Tài nguyên đất và các quá trình chính trong đất

Việt Nam - một trong những quốc gia khan hiếm đất trên thế giới

Việt Nam có diện tích tự nhiên khoảng 33.000.000ha, trong đó, diện tích sông suối và núi đá khoảng 1.370.100ha (chiếm khoảng 4,16% diện tích đất tự nhiên), phần đất liền khoảng 31,2 triệu ha (chiếm khoảng 94,5% diện tích tự nhiên), xếp hàng thứ 58 trong tổng số 200 nước trên thế giới, nhưng vì dân số đông (khoảng 80 triệu người) nên diện tích đất bình quân đầu người thuộc loại rất thấp, xếp thứ 159 và bằng 1/6 bình quân của thế giới. Diện tích đất canh tác vốn đã thấp nhưng lại giảm theo thời gian do sức ép tăng dân số, đô thị hoá, công nghiệp hoá và chuyển đổi mục đích sử dụng (Bảng I.1).

 

doc9 trang | Chia sẻ: lephuong6688 | Lượt xem: 825 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài nguyên đất và các quá trình chính trong đất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÀI NGUYÊN ĐẤT VÀ CÁC QUÁ TRÌNH CHÍNH TRONG ĐẤT Việt Nam - một trong những quốc gia khan hiếm đất trên thế giới Việt Nam có diện tích tự nhiên khoảng 33.000.000ha, trong đó, diện tích sông suối và núi đá khoảng 1.370.100ha (chiếm khoảng 4,16% diện tích đất tự nhiên), phần đất liền khoảng 31,2 triệu ha (chiếm khoảng 94,5% diện tích tự nhiên), xếp hàng thứ 58 trong tổng số 200 nước trên thế giới, nhưng vì dân số đông (khoảng 80 triệu người) nên diện tích đất bình quân đầu người thuộc loại rất thấp, xếp thứ 159 và bằng 1/6 bình quân của thế giới. Diện tích đất canh tác vốn đã thấp nhưng lại giảm theo thời gian do sức ép tăng dân số, đô thị hoá, công nghiệp hoá và chuyển đổi mục đích sử dụng (Bảng I.1). Bảng I.1 Giảm diện tích đất canh tác trên đầu người ở Việt Nam Năm 1940 1960 1970 1992 2000 Bình quân đầu người (ha/người) 0,2 0,16 0,13 0,11 0,10  Nguồn: Hội Khoa học Đất Việt Nam Các quá trình chính trong đất của Việt Nam bao gồm: quá trình phong hoá, trong đó phong hoá hoá học và sinh học xảy ra mạnh hơn so với phong hoá lý học; quá trình mùn hoá; quá trình bồi tụ hình thành đất đồng bằng và đất bằng ở miền núi; quá trình glây hoá; quá trình mặn hoá; quá trình phèn hoá; quá trình feralít hoá; quá trình alít; quá trình tích tụ sialít; quá trình thục hoá và thoái hoá đất. Tuỳ theo điều kiện địa hình, điều kiện môi trường và phương thức sử dụng mà quá trình này hay khác chiếm ưu thế, quyết định đến hình thành nhóm, loại đất với các tính chất đặc trưng. Nhìn chung, đất của Việt Nam đa dạng về loại, phong phú về khả năng sử dụng. Căn cứ vào nguồn gốc hình thành có thể phân thành hai nhóm lớn: nhóm đất được hình thành do bồi tụ (đất thuỷ thành) có diện tích khoảng 8 triệu ha, chiếm 28,27% tổng diện tích đất tự nhiên, trong đó đất đồng bằng 7 triệu ha. - Nhóm đất được hình thành tại chỗ (đất địa thành) có khoảng 25 triệu ha. Các nhóm đất chính và sự phân bố Việt Nam có nhiều nhóm và loại đất khác nhau, gồm 31 loại và 13 nhóm. Riêng khu vực miền núi chiếm khoảng 25 tri ệu ha, bao gồm 6 nhóm, 13 loại đất chính phân bố trên bốn vành đai cao: Từ 25 - 50m đến 900 - 1.000m: 16,0 triệu ha, chiếm 51,14%; Từ 