Điều đó làm cho mọi người ngạc nhiên, bà cụ Tứ ngạc nhiên và
cả Tràng cũng thấy bối rối cho chính mình.Rồi cả ba con người
cùng khổ đó đã thay đổi như có phép lạ.Bà cụ Tứ vừa mừng vừa
lo, vừa vui vừa buồn; người vợ nhặt trở nên hiền hậu đúng
mực; Tràng thì thấy thương yêu, gắn bó hơn với cái nhà của
mình.
- Phân tích tâm lí của tác giả rất sâu sắc, đặc biệt là tâm trạng
của bà cụ Tứ. Ngôn ngữ nông thôn được thể hiện một cách
nhuần nhị
8 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 1671 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng kết kiến thức thể loại văn xuôi văn 12, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TỔNG KẾT KIẾN THỨC THỂ LOẠI
VĂN XUÔI VĂN 12
Điều đó làm cho mọi người ngạc nhiên, bà cụ Tứ ngạc nhiên và
cả Tràng cũng thấy bối rối cho chính mình.Rồi cả ba con người
cùng khổ đó đã thay đổi như có phép lạ.Bà cụ Tứ vừa mừng vừa
lo, vừa vui vừa buồn; người vợ nhặt trở nên hiền hậu đúng
mực; Tràng thì thấy thương yêu, gắn bó hơn với cái nhà của
mình.
- Phân tích tâm lí của tác giả rất sâu sắc, đặc biệt là tâm trạng
của bà cụ Tứ. Ngôn ngữ nông thôn được thể hiện một cách
nhuần nhị.
III Kết Luận:
Vợ Nhặt là tác phẩm ca ngợi tình yêu cuộc sống ngay giữa mùa
chết chóc .Khẳng định vai trò của cách mạng tháng Tám đối với
cuộc đời của bao kiếp lầm than
B. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1/. Tóm tắt truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân?
2/.Từ những tình tiết chính và tên truyện Vợ nhặt, anh (chị )
nhận xét gì về số phận người phụ nữ nông thôn trước cách
mạng qua nhan vật vợ Tràng?
3/. Nêu ngắn gọn hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Vợ nhặt”. Vì sao có thể nói rằng “Vợ nhặt” đã được xây dựng trên cơ sở của một tình huống lạ?
4/ Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ. Qua đó , em hiểu gì về tấm lòng
của người mẹ nghèo? 5/.Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc trong “Vợ nhặt” của Kim Lân
6/ Phân tích tình huống truyện độc đáo mà Kim Lân đã tạo
dựng trong truyện Vợ nhặt. Qua đó nêu lên giá trị hiện thực và
giá trị nhân đạo của tác phẩm ?
THAM KHẢO MỘT SỐ BÀI VIẾT SAU:
1/Phân tích tâm trạng của bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt” của Kim
Lân. Bà cụ Tứ vốn là một nông dân từng trải, trung hậu. Cụ hiểu rõ hoàn cảnh của gia đình mình; Con trai mình trong những ngày tháng bị cái
đói hành hạ ghê ghớm. Khi trông thấy người đàn bà ở trong nhà với con mình, bà cụ Tứ vô cùng ngạc nhiên “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà nhỉ?
(…) Sao lại chào mình bằng u (…) Ai thế nhỉ? (…) Ô hay, thế là thế nào
nhỉ?”. Đến lúc biết được người đàn bà kia chính là vợ của con trai mình, tâm trạng của bà cụ diễn biến khá phức tạp, phong phú.
Trước hết, nghĩ đến cảnh túng thiếu, đói khát của gia đình mình cụ
Tứ thấy tủi thân, tủi phận. Cụ ý thức rất rõ lấy vợ cho con trai lẽ ra phải thế này, thế nọ; nhưng cái khó bó cái khôn nên chỉ còn cách nghĩ ngợi tủi thân, tủi phận. Rồi cụ thương con đẻ, thương đến cả con dâu. Cụ biết duyên cớ vì đâu người ta phải theo con mình (“Bà
lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót”, và cụ nói với vợ chồng Tràng “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Việc Tràng “nhặt” được vợ vừa là nỗi buồn rầu lo lắng, vừa là niềm vui mừng của bà lão tội nghiệp này. Mừng vì người con thô lậu, quê kệch đã có vợ. Lo vì đúng lúc đói khát, chết chóc này, liệu lấy gì mà nuôi nhau. Tuy vậy, dẫu sao niềm vui vẫn nhiều hơn. Bà lão “tươi
tỉnh khác hẳn ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ
hẳn lên. Bà lão xăn xắn thu dọn quét tước nhà cửa”. Đến bữa ăn, bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cụ cố giấu
cái lo, động viên các con “nhà ta thì còn nghèo con ạ. Vợ chồng chúng
mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông trời cho khá… Biết
thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì con cái chúng
mày về sau”.
