Mục lục
Trang
Thuyết lượng tử và giải thưởng Nobel . 1
Nhìn lại lịch sử 50 năm đầu của giải thưởng Nobel Vật lí . 15
Làm khoa học trong thời đại mở . 26
Simon Newcomb, nhà thiên văn học vĩ đại số một của nước Mĩ . 38
Arthur Robert Kantrowitz . 49
Kiểm tra thuyết tương đối từ kì nhật thực 1919 – một câu hỏi thành kiến . 52
John Wheeler và nghiên cứu về hạt cơ bản, hạt nhân và vũ khí . 65
Sự sống lượng tử . 75
Charles Darwin và vật lí học . 83
Vật lí đã truyền cảm hứng cho sinh học như thế nào? . 89
Vũ trụ độc nhất . 93
105 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1386 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tuyển những bài báo Vật lí hay (phần 2), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HIEPKHACHQUAY
TUYỂN NHỮNG BÀI BÁO
VẬT LÍ HAY
VOL. 2
Kiên Giang, tháng 7/2009
Mục lục
Trang
Thuyết lượng tử và giải thưởng Nobel .............................................................. 1
Nhìn lại lịch sử 50 năm đầu của giải thưởng Nobel Vật lí ............................. 15
Làm khoa học trong thời đại mở ..................................................................... 26
Simon Newcomb, nhà thiên văn học vĩ đại số một của nước Mĩ ................... 38
Arthur Robert Kantrowitz ............................................................................... 49
Kiểm tra thuyết tương đối từ kì nhật thực 1919 – một câu hỏi thành kiến ..... 52
John Wheeler và nghiên cứu về hạt cơ bản, hạt nhân và vũ khí ..................... 65
Sự sống lượng tử ............................................................................................. 75
Charles Darwin và vật lí học ........................................................................... 83
Vật lí đã truyền cảm hứng cho sinh học như thế nào? .................................... 89
Vũ trụ độc nhất ................................................................................................ 93
© hiepkhachquay | Tuyển báo hay vật lí | Vol. 2 1
Thuyết lượng tử và giải thưởng Nobel
Robert Marc Friedman
Thành kiến cá nhân và sự thiếu hiểu biết của ủy ban xét trao giải Nobel khiến cho
nhiều nhà tiên phong của cơ học lượng tử không được nhận giải, mãi cho đến khi phát hiện
ra phản vật chất vào năm 1932.
Năm 1933, giải thưởng Nobel hình như cũng kém phần quan trọng đi so với cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới và sự leo thang quyền lực của chế độ phát xít, nhưng nhiều nhà
vật lí vẫn giữ cái nhìn thận trọng hướng về Stockholm . Họ cảm thấy hoang mang và tràn trề
thất vọng trước những quyết định trước đó của Viện Hàn lâm khoa học Hoàng gia Thụy
Điển. Không có giải thưởng cho ngành vật lí trong năm 1930, nhưng những thành tựu lí
thuyết và thực nghiệm trong thời gian gần đấy đã dẫn đến cuộc cách mạng mô tả nguyên tử
bằng cơ chế lượng tử mới. Liệu rồi cuối cùng Viện Hàn lâm có chịu công nhận những thành
tựu này không ?
Các giải thưởng Nobel cho thấy lịch sử thật phức tạp (Nguồn: Nobel Foundation)
Sau cùng, khi Viện Hàn lâm công bố quyết định của họ vào tháng 11, kết quả làm
một số người cảm thấy hài lòng, một số tỏ ra giận dữ và một số khác thì cảm thấy khó hiểu.
Giải thưởng dành riêng cho năm 1932 trao cho một mình Werner Heisenberg, cho ―việc sáng
tạo ra cơ học lượng tử, mà những ứng dụng của nó, không kể đến những thứ khác, đã dẫn đến
việc khám phá ra hình thái đặc trưng của hydro‖. Trong khi đó, giải thưởng năm 1933 chia
cho Erwin Schrödinger and Paul Dirac, cho việc ―khám phá ra hình thức hữu ích mới của
thuyết nguyên tử‖.
2 &
Giải thưởng Nobel dành cho cơ học lượng tử từ lâu luôn là đề tài mà nhiều người bàn
tán và dị nghị. Tại sao cũng những nhà khoa học này nhưng có khi một người một mình một
giải, có khi giải thưởng lại chia cho nhiều người, và tại sao lí do chính thức để trao giải lại
linh tinh như vậy ? Nói chung, quyết định trao giải năm 1933 đã mang đến một câu hỏi lớn
như rắc tiêu lên cả lịch sử đời thường và học thuật của nền vật lí hiện đại: tại sao có quá ít
giải thưởng Nobel cho những đóng góp về mặt lí thuyết ? Liệu đây có phải là làm theo di
chúc của Alfred Nobel, trong đó ghi rõ rằng giải thưởng được trao cho những ―khám phá hay
phát minh trong lĩnh vực vật lí‖ ? Phải chăng vốn dĩ việc xác định một đột phá về mặt lí
thuyết là một khám phá thì khó khăn hơn ?