900 - 1.000m đến 1.800-2.000m: 3,7 triệu ha, chiếm 11,8%; Từ 1.800 - 2000m đến 2.800m: 0,16 triệu ha, chiếm 0,47%; Từ 2.800m đến 3.143m: 1.200ha, chiếm 0,02%. Bảng I.2. Hiện trạng sử dụng đất năm 2001 Nguồn: Niên giám Thống kê, 2002   Nhóm đất mùn thô trên núi cao Trên đỉnh các dãy núi cao mà cao nhất là đỉnh Phanxipăng, với những điều kiện phong phú của đá mẹ, khí hậu lại có phần giá lạnh của mùa đông ôn đới và á nhiệt đới, thực vật đa phần là những loài cây xứ lạnh, ưa ẩm. Đất ở đây có tầng mùn thô dày đến 10-50cm nằm phủ trên tầng đá mẹ phong hoá yếu, hoặc nằm trên tầng đọng nước bị glây mạnh. Vì vậy, đất này được gọi là đất mùn trên núi cao, đất có màu nâu đen hoặc màu vàng xám. Loại đất này có diện tích không lớn, chỉ gặp trên các đỉnh núi cao vùng Hoàng Liên Sơn (Ngọc Lĩnh; Ngọc Áng, Chư Yang Sinh,...) và Nam Trường Sơn. Đúng với tên gọi của nó, đất mùn núi cao rất giàu chất hữu cơ, thường có hàm lượng trên 10% ở lớp đất mặt. Nằm trên mái nhà của Tổ quốc, vùng đất này cần phải giữ thảm rừng che phủ, vừa hạn chế lũ lụt mùa mưa, vừa giữ nguồn sinh thuỷ mùa khô, đồng thời bảo vệ các loài sinh vật quý hiếm. Nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi Tiếp tục đi xuống những vùng có độ cao từ 2.000m đến 900m sẽ gặp những nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi. Nơi đây có khí hậu lạnh và ẩm, nhiệt độ trung bình từ 15 - 20oC. Thảm thực vật nhìn chung còn tốt hơn vùng đồi, chỉ có một số loại đất là đất mùn vàng đỏ trên núi, phân bố ở các tỉnh miền núi cả nước. Do ở địa hình cao, dốc, hiểm trở nên đất thường bị xói mòn mạnh. Mặt khác, do quá trình phong hoá yếu nên tầng đất không dày quá 1,5m. Đất có phản ứng chua vừa đến chua ít, pH từ 4 - 5, lân tổng số và dễ tiêu từ nghèo đến trung bình, nghèo các cation kiềm, đất có hàm lượng mùn thô khá cao. Nhóm đất này thích hợp cho việc sử dụng theo phương thức nông lâm kết hợp với nhiều loại cây ăn quả ôn đới, cây dược liệu. Nhóm đất đỏ vàng - feralít Rời độ cao 900m xuống vùng thấp đến 25m có nhóm đất đỏ vàng - feralít. Đây là nhóm đất có diện tích lớn nhất (khoảng gần 20 triệu ha) được hình thành trên nhiều loại đá mẹ, phân bố rộng khắp các tỉnh trung du và miền núi cả nước và thích hợp với nhiều loại cây trồng. So với đất vùng Đồng bằng sông Hồng thì những yếu tố hình thành đất nổi bật nhất của vùng đồi núi là địa hình, đá mẹ và rừng. Nhóm đất này có rất nhiều loại, tuỳ theo đá mẹ và địa hình, nhưng đáng quý hơn cả trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội là đất nâu đỏ phát triển trên đá badan hay đất đỏ badan. Đất nâu đỏ trên badan Cách đây vài chục vạn năm, ở vùng Tây Nguyên hùng vĩ, núi lửa đã hoạt động liên tục. Những dung nham nóng chảy từ sâu trong lòng đất ra ngoài, lắng đọng lại thành những tầng đá badan. Loại đá này bị phong hoá, tạo điều kiện để các thế hệ cỏ cây hoa lá nối tiếp nhau phát triển và dần hình thành nên nhiều loại đất đỏ phì nhiêu mà chúng ta thường gọi là đất đỏ badan. Thực ra màu đỏ là màu chiếm ưu thế, còn thực tế, đâu đâu cũng bắt gặp nhiều màu sắc có tính pha trộn: màu nâu đỏ, đỏ nâu, đỏ vàng, đỏ tím, vàng đỏ,... thể hiện tính đặc thù của quá trình feralít phát triển mạnh. Đây là những loại đất tốt nhất trên các vùng đồi núi của nước ta - một viên ngọc đồ sộ và vô cùng quý giá. Đất đỏ badan tập trung nhiều nhất ở các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Đồng Nai, phía nam Bình Thuận, Phú Yên, phần giữa của Thừa Thiên - Huế, và một diện tích nhỏ ở Quảng Trị, Nghệ An. Tổng diện tích khoảng 2.425.28ha, riêng Tây Nguyên có khoảng 1 triệu ha. Tầng đất dày lại cấu trúc tốt, độ xốp cao, dung trọng thấp, tỷ lệ khoáng đang phong hoá và chưa phong hoá thấp. Do có nhiều sét nên khả năng giữ nước của đất rất cao. Sau trận mưa lớn, qua 3 - 4 ngày lượng nước mà đất giữ được vẫn còn tới 40 - 50%. Về mặt hoá tính, đất khá giàu lân tổng số, ở vùng mới khai hoang, hàm lượng lân đạt 0,5%, ở các nương cà phê, trung bình là 0,2 - 0,3%, song lân dễ tiêu lại rất nghèo vì Fe3+, Al3+ giữ chặt. Tuy nhiên đất chua, đặc biệt khoáng vật sét rất đơn điệu, chỉ có kaolinít, các khoáng vật hyđrômica không còn tồn tại, do đó, đất rất nghèo kali. Đất đỏ badan thích hợp với nhiều loại cây trồng, riêng "bộ ba" cà phê, cao su và chè đã đem lại cho nền kinh tế quốc dân một nguồn thu nhập đáng kể. Ngày nay, một số vùng còn phát triển nhiều loại cây trồng khác như bông, mía đường, điều và nhiều loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao cũng đang hứa hẹn nhiều triển vọng. Đất có khả năng giữ ẩm cao, cũng có nghĩa là độ ẩm cây héo lớn (27 - 30%) nên vào mùa khô thường bị hạn hán nghiêm trọng, cây trồng thường bị thiếu nước. Chính vì vậy, đất này tỏ ra "khó tính" đối với một số loại cây trồng, nhất là ở vụ Đông Xuân. Đất miền rừng núi đa dạng, diện tích đất thì rộng nhưng khai thác và sử dụng còn nhiều bất cập, cần thiết phải có những giải pháp thích hợp vì các loại đất này giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Trong nhóm đất này có loại đất đỏ nâu phát triển trên đá vôi, phân bố ở nhiều tỉnh như: Sơn La, Hoà Bình, Cao Bằng, Quảng Ninh, Ninh Bình,... Loại đất này có tiềm năng nông nghiệp lớn, đặc biệt, có khả năng phục hồi nhanh sau nương rẫy (Khung I.1). Hầu hết những vùng đất đỏ nâu phát triển trên đá vôi còn giữ được độ phì nhiêu trung bình và khá, hàm lượng hữu cơ 1,6%, N 0,15%, lân tổng số 0,14%, riêng kali nghèo 0,20% mặc dầu đất có thành phần cơ giới nặng 57 - 65% sét, nhưng cấu trúc tốt, độ xốp đạt 50 - 51%.   Khung I.1. MAI SƠN ĐANG CHUYỂN MÌNH Đất đỏ nâu phát triển trên đá vôi tuy bảo vệ sử dụng chưa tốt nhưng đất và người đã vào cuộc mở ra những triển vọng mới. Trạm Khuyến nông Mai Sơn (Sơn La) đã vui mừng thông báo với chúng tôi những chuyển biến nhanh về ý thức và cố gắng của huyện. Trong khoảng 10 năm gần đây tỷ lệ che phủ tăng từ 30 lên 40%. Đó là do đất rừng đã có chủ và tốc độ tái sinh nhanh trên nền đất nâu đỏ màu mỡ. Trên 141.000ha đất tự nhiên và 26.000ha đất nông nghiệp của huyện đã phát triển mạnh cây lâu năm gồm: 1.200ha cà phê, 520ha chè, 4.000ha cây ăn quả như nhãn, na, xoài; 150ha dâu, diện tích lúa nương giảm còn 