Nhưng “nghĩ ngợi mãi”, “bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước
mắt chảy xuống ròng ròng”. Bởi bà cụ nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út, nghĩ đến cuộc đời khổ cực của mình, nghĩ đến tương lai của con trai và con dâu… và chẳng thể thoát ra khỏi không khí chết
chóc đang bủa vây xung quanh. Qua diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ. Chúng ta có thể nhận thấy biệt
tài phát hiện và miêu tả tâm lí một cách chân thật và sắc sảo của Kim
Lân. Điều này có tác dụng to lớn, khắc hoạ rõ nét chủ đề của tác phẩm: cho dù phải sống trong một tình thế hết sức bi đát, bà cụ Tứ nói riêng và những người lao động nói chung vẫn hướng tới tương lai, vẫn khao khát một mái ấm gia đình
2/Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc trong “Vợ nhặt” của Kim
Lân. Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim lân muốn bộc lộ một quan điểm
nhân đạo sâu sắc của mình. Ấy là khi nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. Không phải ngẫu nhiên. Vợ nhặt trước hết là thiên truyện về cái đói. Chỉ mấy chữ “Cái đói đã tràn đến…” đủ gợi lên hoài niệm kinh hoàng
cho người xứ Việt về một hiểm hoạ lớn của dân tộc đã quét đi xấp xỉ gần một phần mười dân số trên đất nước này. Đúng như chữ nghĩa Kim Lân, hiểm hoạ ấy “tràn đến”, tức là mạnh như thác dữ. Cách tả của nhà văn càng gây một ám ảnh thê lương qua hai loại hình
ảnh: con người năm đói và không gian năm đói. Ông đặc tả chân
dung người năm đói “khuôn mặt hốc hác u tối”, nhưng đáng sợ nhất là có tới hai lần ông so sánh người với ma: “Những gia đình từ những
vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên
xanh xám như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi
lại lặng lẽ như những bóng ma”. Kiểu so sánh ấy thể hiện một cảm
quan đặc biệt của Kim Lân về cái thời ghê rợn: đó là cái thời mà ranh giới giữa người và ma, cái sống và cái chết chỉ mong manh như sợi tóc, cõi âm nhoà vào cõi dương, trần gian mấp mé miệng vực của âm phủ. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết
ấy, cái tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cùng với “mùi gây của
xác người” càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Quả là cái đói đã lộ hết sức mạnh huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp. Trong một bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào đó một mối tình thật là táo bạo. Chao ôi, toàn những chuyện cười ra nước mắt: bốn bát bánh đúc
ngày đói mà làm nên một mối tình, nồi cám ngày đói đủ làm cỗ tân hôn… Ngòi bút khắc khổ của Kim Lân không né tránh mà săn đuổi hiện thực đến đáy, tạo cho thiên truyện một cái “phông” đặc biệt, nhàu nát, ảm đạm, tăm tối và phải nói là có phần nghiệt ngã.
Nhưng quan tâm chính của nhà văn không phải là dựng lên một bản cáo trạng trong Vợ nhặt , mà dồn về phía khác, quan trọng hơn. Từ trong bóng tối của hoàn cảnh Kim Lân muốn tỏa sáng một chất thơ
đặc biệt của hồn người. Mảng tối của bức tranh hiện thực buồn đau là một phép đòn bẩy cho mảng sáng của tình người tỏa ra ánh hào
quang đặc biệt của một chủ nghĩa nhân văn tha thiết, cảm động.
Trong văn chương người ta thường nhấn mạnh chữ tâm hơn chữ tài. Song nếu cái tài không đạt đến một mức nào đó thì cái tâm kia làm
sao bộc lộ ra được. Ở Vợ nhặt cũng thế: tấm lòng thiết tha của Kim Lân sở dĩ lay động người đọc trước hết là nhờ tài dựng truyện và sau
đó là tài dẫn truyện.