Tôi đã nghiên cứu những công trình đạt giải Nobel, cũng như thư từ trao đổi giữa các
vị là cựu thành viên của ủy ban trao giải, trong một nỗ lực làm sáng tỏ lí do mà người ta đã
xao lãng các công trình lí thuyết, cũng như để có một cảm nhận về giải thưởng năm 1933.
Những hoạt động này sẽ cung cấp cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc hơn về việc nhìn nhận
các thành tựu lí thuyết của ủy ban cho đến trước năm 1933, giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa
của giải thưởng năm đó, kể cả việc bổ sung Paul Dirac vào danh sách những người đạt giải
vào phút cuối.
Dirac (trái), Heisenberg (giữa) và Schrödinger (phải) đến Stockholm năm 1933 để nhận giải Nobel. (Nguồn:
Max Planck Institute fur Physik/AIP Emilio Segrè Visual Archives)
Giải thưởng hàn lâm viện
Giải thưởng Nobel có quy mô quốc tế, nhưng từ khi bắt đầu trao giải đến nay, Viện
Hàn lâm khoa học Hoàng gia Thụy Điển đưa ra quyết định của mình trên cơ sở tiến cử của
năm thành viên trong ủy ban xét giải vật lí và hóa học.Chính kiến riêng của mỗi thành viên
ủy ban người Thụy Điển này, cũng như sự hiểu biết khoa học và sở thích của họ ảnh hưởng
© hiepkhachquay | Tuyển báo hay vật lí | Vol. 2 3
rất nhiều đến kết quả xét giải. Những nhà khoa học được mời chỉ định đó hiếm khi cho ủy
ban một sự nhất trí cao. Và ngay cả khi một ứng cử viên nặng kí thật sự nổi trội – như Albert
Einstein cho thuyết tương đối, hay Henri Poincaré cho những đóng góp đa dạng cho vật lí
toán - ủy ban cũng thường bỏ qua. Đôi khi, một sự thay đổi nhỏ trong thành phần của ủy ban
cũng có thể quyết định số phận của một ứng cử viên.
Mặc dù năm thành viên ủy ban đánh giá các ứng cử viên và đề xuất ai là người nhận
giải, nhưng sự tiến cử của họ vẫn phải được sự tán thành của 10 thành viên trong Ban Vật lí
của Viện Hàn lâm, và sau đó là của 100 thành viên của cả Viện Hàn lâm.Thường thì uy
quyền của ủy ban thắng thế, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Đôi khi Viện Hàn lâm khoa
học chống lại ủy ban của mình. Như trong trường hợp của Gustaf Dalén (1912) và Jean
Perrin (1926), các thành viên của Viện Hàn lâm đã thành công trong việc tập hợp đồng
nghiệp của mình để phản đối tuyên bố của ủy ban rằng những ứng cử viên này không xứng
đáng để trao giải.
Mặc dù có những quy định chính thức chỉ đạo mọi mặt của hệ thống trao giải, nhưng
điều đó không có nghĩa là ủy ban trao giải được cung cấp quy chế rõ ràng để làm việc. Trong
di chúc, một số cụm từ thiết yếu như ―khám phá hay phát minh có ý nghĩa nhất trong lĩnh
vực vật lí‖, hoặc ―gần đây‖, hoặc ―có ích cho nhân loại‖ không được định nghĩa rõ ràng. Cho
nên phát sinh nhiều cách hiểu và cách hiểu lại thay đổi theo thời gian. Nhưng ngay cả khi
mọi thành viên đã cố gắng vượt qua định kiến và lòng ích kỉ, nhỏ nhen, thì công việc lựa
chọn người thắng giải luôn luôn – và vẫn luôn luôn – là một việc hết sức khó khăn. Đôi lúc
các thành viên ủy ban thổ lộ rằng, có khi, có một số ứng cử viên đều xứng đáng như nhau cả.
Khuynh hướng thực nghiệm
Những năm đầu thập niên 1900, các thành viên ủy ban đã cố gắng ủng hộ các ứng cử
viên mà công trình nghiên cứu của họ phản ánh khuynh hướng khoa học riêng của họ. Đa số
thành viên trong ủy ban thuộc về Khoa Vật lí thực nghiệm ở trường đại học Uppsala , họ xem
phương pháp đo lường chính xác là mục tiêu cao nhất trong ngành của mình. Chẳng hạn,
Bernhard Hasselberg – một thành viên từ năm 1901 đến 1922 – luôn xem Albert Michelson
là một nhà vật lí mẫu mực vì những nghiên cứu của ông đã đẩy giới hạn của độ chính xác lên
rất cao.