1.500ha, nhưng cây ngô lai lại "lên ngôi" chiếm 6.000ha; đã xây dựng đồng cỏ, sản xuất thức ăn gia súc để chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Hiện đã có 600 con bò sữa, 17.000 bò thịt, 11.000 trâu, 35.000 lợn. Đã tiếp nhận 1.500 hộ di dân đến. Người nông dân đã biết gắn cuộc sống với đất đai, sử dụng chúng có hiệu quả hơn. Nguồn: Báo cáo của đoàn Khảo sát về sử dụng đất Tây Bắc, 7-2003   Những loại đất đỏ nâu phát triển trên đá vôi tuy có diện tích không lớn, nhưng có độ pH trung tính hoặc ít chua, thích hợp với nhiều loại cây trồng như ngô, lạc, đậu đỗ các loại và nhiều cây ăn quả khác. Ở vùng này có những bãi bằng, thung lũng chứa các sản phẩm bồi tụ là những tiềm năng lớn để phát triển các cây trồng nông nghiệp. Tuy nhiên, nếu sử dụng không đi đôi với những biện pháp cải tạo, đất vẫn bị chua dần và cần thiết phải có những giải pháp thích hợp để khử chua (Khung I.2). Khung I.2. TRẠM KHUYẾN NÔNG MỘC CHÂU XÂY DỰNG MÔ HÌNH CẢI TẠO ĐẤT CHUA TRÊN ĐẤT RUỘNG HAI VỤ  Năm 2002 Trạm Khuyến nông huyện Mộc Châu đã xây dựng mô hình cải tạo đất chua với 15ha ruộng lúa hai vụ ở bản Nà Bó, xã Hua Păng. Khu đất này thường xuyên bị ngập úng, nước chảy tràn bờ, mặt ruộng nổi váng rỉ sắt màu nâu vàng, lúa non thường nghẹt và thối rễ, đẻ nhánh kém, sâu bệnh nhiều và năng suất thấp. Cán bộ khuyến nông hướng dẫn các hộ dùng vôi bột rải đều mặt ruộng sau khi cày bừa và trước khi cấy 15 - 20 ngày với định mức: 50kg vôi bột/1.000m2. Sau đó, cày bừa lại lần nữa để vôi thấm vào đất, ngâm nước 4 - 5 ngày, rồi tháo cạn. Tháo rửa nước trong ruộng từ 2 - 3 lần và làm đồng bộ ở tất cả các ruộng. Trước khi cấy lại cày bừa kỹ, bón lót 40kg phân lân cho 1.000m2. Với quy trình cải tạo này, vụ Xuân 2002, 90 hộ nông dân bản Nà Bó đã có một vụ lúa bội thu với giống lúa lai sán ưu 63. Năng suất lúa khô bình quân đạt 7,9 tấn/ha. Nguồn: Tạp chí Khuyến nông Sơn La, số 22, 12-2002   Nhóm đất xám bạc màu Đất này có diện tích không lớn chỉ chiếm 1.791.020ha, phân bố nơi giáp ranh giữa đồng bằng và miền núi, bạc màu là tên gọi dân gian và có thể hiểu theo hai nghĩa: đất có màu xám nhạt và kém màu mỡ, phẫu diện toàn cát, thành phần cơ giới nhẹ, nghèo dinh dưỡng. Trước đây, năng suất lúa trên đất bạc màu rất thấp, đến mức ví von hình ảnh "Chó chạy thò đuôi", nhưng hiện nay lại khác. Những tính chất "nghèo, chua, khô, rắn" dần dần được cải thiện. Giờ đây Vĩnh Phúc, Bắc Giang đất vẫn còn màu xám trắng nhưng đậm đà hơn, có chất lượng hơn, năng suất lúa không phải vài tấn mà phổ biến 5-7 tấn/ha, không kém đất phù sa đồng bằng trù phú. Ở Đông Nam Bộ, rải rác một số nơi ở duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, người dân biết rõ mặt mạnh, mặt yếu, từ đó cải tạo lớp đất mặt, tăng lượng hữu cơ và các chất dinh dưỡng khác như: đạm, lân và kali đi đôi với áp dụng giống mới. Do địa hình cao, đất nhẹ, dễ thoát nước nên cũng dễ tăng vụ, dễ đưa các cây trồng khác vào, hiệu quả kinh tế cao hơn lúa (Khung I.3).   