Tóm tắt các tác phẩm văn xuôi lớp 12

1. VI HÀNH

Nguyễn Ái Quốc

Trên một chuyến tàu điện ngầm ở Paris tác giả ngồi gần một đôi TN nam nữ Pháp. Họ lầm tưởng tác giả là vua KĐ, cho rằng KĐ o biết tiếng Pháp thế là đôi TN Pháp bình luận về cung cách ngờ nghệch, quê mùa, ăn chơi của KĐ với 1 thái độ miệt thị. Sau đó họ lại bàn luận về các thú giải trí, các trò giật gân mà báo chí Pháp thường đăng.Tàu đỗ, t/g xuống tàu & suy nghĩ về việc mà KĐ “vi hành” sang Pháp phải chăng là để họp với chính phủ Pháp hay để tìm các thú ăn chơi mới? Và từ khi KĐ sang Pháp, o chỉ dân Pháp mà cả CP Pháp cũng có ~ nhầm lẫn tương tự. Vì vậy CPP cho mật thám “bảo vệ” ~ ^ VN y/n trên đất P.

2. ĐÔI MẮT

Nam Cao

H và Độ là 2 ^ bạn văn, họ quen biết nhautừ trước 1945. KCCP bùng nổ, Độ th/gia KC còn Hoàng tản cư về nông thôn. Nhân 1 chuyến đi công tác, Độ vào thăm với ý định vận động H thgia VH cứu quốc. Đến nhà Hoàng, Độ được vợ chồng Hoàng đón tiếp rất niềm nở. H sống đầy đủ, ph/lưu: Hút thuốc lá thơm, ăn mía ướp hoa bưởi, ngủ màn tuyn trắng toát, chăn bông thoang thoảng nc hoa Trong lúc trò chuyện, vợ chồng Hoàng hết lời ca thán ~ ^ nd. H chê họ dốt nát, tò mò chuyện ^ khác, o tin vào khả năng làm CM của họ. H chỉ ca ngợi HCM. Trc thái độ của H, Độ đã ôn tồn giải thích: anh cũng có cái nhìn giống như vậy về ^ nd, nhưng từ khi thgia tổng khởi nghĩa, đc sống gần họ, anh cảm thấy họ y/n & can đảm lắm Do có cái nhìn o đúng về ^nd nên H không giao tiếp với họ, H chỉ đến chơi với 1 số ^ thuộc tầng lớp trí thức cũ, tuy rằng anh cũng o ưa gì họ. H hết sức thán phục & ca ngợi Tào Tháo. Chính vì ~ suy nghĩ trên của Hnên Độ đã từ bỏ ý định mời H tham gia VHCQ

 

 

doc8 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 4298 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt các tác phẩm văn xuôi lớp 12, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÓM TẮT CÁC TÁC PHẨM VĂN XUÔI LỚP 12 VI HÀNH Nguyễn Ái Quốc Trên một chuyến tàu điện ngầm ở Paris tác giả ngồi gần một đôi TN nam nữ Pháp. Họ lầm tưởng tác giả là vua KĐ, cho rằng KĐ o biết tiếng Pháp thế là đôi TN Pháp bình luận về cung cách ngờ nghệch, quê mùa, ăn chơi của KĐ với 1 thái độ miệt thị. Sau đó họ lại bàn luận về các thú giải trí, các trò giật gân mà báo chí Pháp thường đăng.Tàu đỗ, t/g xuống tàu & suy nghĩ về việc mà KĐ “vi hành” sang Pháp phải chăng là để họp với chính phủ Pháp hay để tìm các thú ăn chơi mới? Và từ khi KĐ sang Pháp, o chỉ dân Pháp mà cả CP Pháp cũng có ~ nhầm lẫn tương tự. Vì vậy CPP cho mật thám “bảo vệ” ~ ^ VN y/n trên đất P. ĐÔI MẮT Nam Cao H và Độ là 2 ^ bạn văn, họ quen biết nhautừ trước 1945. KCCP bùng nổ, Độ th/gia KC còn Hoàng tản cư về nông thôn. Nhân 1 chuyến đi công tác, Độ vào thăm với ý định vận động H thgia VH’ cứu quốc. Đến nhà Hoàng, Độ được vợ chồng Hoàng đón tiếp rất niềm nở. H sống đầy đủ, ph/lưu: Hút thuốc lá thơm, ăn mía ướp hoa bưởi, ngủ màn tuyn trắng toát, chăn bông thoang