẹ (trên chiếc chõng sắp gãy) ngồi yên nhìn ra
phố...” Liên trông thấy “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại
tìm tòi” nhưng “chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó...”. Trời nhá nhem tối, bây
giờ chị em Liên mới thấy thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng cái ghế trên lưng ở trong ngõ
Đại Học Quốc Gia TP .HCM Biên soạn:Nguyễn Đình Hào
9
Khoa Xã Hội Và Nhân Văn
đi ra... Hai chị em Liên đứng sững nhìn theo” bà cụ Thi “đi lẫn vào bóng tối... “Hai chị em
đành ngồi yên trên chõng đưa mắt theo dõi những người về muộn từ từ đi trong đêm”... “Từ
khi nhà Liên dọn về đây... đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc
cây bàng với cái tối của quang cảnh phố xung quanh”... Đêm tối đối với Liên “quen lắm, chị
không sợ nó nữa”. “Không sợ nó nữa” nghĩa là đã từng sợ. Chỉ mất từ “không sợ nó nữa” mà
gợi ra bao liên tưởng. Hẳn là Liên đã từng sợ cái bóng tối dày đặc đã từng bao vây những
ngày đầu mới dọn về đây. Còn bây giờ Liên đã “quen lắm”. Sống mãi trong bóng tối rồi
cũng thành quen, cũng như khổ mãi người ta cũng quen dần với nỗi khổ. Có một cái gì tội
nghiệp, cam chịu qua hai từ “quen lắm” mà nhà văn dùng ở đây. Nhưng ngòi bút và tâm hồn
của Thạch Lam không chỉ dừng ở đấy. Cam chịu nhưng cũng không hoàn toàn cam chịu, nhà
văn đã đi sâu vào cái nỗi thèm khát ánh sánh trong chỗ sâu nhất của những tâm hồn trẻ dại.
Ông dõi theo Liên và An ngước mắt lên nhìn vòm trời vạn ngôi sao lấp lánh để tìm sông
Ngân hà và con vịt theo sau ông thần nông như trẻ thơ vẫn khao khát những điều kì diệu
trong truyện cổ tích, nhưng vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí
mật, lại quá xa lạ làm mỏi trí nghĩ, nên chỉ một lát, h
File đính kèm:
- Tai Lieu On Thi DH.pdf