Khung I.3. LÀM GIÀU TRÊN ĐẤT XÁM Đất xám trên đá mẹ granít ở vùng Quỳ Hợp (Nghệ An), trước đây làm nương rẫy, người dân quanh năm xoay sở sống với vốn rừng và đất dốc nên diện tích rừng bị thu hẹp mau chóng. Hiện nay, dân bản đã được giao đất khoán rừng, màu xanh của núi rừng đã trở lại, hiện tượng đốt phá rừng không còn nữa. Mới vài năm qua mà đồng bào xã Thọ Hợp, huyện Quỳ Hợp, 100 hộ, đã trồng được 4.800 cây ăn quả các loại trên đất xám như: nhãn, vải, táo, xoài, khế... Trồng chuối xen với rừng để tăng thu nhập và chống xói mòn. Nguồn: Báo cáo của đoàn Khảo sát về môi trường nông thôn KC 08.06, 2003 Nhóm đất phù sa Các dòng sông có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển các loại đất. Hoạt động của các sông ngòi đã tạo nên các vùng đồng bằng, các châu thổ lớn nhỏ khác nhau. Theo tính toán, sông Hồng và sông Cửu Long mỗi năm chuyển tải gần hai tỷ tấn phù sa, khối lượng phù sa này phụ thuộc theo mùa. Ví dụ, sông Hồng vào mùa khô trong 1m3 nước chứa 0,5kg phù sa, về mùa mưa lũ chứa tới 2 - 3kg. Cặn phù sa lơ lửng trong nước sông chứa rất nhiều chất dinh dưỡng và là nguồn thức ăn quý giá đối với cây trồng. Nguồn phù sa của các con sông có chất lượng khác nhau, phụ thuộc vào các loại đá mẹ nằm theo lưu vực và do đó các loại đất được hình thành cũng rất khác nhau. Ở Việt Nam, tuyệt đại đa số dân cư sinh sống dọc theo ven biển và các đồng bằng phù sa trù phú. Nơi đây xa xưa là biển, sản phẩm rửa trôi từ thượng nguồn xuống bồi đắp dần, nên tuổi đời của đất còn rất trẻ, chưa quá một vài triệu năm. Có những vùng rộng hàng chục km2 như Kim Sơn (Ninh Bình) khoảng 100 năm trước, nơi đây vẫn còn là biển. Địa phương nào có nhiều đất phù sa thì có nhiều thuận lợi giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm. Không phải chỉ lúa, ngô, khoai, các loại rau màu phát triển tốt mà các loại cây ăn quả quý hiếm cũng cho hiệu quả cao. Nước ta có diện tích đất phù sa không nhiều, khoảng 3.400.000ha chiếm hơn 10% diện tích tự nhiên cả nước. Đồng bằng sông Cửu Long là nơi tập trung đất phù sa rộng lớn hơn cả, sau đó đến Đồng bằng sông Hồng, tiếp đó là những đồng bằng ven biển nằm rải rác ở các tỉnh với diện tích nhỏ hơn. Nếu đánh giá chung về chất lượng đất, ngoài đặc tính xếp lớp, nước ngầm giàu K+, Ca2+, Mg2+, ít sắt, nhôm thì ở mỗi một vùng cũng có những tính chất đặc thù: + Đất phù sa sông Cửu Long chứa lượng sét cao; + Đất phù sa sông Hồng chứa nhiều limôn, ít sét, giàu Ca2+, Mg2+; + Đất phù sa một số vùng ven biển miền Trung có thành phần cơ giới nhẹ hơn, nghèo dinh dưỡng hơn. Nhóm đất mặn   Ở Việt Nam do tác động của biển, đã hình thành một loại đất đặc biệt, đó là đất mặn. Nhóm đất này là “đất có vấn đề", tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng ven biển miền Bắc như: Thái Bình, Thanh Hoá và vùng ven biển miền Nam, từ các tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, xuống Bạc Liêu, Cà Mau lên đến tỉnh Kiên Giang. Dọc ven biển các tỉnh miền Trung đất cũng bị nhiễm mặn, nhưng do địa hình dốc nên thuỷ triều tràn vào ít hơn so với ở Bắc Bộ và Nam Bộ. Nhóm đất mặn có diện tích khoảng 1 triệu ha. Gọi là đất mặn vì đất bị nhiễm mặn do nước biển và có chứa nhiều