Tài dựng truyện ở đây là tài tạo nên một tình huống độc đáo. Ngay
cái nhan đề Vợ nhặt đã bao chứa một tình huống như thế. Trong một bài trả lời phỏng vấn, Kim Lân hào hứng giải thích:”nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động
dường như khó ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy, giá trị một con người thật vô cùng rẻ
rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ có mấy bát bánh đúc ngoài chợ – đúng là “nhặt” được vợ như tôi nói trong truyện”. Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình huống truyện còn có một mạch khác: chủ thể của cái hành động “nhặt” kia là Tràng, một gã trai nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, đang thời đói khát
mà đột nhiên lấy được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ. Lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho hàng xóm, bà cụ Tứ – mẹ Tràng và chính bản thân Tràng nữa: “đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Tình huống trên gợi ra một trạng thái tinh tế của lòng người: trạng thái chông chênh khó nói – cái gì cũng chập chờn, như có, như
không. Đây là niềm vui hay buồn? Nụ cười hay nước mắt?... Cái thế
đặc biệt của tâm trạng này đã khiến ngòi bút truyện ngắn của Kim Lân mang dáng dấp của thơ ca.
Dựng truyện hay chưa đủ. Tài dựng truyện giống như tài của anh châm ngòi pháo. Có lửa tốt, châm đúng ngòi nhưng dây pháo có nhiều quả điếc thì vẫn cứ xịt như thường. Cho nên tài dựng truyện, phải gắn với tài dẫn truyện nữa mới tạo sự sâu sắc, hấp dẫn. Tài dẫn
truyện của Kim Lân thể hiện qua lối sử dụng ngôn ngữ nông dân đặc biệt thành công, qua lời văn áp sát vào tận cái lõi của đời thực khiến mỗi câu chữ như được “bứng” ra từ chính cái chất liệu ngồn ngộn của cuộc sống. Song quan trọng nhất vẫn là ở bút pháp hiện thực tâm lí. Phải nói, tình huống truyện trên kia thật đắc địa cho Kim Lân trong việc khơi ra mạch chảy tâm lí cực kì tinh tế ở mỗi nhân vật. Rất
đáng chú ý là hai trường hợp: bà cụ Tứ và Tràng. Đây là hai kiểu phản ứng tâm lí trước một tình thế như nhau, song không ai giống ai. Anh cu Tràng cục mịch, khù khờ, có ai ngờ lại là một chàng trai thực sự hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc lớn quá, đột ngột quá, khiến Tràng rất đỗi ngỡ ngàng. Cơn say hạnh phúc thăng hoa trong tâm linh, khiến Tràng mất trọng lượng, lơ lửng trong cõi ảo, cõi mơ. Ngòi bút thực của Kim Lân từng tỉnh thế, bây giờ ngòi bút trữ tình của ông cũng sao mà say thế. Nói đúng hơn, nhà văn phải đứng giữa cái say / tỉnh ấy mới “cảm thụ” tới tận đáy cuộc đời, mới tạo ra được những áng “thần bút” như văn Kim Lân trong “Vợ nhặt”. Rồi cái ngỡ ngàng
trước hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm vui hữu hình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình – một niềm vui giản dị
nhưng lớn lao không gì sánh nổi. Chẳng thế mà một người nổi tiếng
như Secnưsepxki từng mơ ước: “Tôi sẵn sàng đánh đổi cả sự nghiệp nếu biết rằng trong một căn phòng nhỏ ấm áp nào đó, có một người
đàn bà đang ngóng đợi tôi về bữa ăn tối”. Chàng thanh niên nghèo khó của Kim Lân đã thực sự đạt được một niềm vui như thế: “Bỗng
nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.
Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà
như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột
ngột tràn ngập trong lòng”. Một niềm vui thật cảm động, lẫn lộn cả hiện thực lẫn giấc mơ. Điều này thì anh Tràng của Kim Lân may mắn
hơn Chí Phèo của Nam Cao: hạnh phúc đã nằm gọn trong tay Tràng.Còn Thị Nở mới chấp chới tầm tay Chí Phèo thì đã bị cái xã hội
đen tối cướp mất. Có một chi tiết rất đắc của Kim Lân: “Hắn xăm xăm
chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa
lại căn nhà”. So với cái dáng “ngật ngưỡng” mở đầu tác phẩm, hành
động “xăm xăm” này của Tràng là một đột biến quan trọng, một
bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Chẳng thế mà Kim Lân đã thấy đủ điều kiện đặt vào dòng suy nghĩ của Tràng một ý thức bổn phận sâu sắc: “Bây giờ hắn mới thấy hắn
nên người, hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Tràng thật sự “phục sinh tâm hồn” đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc.
File đính kèm:
- Van xuoi Van 12.pdf