thoảng nc hoa…Trong lúc trò chuyện, vợ chồng Hoàng hết lời ca thán ~ ^ nd. H chê họ dốt nát, tò mò chuyện ^ khác, o tin vào khả năng làm CM của họ. H chỉ ca ngợi HCM. Trc thái độ của H, Độ đã ôn tồn giải thích: anh cũng có cái nhìn giống như vậy về ^ nd, nhưng từ khi thgia tổng khởi nghĩa, đc sống gần họ, anh cảm thấy họ y/n & can đảm lắm…Do có cái nhìn o đúng về ^nd nên H không giao tiếp với họ, H chỉ đến chơi với 1 số ^ thuộc tầng lớp trí thức cũ, tuy rằng anh cũng o ưa gì họ. H hết sức thán phục & ca ngợi Tào Tháo. Chính vì ~ suy nghĩ trên của Hnên Độ đã từ bỏ ý định mời H tham gia VH’CQ VỢ CHỒNG A PHỦ Tô Hoài Mỵ là cô gái nghèo, đẹp và có tài thổi sáo. Vì cha mẹ mắc nợ nhà thống lý nên Mỵ bị bắt cóc về làm dâu trừ nợ. Ơû nhà thống lý, cô bị đối xử như một súc nô, bị hành hạ về cả thể xác lẫn lẫn tâm hồn. Cô làm việc quần quật, bị đánh đập tàn nhẫn. Dần dần, Mỵ sống âm thầm như “Con rùa nuôi trong xó cửa”, mặt cô “lúc nào cũng buồn rười rượi”. Vào đêm tình MX, tiếng sáo thiết tha bồi hồi thúc giục Mỵ đi chơi, cô sửa soạn đi chơi nhưg A Sử đã tàn nhẫn trói đứng cô vào cột nhà. A Phủ là một thanh niên nghèo, mồ côi, siêng năng. Vì đánh A Sử, nên anh bị thống lý bắt phạt và bắt làm người ờ không công. Một lần vì để hổ bắt mất nửa con bò, A Phủ bị thống lý trói đứng vào cột đến kiệt sức gần chết. Trong những phút sưởi lửa, Mỵ chứng kiến tình cảnh của A P và nhận thức được tội ác của cha con thống lý. Thương mình, thương ^, Mỵ đã cắt dây trói cứu A P. 2 ^ chạy trốn khỏi nhà thống lý. VỢ NHẶT KIM LÂN Vợ nhặt phản ánh nạn đói khủng khiếp năm 1945, cái đói buộc ^ ta phải sống ly hương, Trong nạn đói, ngượi chết như ngả rạ “không khí vẩn lên mùi ẩm thối và mùi gây của xác ^” Giữa lúc ấy, Tràng - 1 TN nghèo khó, ế vợ, lại dẫn về một người đàn bà. Sự xuất hiện của thị vừa tạo sự tò mò, vừa lóe chút niềm vui, vừa mang sự lo lắng cho ~ ^ dân nghèo xóm ngụ cư. Thị là một phụ nữ bất hạnh, nghèo đói “quần áo tả tơi như tổ đỉa”, chỉ vì nghèo, vì cái ăn mà thị thành vợ nhặt của Tràng. Bà cụ Tứ là người mẹ hiền, rất mực thương con. Bà có dâu giữa lúc không ngờ. HP và nỗi lo khiến người mẹ nghèo khóc nhiều trong đêm tân hôn của hai con. Cô dâu đã đem lại một luồng sinh khí mới cho ngôi nhà tồi tàn, cho ~ con ^ tội nghiệp. Trong bữa ăn ngày đói thảm hại, họ cố nuốt món chè cám đắng chát & nghẹ ứ trong cổ họng, họ cố nói chuyện vui về tương lai. Kết thúc tác phẩm là hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới & đoàn người đi phá kho thóc của Nhật. MÙA LẠC Nguyễn Khải Chị Đào là người phụ nữ có ngoại hình không đẹp, chị cũng là người phụ nữ gặp nhiều bất hạnh trong cuộc sống. Nhà chị nghèo nên phải làm nghề bán đậu phụ để kiếm sống qua ngày. Chị Đào lấy chồng từ năm 17 tuổi, nhưng người chồng cờ bạc, nợ nần nhiều và bỏ vào Nam, đến 1950 về quê. Chị có một đứa con, khi con lên 2 tuổi thì chồng chết. Sau khi chồng và con chết, chị Đào kiếm sống bằng cách buôn bán nay