loại muối khác nhau, trong đó muối clorua bao giờ cũng chiếm ưu thế. Căn cứ vào nồng độ muối hoà tan với tỷ lệ clo trong đó,  Hội Khoa học Đất Việt Nam chia đất mặn ra: (Bảng I.3) Đất mặn ngoài đê biển (đất mặn sú vẹt): Diện tích 105.300ha, thường xuyên ngập nước biển và chỉ thích nghi với tập đoàn cây rừng ngập mặn, như: đước, sú, vẹt, mắm, bần,... Tuy có diện tích ít nhưng vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ bờ biển và nuôi trồng thuỷ sản. Bảng I.3. Phân loại đất mặn Nguồn: Hội Khoa học Đất Việt Nam, 2002 Đất mặn nội đồng gồm: + Đất mặn nhiều: diện tích 139.610ha, phần lớn tập trung ở vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long 102.000ha. Những vùng ven biển khác đều co,á nhưng diện tích ít hơn, như Đông Nam Bộ 19.590ha, duyên hải miền Trung 11.420ha, Khu IV cũ 6.600ha. Hệ thống thuỷ lợi, chế độ thuỷ văn cũng tác động làm thay đổi tính chất và diện tích đất mặn nhiều. Đất mặn trung bình và ít: diện tích 732.580ha, nằm bên trong vùng mặn nhiều, đại bộ phận ở địa hình trung bình và cao còn ảnh hưởng của thuỷ triều. Đất được xây dựng các công trình tưới tiêu, nhiều vùng đã có năng suất lúa cao. Đất này phần lớn tập trung ở Đồng bằng sông Cửu Long với diện tích 586.420ha (80%), Đồng bằng sông Hồng 53.300ha (7,3%), Khu IV cũ 38.350ha (5,2%), duyên hải miền Trung 35.560ha (4,9%) và một ít ở Đông Nam Bộ. Nước mặn từ chỗ có hại trở thành nguồn lợi. Trước đây,  đến những vùng đất mặn, dù ở miền Bắc hay miền Nam đều thấy chung một cảnh là "đất không nuôi nổi người", nhưng nay đã khác, do việc chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và sự hiểu biết của người dân về đất mặn đã tăng lên, đồng lúa trĩu hạt, kết hợp với nuôi trồng thuỷ sản, đời sống của dân đã được cải thiện rõ rệt (Khung I.4). Khung I.4. SỬ DỤNG ĐẤT MẶN Giáo sư Võ Tòng Xuân và nhiều nhà chuyên môn khác, nhiều lần can ngăn ngành thuỷ lợi không nên lấy quá nhiều nước từ hệ thống sông Cửu Long để tránh xâm nhập mặn cho vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long,... Công cuộc ngọt hoá bán đảo Cà Mau - Bạc Liêu,... phá huỷ cơ hội làm giàu nhờ nước mặn cho dân vùng này vì làm một vụ lúa kết hợp với nuôi trồng thuỷ sản có lợi hơn nhiều so với làm hai vụ lúa. Nguồn: Nguyễn Đức An, Thế giới mới, số 329, 1999 Nhóm đất phèn Đất phèn là một loại hình đặc biệt tập trung chủ yếu ở Đồng bằng sông Cửu Long, những nơi khác có rất ít nên nhiều người dân ở khu vực phía Bắc hầu như không biết (Khung I.5). Khung I.5. ĐẤT PHÈN - MỘT BÍ ẨN ĐỐI VỚI NHIỀU NGƯỜI Sau ngày đất nước thống nhất, nhiều người dân từ miền Bắc vào Đồng bằng sông Cửu Long để khai khẩn, lúc đầu thấy đất bằng cứ tưởng như đất phù sa ở miền Bắc, họ phấn khởi dựng ngay lều chõng triển khai gieo cấy, be bờ mở đường, mở rộng diện tích, một thời gian không lâu, lúa chưa kịp lên đã chết vàng, chết cháy. Người dân Bắc Bộ vào đây mới biết thế nào là đất phèn, bao nhiêu công sức bỏ ra, nhưng không có ăn chỉ vì chưa hiểu nó. Nguồn: Hội Khoa học Đất Việt Nam, 2000 Đất phèn được hình thành trên các sản phẩm bồi tụ phù sa với vật liệu sinh phèn. Vùng Tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, kể cả một số nơi ở Hải Phòng, Thái Bình khi đào đất tới độ sâu nào đó, người ta thấy xuất hiện màu đen, có mùi hôi của khí sunphua hyđrô (H2S). Nếu để đất màu đen đó hong khô ngoài không khí sẽ xuất hiện màu vàng và bốc mùi của chất lưu huỳnh - đó chính là chất phèn gồm hỗn hợp của sunphát nhôm và sunphát sắt. Hiện tượng này liên quan đến nguồn gốc hình thành của đất phèn. Các nhà khoa học cho rằng, sự ôxy hoá các sản phẩm hữu cơ chứa lưu huỳnh (xác các cây sú, vẹt, mắm, đước, tràm,...) là nguyên nhân chính để sinh ra chất phèn. Đất phèn được xác định bởi sự có mặt trong phẫu diện đất hai loại tầng chuẩn đoán chính là tầng sinh phèn. Đất chỉ có tầng sinh phèn gọi là đất phèn tiềm tàng. Đất có tầng phèn gọi là đất phèn hiện tại. Về tính chất của đất phèn, trước hết phải là độ chua. Các hợp chất hữu cơ chứa lưu huỳnh bị phân giải yếm khí tạo nên các sunphua, khi gặp không khí chúng lại bị ôxy hoá thành các sunphát và axít sunphuaríc (H2SO4). Axít này công phá phần khoáng của đất tạo ra sunphát nhôm (phèn nhôm) và sunphát sắt (phèn sắt). Hình thái phẫu diện của đất phèn rất đặc trưng, và chia ra bốn tầng rõ rệt: tầng canh tác, tầng đế cày, tầng đất cái chứa nhiều xác thực vật và cuối cùng là tầng cát lỏng màu xám đen,... Hàm lượng hữu cơ rất khác nhau, trung bình là 2,5 - 3,5%, những nơi còn dấu vết thực vật có thể tới 5 - 6%. Hàm lượng N tổng số phổ biến từ 0,10 - 0,15%, đặc biệt rất nghèo lân, thường chỉ khoảng 0,04 - 0,08%. Do đó, nếu bón đúng cách, hiệu lực của phân lân rất cao. Nhìn chung, độ phì nhiêu tiềm tàng của đất phèn không thua kém đất phù sa sông Hồng và sông Cửu Long, nhưng vì quá chua nên năng suất cây trồng chưa cao (Khung I.6).   Khung I.6. SỬ DỤNG HỢP LÝ ĐẤT PHÈN Bạn hãy cùng chúng tôi đi thuyền trên kênh Hồng Ngự xuôi về Vàm Cỏ Tây - một con sông tiêu thoát nước phèn nên nước sông lúc nào cũng trong vắt. Vùng đất được thoát phèn đã phát huy độ màu mỡ tiềm tàng, lại được bổ sung thêm phân lân nung chảy nên hiệu quả sản xuất rất cao. Sự đóng góp gia tăng lương thực của đất phèn đồng bằng sông Cửu Long là rất lớn, không những chỉ giải quyết được cái ăn mà còn dư thừa lương thực để xuất khẩu. Bên cạnh đó, từ kênh rạch, bạn có thể ngắm nhìn những vườn cây ăn trái trĩu quả, những vuông nuôi trồng thuỷ sản thẳng cánh cò bay, những rừng tràm xanh biếc với từng đàn chim đang bay về tổ, bạn sẽ thấy những nét thơ mộng của những vùng quê đất phèn đẹp làm sao, một khi con người đã nắm được "tính bướng bỉnh của đất phèn" và biết cách khai thác chúng một cách có hiệu quả hơn. Nguồn: Báo cáo của đề tài KC 08.06 về môi trường nông thôn, 2003   Nhóm đất cát biển Dọc bờ biển miền Trung có một dải đất đặc biệt về mặt thổ nhưỡng: dải đất cát ven biển. Đây là một loại đất nghèo, "cùng họ" với nhóm đất bạc màu. Đất cát biển có diện tích khoảng 538.430ha và được hình thành do quá trình phong hoá tại chỗ của trầm tích biển cũ hoặc trên đá mẹ giàu silíc (cát kết, liparít, granít,...) và bị cuốn trôi từ sản phẩm phong hoá