đây mai đó. Chị sống táo bạo, liều lĩnh và ghen tỵ với mọi người Chị Đào lên nông trường ĐBvới tâm lý “con chim bay mãi cũng mỏi cánh, con ngựa chạy mãi cũng chồn chân…” cũng chính tại đây, chị gặp Huân- 1 TN xung kích, đẹp trai & LĐ giỏi của NT. Với thái độ chân thành, lòng thương mến thật sự của Huân & các thành viên khác của Đội 6, chị có nhiều chuyển biến trong nhận thức của mình về c/s. Chị đã tìm thấy niềm vui trong LĐ, SH văn nghệ, đặc biệt khi nhận được bưc thư tỏ tình của ô Dịu, chị thật sự cảm động & sung sướng. Chị quyết định ở lại nông trường để xd c/s HP của mình. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ Nguyễn Tuân Bài tùy bút viết về ông lái đò sông Đà là bạn của tác giả. Ông làm nghề lái đò trên sông Đà đã 10 năm. Công việc của ông là chở chè mạn, chè cối về xuôi. Ông là người thích đối đầu với sóng to gió lớn, chạy thuyền trên khúc sông không có thác, ông cảm thấy dại tay, buồn ngủ. Ông có trí nhớ tuyệt vời là chỉ lất mắt là nhớ tỉ mỉ như đinh đóng vào lòng các luồng nước. Sông Đà bắt nguồn từ Vân Nam, TQ. Sông Đà hùng vĩ, hung dữ vì dọc sông có đến 76 con thác. Sông Đà gây nguy hiểm cho người lái đò dọc sông Đà. Vì vậy, ông lái đò Lai Châu phải chiến đấu với thiên nhiên khắc nghiệt, qua các thạch trận, thủy trận. Nhờ kinh ngiệm, trí thông minh, lòng dũng cảm, ông lái đò Lai Châu đã vượt qua những nguy hiểm do sông Đà gây ra. Sông Đà không chỉ hung dữ, sông Đà cũng rất trữ tình. Dọc hai bên bờ sông Đà có những bãi cỏ xanh non với những đàn hươu đang gặm cỏ. Trong kháng chiến chống Pháp, sông Đà là chuyến đường thủy để các cô lái đò Quỳnh Nhai vận chuyển lương thực cho kháng chiến. Hòa bình lập lại, sông Đà lại chứng kiến những đoàn chuyên gia đi thăm dò, khảo sát để bắt sông Đà phải phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước. RỪNG XÀ NU Nguyễn Trung Thành Làng Xô Man nằm trong tầm đại bác của giặc, ngày 2 lần chúng bắn RXN. Bên cạnh ~ CXN bị giăc bắn ngã gục, thì đã có bốn năm CXN khác mọc lên xum xuê, vươn lên mạnh mẽ để hứng ánh mặt trời. RXN cũng như ~ ^ dân XM vẫn kiên cường đi tới. Sau 3 năm đi bộ đội, Tnú được về thăm làng, trên đg về làng, anh được bé Heng dẫn đường & cho biết Dít em gái của Mai hiện là bí thư chi bộ & là chính trị viên xã hội. Tối đó, Tnú nghỉ ở nhà cụ Mết (già làng). Cụ Mết tập trung dân làng lại & kể cho mọi ^ nghe về c/đời Tnú. Từ nhỏ, Tnú đã rất gắn bó với CM, đã từng nuôi giấu cán bộ & h/thành x/sắc công tác giao liên. Tnú được anh Quyết dạy chữ & giáo dục CM. Bị giặc bắt, Tnú dũng cảm chịu đựng ~ đòn tra tấn của giặc. Sau khi vượt ngục, anh cùng cụ Mết lãnh đạo dân làng rèn vũ khí chống giặc. Giặc càn quét vào làng, bắt vợ con anh tra tấn tàn khốc cho đến chết. Tnú xông ra, anh bị giặc bắt và đốt 10 ngón tay. Dân làng Xô Man đồng khởi giết giặc cứu Tnú. Anh gia nhập lực lượng quân gp’, ch/đấu chống kẻ thù để gp’ QH. MẢNH TRĂNG CUỐI RỪNG Nguyễn Minh Châu Trong thời kỳ chống Mỹ, trên