của các vùng núi lân cận, mà ở miền Trung là dãy Trường Sơn. Đất cát biển có nhiều loại. Đất cồn cát trắng vàng diện tích 222.040ha chủ yếu ở ven biển miền Trung từ Nghệ An, Hà Tĩnh vào Phan Thiết, có nơi cồn cát cao đến 200 - 300m, và thường di động. Ở Đồng bằng sông Cửu Long có những cồn cát thấp hình thành những giải vòng cung hay song song với bờ biển, nhô cao hơn vùng phù sa xung quanh. Những dải cát giồng này là những khu dân cư sầm uất với nhiều cây ăn trái phong phú. Đất cồn cát đỏ với diện tích 76.880 ha. Đây là một loại hình đặc biệt ven biển Bình Thuận, địa hình lượn sóng, dốc 3 - 8o có những dải cao đến 200m. Cồn cát đỏ có tỷ lệ sét và limôn cao hơn cồn cát trắng vàng (tỷ lệ sét vật lý khoảng trên 10%). Có nơi được khai phá trồng hoa mầu, các loại dừa, điều. Quang cảnh vùng cát đỏ ven biển có những nét đặc biệt riêng, những năm gần đây, nhiều nơi đã tạo thành các khu du lịch mới. Đất cát biển nhẹ, tỷ lệ cát chiếm đến 85 - 90% nhưng do địa hình bằng, hệ thống thuỷ lợi sớm được giải quyết, giao thông thuận lợi nên đã thực hiện thâm canh, cải tạo đất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng nên ở nhiều vùng đất cát biển hiện nay nhân dân đã thu nhập khá (Khung I.7). Đất cát biển rất nghèo dinh dưỡng, hàm lượng mùn thường dưới 0,8%, N tổng số trung bình khoảng 0,05%; lân tổng số dưới 0,04%, rất nghèo các cation kiềm và kiềm thổ, đất thường chua, pH khoảng 4,0. Tuy đất cát có tuổi trẻ, nhưng lại có xu thế thoái hoá nhanh, vì thành phần cơ giới nhẹ, đặc biệt khả năng giữ nước rất kém và câu ca dao truyền miệng của người dân vùng cát áp dụng cho cây dừa - một cây trồng ưa đất cát cũng phản ánh trung thực: "Công đâu công uổng công thừa Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan". Khung I.7. LÀNG SINH THÁI TRÊN VÙNG CÁT Ở VĨNH HOÀ VÀ TRIỆU LĂNG, HUYỆN TRIỆU PHONG, QUẢNG TRỊ Trước năm 1995, nơi đây là một vùng trống vắng khô cằn giữa mênh mông cát trắng, nạn cát bay, cát chảy và cát nhảy cứ mặc sức hoành hành theo năm tháng. Từ ngày có dự án phát triển nông thôn vùng ven biển do Vương quốc Na Uy tài trợ thì đến nay, mỗi khi ngắm nhìn những rừng cây xanh ngút ngàn và cuộc sống đang từng ngày, từng giờ đổi thay của người dân trong những ngôi làng mới trên cát trắng mới cảm nhận hết sự vĩ đại của nghị lực con người đã cần mẫn, miệt mài lật trở từng hạt cát, hà hơi ấm vào cát, giữ độ ẩm cho cát để nuôi trồng những mầm xanh cuộc đời và khoác lên mình cát trắng một màu xanh hy vọng của mùa xuân no ấm. Chị Nguyễn Thị Mái ở làng sinh thái Vĩnh Hoà vừa xây cất được ngôi nhà khang trang còn tươi mái ngói, khi hỏi về thu nhập hàng năm của gia đình, chị nhẩm tính và cho biết mỗi năm thu hơn chục triệu đồng. Trong đó, thu từ chăn nuôi lợn mỗi năm 6 con, trồng hành tím bán trên 1 triệu đồng, trồng 2 sào lạc (1.000m2), nuôi 500m2 ao cá, 70 - 100 con vịt, gà, 5 con bò, trồng gần 100 cây điều, xoài đã cho quả bói. Vùng cát trắng đã hồi sinh. Nguồn: Hồ Cầu, Tạp chí Bảo vệ Môi trường, số 4, 2003  

File đính kèm:

  • docTAI NGUYEN DAT VA CAC QUA TRINH CHINH TRONG DAT doc.doc