đường ra mặt trận, Lãm - người lái xe quân sự, cho cô công nhân giao thông tên là Nguyệt đi nhờ. Cô gái ấy tình nguyện dẫ đường cho Lãm đưa chiếc xe vượt quađoạn đường ngầm thật vất vả. Ngay sau đó, phi cơ địch bắn dữ dội, nhưng Nguyệt vẫn bình tĩnh, linh hoạt hướng dẫn Lãm vượt qua nguy hiểm, Nguyệt bị thương ở tay khi quyết tâm bảo vệ Lãm. Cuối cùng hai người cứu được chiếc xe chở hàng quân sự ra khỏi vùng lửa đạn. Lãm lờ mờ đoán rằng cô gái ấy ở cùng chỗ với chị mình. Rồi họ chia tay trong niềm lưu luyến. Hôm sau, Lãm ghé thăm nhưng không gặp và biết cô gái đi nhờ xe là Nguyệt, người mà chị của Lãm rất quý mến và đã giới thiệu cho Lãm. Lãm xúc động khi biết mấy năm qua Nguyệt vẫn chờ đợi mình. Hình ảnh Nguyệt hiện đẹp ngời lên trong tâm trí của Lãm. Lãm đã viết lá thư đầu tiên cho Nguyệt. MỘT CON NGƯỜI RA ĐỜI Macxim Gorki Mùa xuân năm 1892 năm đói kém, trên con đường từ Xukhum Otsemtsiry, trong đoàn người đói khổ đang rên đường kiếm việc làm, có một người phụ nữ trẻ, mang thai đến ngày sinh nở, chuyển dạ cơn đau dữ dội. Chị đã sinh được một bé trai đầu lòng kháu khỉnh nhờ sự giúp đỡ của 1 chàng trai vui tính, vừa tốt bụng, khéo tay. Nhờ có sức mạnh kì diệu, cháu bé ra đời đã khiến cho người thanh niên và chị phụ nữ tự hào, sung sướng, đem đến cho họ chỗ dựa tinh thần để vượt qua mọi gian lao vất vả sắp tới. THUỐC Lỗ Tấn Thằng bé Thuyên bị bệnh lao, bố mẹ nó được lão cả Khang bày cho bài thuốcăn bánh bao tẩm máu của người chết sẽ hết bệnh. Nhân dịp chiến sĩ cách mạng Hạ Du bị chém đầu, bố mẹ thằng bé Thuyên mua được cái bánh bao tẩm máu của Hạ Du cho Thuyên ăn. Aên xong, nó vẫn chết. Mộ của Thuyên và Hạ Du chôn cạnh nhau. Hai bá mẹ gặp nhau tại đây đều xót xa cho cái chết con mình. Trên mộ Hạ Du có vòng hoa hồng, hai bà mẹ đều ngạc nhiên hỏi “thế là thế nào”. ÔNG GIÀ VÀ BIỂN CẢ Ernest Hemingway Sau khi kéo được con cá kiếm vào mạn thuyền, lão Xanchiagô đã mệt lả, những vết máu ở con cá kiếm lan ra đã làm cho bầy cá mập kéo đến. Lão Xanchiagô lại một lần nữa chiến đấu với đàn cá mập nhưng chúng vẫn lao vào tấn công con cá kiếm và chiếc thuyền của lão Xanchiagô. Ông đã chiến đấu với chúng một cách quyết liệt và vô vọng. Cuối cùng, khi lão kéo được con cá kiếm lên thì chỉ còn trơ lại bộ xương. Ông kéo thuyền vào bờ và trở về lều của mình. SỐ PHẬN CON NGƯỜI SôLôKhốp Chiến tranh kết thúc, Xôcôlốp giải ngũ, anh trở về quê hương sống trơ trọi tại nhà một người bạn làm nghề lái xe. Tình cờ, anh gặp bé Vania và nhận bé làm con nuôi, vì Vania có hoàn cảnh giống anh: không gia đình, không nơi nương tựa. Tình cảm đứa bé làm anh ấm lại. Hai tâm hồn sưởi ấm cho nhau. Sau đó, Xôcôlốp rủi ro gây ra một tai nạn lái xe và bị mất bằng lái. Anh phải đổi chỗ ở để kiếm việc làm và để quên người thân. Những đêm trong giấc mơ Xôcôlốp vẫn thấy người thân hiện về và anh đã khóc trong giấc mơ. Mặc dù cuộc sống còn hiều nỗi đau, nhiều khó khăn, anh vẫn còn niềm tin tưởng về tương lai và nhất là sự trưởng thành của đứa trẻ TÓM TẮT CÁC TÁC PHẨM VĂN XUÔI LỚP 12 Vi hành – NAQ Trên một chuyến tàu điện ngầm ở Pari, tác giả ngồi gần đôi thanh niên nam nữ Pháp. Họ lầm tưởng tác giả là vua Khải Định, không biết tiếng Pháp và thế là họ bình luận về cung cách ngờ nghệch, quê mùa, ăn chơi của KĐ với một thái độ miệt thị. Sau đó họ lại bàn luận về các thú giải trí, các trò giật gân mà báo chí Pháp thường đăng. Tàu đỗ, tác giả xuống tàu và suy nghĩ về việc KĐ “Vi hành” sang Pháp phải chăng là để họp với chính phủ Pháp hay để tìm các thú ăn chơi mới? Từ khi KĐ sang Pháp không chỉ dân Pháp nhầm KĐ với những người VN khác mà chính phủ Pháp cũng có sự nhầm lẫn tương tự. Vì vậy họ cho cảnh sát mật thám bảo vệ những người yêu nước VN không rời một bước trong đó có tác giả. Đôi mắt - NC Câu truyện diễn ra tại nhà Hoàng, một nhà văn từ HN tản cư về sống ở nông thôn. Hoàng là một văn sĩ giỏi chợ đen nên sống dư giả. Độ là nhà văn lớp sau, đang làm công tác tuyên truyền . Độ đến thăm Hoàng với ý định vận động H tham gia kháng chiến. Vợ chồng H tiếp Đ tử tế chu đáo, cới mở. Trong khi nói chuyện, họ tỏ ra coi thường người nông dân, không tin vào quần chúng, rất bi quan về cuộc kháng chiến. Qua cách sống và suy nghĩ của H, Đ không nói ý nghĩ trong lòng vì H chỉ “quen nhìn đời và nhìn người một phía thôi”. Vợ chồng A Phủ – TH Truyện “VCAP” kể về một đôi vợ chồng dân tộc Mèo ở vùng Tây Bắc. Mị vốn là một cô gái trẻ đẹp và đã có người yêu. Nhưng cô bị bắt làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí PáTra ở Hồng Ngài. Mị trở thành người đầy tớ không công, bị bóc lột, chà đạp, cam chịu cuộc sống tủi nhục, đọa đầy. Trong cảnh sống tối tăm đó, Mị vẫn khao khát hạnh phúc, lòng ham sống vẫn âm ỉ trong tâm thức cô. Đó là vào đêm tình mùa xuân, Mị muốn đi chơi nhưng A Sử không cho mà còn trói đứng Mị vào cột nhà. Còn A Phủ là một thanh niên nghèo, mồ côi, có tài săn bắn và siêng lao động. Do đánh nhau với A Sử nên bị PáTra phạt vạ, trở thành người ở đợ trừ nợ cho nhà thống lí. Vì để hổ vồ mất một con bò, A Phủ bị cực hình trói đứng suốt mấy ngày đêm. Cảm thương người cùng cảnh ngộ, Mị cắt dây trói cho A Phủ, cả hai cùng chạy trốn khỏi nhà thống lí. (Đến Phiềng Sa, họ trở thành vợ chồng, được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng, A Phủ tham gia du kích, cùng bản làng chiến đấu chống thực dân Pháp và bọn tay sai). Vợ nhặt – KL Cái đói khủng khiếp đã ập đến xóm ngụ cư, người chết như rạ. Không buổi sáng nào là không có người chết. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối và mùi gây của xác chết.Tràng, một thanh niên nông dân làm nghề chở thóc thuê lên kho cho Nhật, đưa một người phụ nữ tự nguyện lấy anh và theo anh về nhà. Thị đói, rách “quần áo thị tả tơi như tổ đỉa”, chỉ bằng bốn bát bánh đúc và một câu nói đùa, chị đã theo anh về làm vợ. Tràng dẫn người đàn bà về giới thiệu với mẹ mình là cụ Tứ. Cụ Tứ thương con và chấp nhận cho hai người trở thành vợ chồng, nhưng cụ cũng rất lo không biết chúng có nuôi nhau nổi qua thời buổi khó khăn này không. Từ khi có người đàn bà về làm vợ, Tràng thấy c/s hạnh phúc hẳn lên, mẹ con Tràng hòa thuận hơn bao giờ hết. Bữa cơm ngày đói của gia đình tuy thật đạm bạc nhưng mọi người đều ăn ngon lành. Họ bàn với nhau về tương lai c/s. Nhưng khi ăn đến món chè cám thì mọi người cảm thấy đắng chát và nghẹn ứ trong cổ. Đến khi nghe tiếng trống thuế hối thúc, từ lúc đó trong đầu Tràng luôn hiện lên hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Mùa lạc - NK Truyện ngắn Mùa lạc có cốt truyện khá giản dị, kể về những sinh hoạt, lao động của nông trường Điện Biên. Nhân vật trung tâm là Đào, là một phụ nữ có ngoại hình không đẹp, có quãng đời quá khứ nhiều đau buồn, bất hạnh : nhà nghèo, lấy chồng sớm, rồi chồng cờ bạc nợ nần nhiều và chết khi đứa con hai tuổi. Sau đó con cũng chết.Từ đó Đào không có người thân thích, phải tần tảo ngược xuôi kiếm sống. Cuối cùng, Đào lên nông trường với tâm trạng chán chường, không niềm tin, không hi vọng về tương lai. Nhưng tận nơi sâu kín trong tâm hồn Đào vẫn tiềm ẩn một niềm khát khao hạnh phúc gia đình, cuộc sống vui tươi. Trải qua cuộc sống lao động cực nhọc cùng những sinh hoạt vui chơi giải trí tại nông trường. Tại đây, Đào gặp Huân – một thanh niên xung kích, đẹp trai và lao động giỏi của nông trường – có thái độ chân thành, thông cảm, trân trọng và có lòng thương mến thật sự cùng với các thành viên khác của Đội 6. Đào đã dần dần hòa nhập với tập thể. Đến khi nhận được lá thư của ông Dịu ngỏ ý muốn xây dựng gia đình với mình, Đào mới cảm nhận được niềm vui sướng, hạnh phúc. Từ đó, lòng chị tràn ngập niềm tin yêu cuộc sống, yêu mến mọi người. Niềm vui càng lớn dần khi Đào nghĩ đến tương lai, con cái sẽ lớn lên trên mảnh đất này… Cũng trong thời gian này, nông trường Điện Biên đang dần dần xanh tươi. Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân Rừng xà nu - NTT RXN là câu chuyện về anh Tnú tham gia cách mạng và dân làng Xô Man ở Tây Nguyên đồng khởi chống giặc. Sau 3 năm đi “lực lượng”, Tnú về phép, được cụ Mết, Dít, bé Heng cùng dân làng đón tiếp nồng hậu. Đêm đó, mọi người tập họp nghe cụ Mết kể về cuộc đời Tnú. Từ nhỏ, Tnú rất gắn bó với cách mạng, đã từng nuôi giấu cán bộ và hoàn thành xuất sắc công tác giao liên. Tnú được anh Quyết dạy chữ và giáo dục cách mạng. Khi bị giặc bắt, Tnú dũng cảm chịu đựng những đòn tra tấn của giặc. Sau khi vượt ngục, anh cùng cụ Mết lãnh đạo dân làng Xô Man rèn vũ khí chống kẻ thù. Giặc càn quét vào làng, bắt vợ con anh tra tấn tàn khốc cho đến chết. Tnú xông ra, anh bị giặc bắt và đốt mười ngón tay. Dân làng Xô Man đồng khởi giết giặc cứu Tnú. Anh tham gia lực lượng quân giải phóng, chiến đấu chống kẻ thù để giải phóng quê hương. Mảnh trăng cuối rừng – Nguyễn Minh Châu TÓM TẮT CÁC TÁC PHẨM VĂN XUÔI LỚP 12 VI HÀNH Nguyễn Ái Quốc Trên một chuyến tàu đêm ngầm ở Pari tác giả ngồi gần đôi thanh niên nam nữ ở Pháp. Họ lầm tưởng tác giả là vua Khải Định, không biết tiếng Pháp và thế là đôi thanh niên Pháp bình luận về cung cách ngờ nghệch, quê mùa, ăn chơi của Khải Định với một thái độ miệt thị. Sau đó họ lại bàn luận về các thú giải trí, các trò giật gân mà báo chí Pháp thường đăng. Tàu đỗ, tác giả xuống tàu và suy nghĩ về việc mà Khải Định “vi hành” sang Pháp phải chăng là để họp với chính phủ Pháp hay để tìm các thú ăn chơi mới? Và từ khi Khải Định sang Pháp không chỉ dân Pháp nhầm Khải Định với những người Việt Nam khác mà chính phủ Pháp cũng có sự nhầm lẫn tương tự. Vì vậy họ cho cảnh sát mật thám bảo vệ họ những người yêu nước Việt Nam không rời một bước. ĐÔI MẮT Nam Cao Hoàng và Độ là hai người bạn văn, họ quen biết nhau từ trước năm 1945. Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Độ tham gia kháng chiến còn Hoàng chạy tản cư về nông thôn. Nhân một chuyến công tác, Độ vào thăm với ý định vận động Hoàng tham gia văn hóa cứu quốc .Đến nhà Hoàng, Độ được vợ chồng Hoàng đón tiếp rất niềm nở khác với những lần ở Hà Nội trước đây. Trong lúc trò chuyện, vợ chồng Hoàng đã hết lời ca thán những người nông dân. Hoàng chê họ dốt nát, tò mò chuyện người khác, không tin vào khả năng làm cách mạng của họ. Hoàng chỉ ca ngợi Hồ Chí Minh. Trước thái độ của Hoàng, Độ đã ôn tồn giải thích: anh cũng có cái nhìn giống như vậy về người nông dân, nhưng từ khi tham gia tổng khởi nghĩa, được sống gần họ, anh cảm thấy họ yêu nước và can đảm lắm… Do có cái nhìn không đúng về người nông dân nên Hoàng không giao tiếp với họ, Hoàng chỉ đến chơi với một số người thuộc tầng lớp trí thức cũ, tuy rằng anh cũng không ưa gì họ. Tối đến, Hoàng lại co vào cái vỏ trong cuộc sống gia đình với những trang Tam Quốc, Hoàng hết sức thán phục và ca ngợi nhân vật Tào Tháo. Chính vì những suy nghĩ trên của Hoàng nên Độ đã từ bỏ ý định mời Hoàng tham gia văn hóa cứu quốc. VỢ CHỒNG A PHỦ Tô Hoài Mỵ là cô gái nghèo, đẹp và có tài thổi sáo. Vì cha mẹ mắc nợ nhà thống lý nên Mỵ bị bắt cóc về làm dâu trừ nợ. Ở nhà thống lý, cô bị đối xử như một súc nô, bị hành hạ về thể xác lẫn tâm hồn. Cô làm việc quần quật, bị đánh đập tàn nhẫn. Dần dần, Mỵ sống âm thầm như “con rùa nuôi trong xó cửa”, mặt cô “lúc nào cũng buồn rười rượi”. Vào một đêm tình mùa xuân, tiếng sáo thiết tha bồi hồi giục Mỵ đi chơi, cô sửa soạn đi chơi nhưng A Sử đã tàn nhẫn trói đứng cô vào cột nhà. A Phủ là một thanh niên nghèo, mồ côi, siêng năng. Vì đánh A Sử, nên anh bị thống lý phạt và bắt làm người ở không công. Một lần vì để hổ bắt mất một con bò, A Phủ bị thống lý trói đứng vào cột đến kiệt sức gần chết. Trong những phút sưởi lửa, Mỵ chứng kiến tình cảnh của A Phủ và nhận thức tội ác của cha con thống lý. Thương mình, thương người, Mỵ đã cắt dây trói cứu A Phủ. Hai người chạy đến Phiềng Sa và trở thành vợ chồng. VỢ NHẶT Kim Lân Vợ nhặt phản ánh nạn đói khủng khiếp năm 1945, cái đói buộc người ta phải sống ly hương. Trong nạn đói, người chết như ngả rạ “không khí vẩn lên mùi ẩm thối và mùi gây của xác người” Giữa lúc ấy, Tràng - một thanh niên nghèo khó, ế vợ, lại dẫn về một người đàn bà. Sự xuất hiện của thị vừa tạo sự tò mò, vừ lóe chút niềm vui, vừa mang sự lo lắng cho những người dân nghèo xóm ngụ cư. Thị là một phụ nữ bất hạnh, nghèo đói “quần áo tả tơi như tổ đĩa”, chỉ vì nghèo, vì cái ăn mà thị thành vợ nhặt của Tràng. Bà cụ Tứ là người mẹ hiền, rất mực thương con. Bà có dâu giữa lúc không ngờ. Hạnh phúc và nỗi lo khiến người mẹ nghèo khóc nhiều trong đêm tân hôn của hai con. Cô dâu đã đem lại một luồng sinh khí mới cho ngôi nhà tồi tàn, cho những con người tội nghiệp. Trong bữa ăn ngày đói thảm hại, họ có nuốt món chè cám đắng chát và nghẹn ứ trong cổ, họ cố nói chuyện vui về tương lai. Kết thúc tác phẩm là hình ảnh lá cờ đỏ bay phất phới và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật. MÙA LẠC Nguyễn Khải Chị Đào là phụ nữ có ngoại hình không đẹp, chị cũng là một phụ nữ gặp nhiều bất hạnh trong cuộc sống. Nhà chị nghèo nên phải làm nghề đậu phụ để kiếm sống qua ngày. Chị Đào lấy chồng từ năm 17 tuổi, nhưng người chồng cờ bạc, nợ nần nhiều và bỏ vào Nam, đến năm 1950 về quê. Chị có một đứa con khi con lên hai tuổi thì chồng chết. Sau khi chồng và con chết chi Đào kiếm sống bằng buôn bán nay đây mai đó Chị Đào lên nông trường Điện Biên với tâm lý “con chim bay mãi cũng mỏi cánh, con ngực chạy mãi cũng chồn chân…”.Vì vậy lúc ban đầu chị sống táo bạo, liều lĩnh và ghen tỵ với mọi người cũng chính tại đây chị đã gặp Huân - một thanh niên xung kích, đẹp trai và lao động giỏi của nông trường. Với thái độ chân thành, lòng thương mến thật sự của Huân và các thành viên khác của Đội 6 nông trường Điện Biên, chị Đào có nhiều chuyển biến trong nhân thức của mình về cuộc sống. Chị đã tìm thấy niềm vui trong lao động xây dựng văn nghệ, đặc biệt khi nhận được bức thư tỏ tình của viên trung đội trưởng phụ trách là Dịu, chị thật sự cảm động và sung sướng. Chị Đào quyết định ở lại nông trường để xây dựng lại cuộc sống hạnh phúc của mình NGƯỜI LÁI ĐÒØ SÔNG ĐÀ Nguyễn Tuân Ông làm nghề lái đò trên SĐ đã 10 năm. Công việc của ông là chở chè mạn, chè cối về xuôi. Ông là ^ thích đối đầu với sóng to, gió lớn. Ông có trí nhớ tuyệt vời chỉ lấy mắt là nhớ tỉ mỉ như đinh đóng vào lòng tất cả các luồng nước.SĐ bắt nguồn từ Vân Nam -TQ, sông Đà hùng vĩ, hung dữ vì dọc sông có tới 73 con thác. SĐ gây nguy hiểm cho ^ lái đò dọc sông Đà. Vì vậy, ông lái đò Lai Châu phải chiến đấu với TN khắc nghiệt, qua các thạch trận, thủy trận. Nhờ kinh nghiệm, trí thông minh, lòng dũng cảm, ông lái đò Lai Châu đã vượt qua ~ nguy hiểm do SĐ gây ra. SĐ o chỉ hung dữ, SĐ cũng rất trữ tình. Dọc hai bên bờ sông Đà có những bãi cỏ xanh non với những đàn hươu non đang gặm cỏ. Trong KCCP, SĐ là chuyến đường thủy để các cô lái đò Quỳnh

File đính kèm:

  • doctomtatTP.doc