Do đó, Michelson không có lí do gì mà chả nhận được giải. Nhưng thay vì chỉ nhận
được một vài đề cử, đằng này ông bắt đầu nổi bật là một ứng cử viên đáng kể trong năm
1904 nhờ sự ủng hộ tích cực của Hasselberg. Các nhà vật lí Thụy Điển trao giải Nobel cho
Michelson nhằm công nhận công dụng của cái giao thoa kế của ông trong khoa đo lường, và
đặc biệt, cho việc xác định bằng thực nghiệm chiều dài của thanh mét chuẩn quốc tế. Năm
1907, Hasselberf thổ lộ rằng ông đã chuẩn bị ―làm mọi thứ trong quyền hạn của mình để
mang giải thưởng đến cho ông ta (Michelson)‖. Tuy nhiên, Hasselberg đã phải thất bại trước
thực tế rằng Michelson không phải là một ứng cử viên công chúng và công trình nghiên cứu
của ông ta không đáp ứng được yêu cầu của quy định phải có một ―khám phá‖.
4 &
Trong bản báo cáo của mình trước ủy ban, Hasselberg không úp mở rằng những
nghiên cứu của Michelson xứng đáng được trao giải, mặc dù chúng không đưa tới một khám
phá lớn nào. Ông khẳng định, phương pháp đo lường chính xác tự nó đã cấu thành một điều
kiện tiên quyết cho việc khám phá. Một thành viên khác cố gắng giải thích rằng những quy
định ngặt nghèo không đề cập đến vấn đề này, nhưng Hasselberg vẫn cứ khăng khăng với lí
lẽ của mình. Ông biết rằng đa số trong ủy ban, kể cả ông chủ tịch Knut Ångström, chia sẻ
quan điểm của ông về việc xem phương pháp đo lường chính xác là yếu tố tiên quyết cho sự
tiến bộ trong vật lí học. Giải Nobel vật lí năm 1907 vì vậy được trao cho Michelson, cho
―những dụng cụ quang chính xác và những nghiên cứu về quang phổ học và đo lường được
thực hiện với sự hỗ trợ của chúng‖. Thi nghiệm ête kéo theo nổi tiếng của ông vừa được nhắc
đến trong đó.
Việc trao giải cho Michelson khiến cho Hasselberg và những đồng nghiệp cùng quan
điểm với ông ở Uppsala tranh luận rằng phương pháp đo lường chính xác ―là điều kiện rất
căn bản, thiết yếu, để chúng ta thâm nhập sâu hơn vào những quy luật của vật lí – là con
đường duy nhất để chúng ta đi đến những khám phá mới‖. Đây đúng là một cơ hội tốt để tán
dương và khẳng định quan điểm này trong vật lí học.
Khi mà một khuynh hướng thực nghiệm trong ủy ban làm lợi cho Michelson thì nó
cũng gây tổn hại đến những ứng cử viên được đề cử cho những thành tựu lí thuyết. Năm
1911, Vilhelm Carlheim-Gyllensköld, một thành viên mới được bầu vào ủy ban đến từ
trường đại học Stockholm, đã đệ trình một kháng nghị thư lên Viện Hàn lâm, trong đó ông
nêu rõ sự đối lập giữa vị thế cao lớn của nền vật lí toán và vật lí lí thuyết trong thế giới khoa
học với sự ít ỏi của những giải thưởng Nobel dành cho các lĩnh vực này.
Ngoài việc Hendrik Lorentz cùng chia giải thưởng năm 1902 cho việc giải thích hiệu
ứng Zeeman, và giải thưởng trao cho J J Thomson năm 1906 cho sự dẫn điện trong chất khí,
Carlheim-Gyllensköld phàn nàn rằng ―giải Nobel hiện nay chỉ dành cho các nhà vật lí thực
nghiệm‖. Ông nhấn mạnh rằng việc xao lãng vật lí toán và vật lí lí thuyết không phải là do
thiếu người đề cử. Trong số những nhà lí thuyết nổi trội được đề xuất có thể kể đến Ludwig
Boltzmann, Oliver Heaviside, William Thomson (huân tước Kelvin), Max Planck, Poincaré,
John Poynting và Wilhelm Wien. Đa số những trường hợp này được đề cử từ những người có
khả năng thực nghiệm không chê vào đâu được, như Henri Becquerel, Philipp Lenard,
Wilhelm Röntgen and Pieter Zeeman, họ đều đã nhận giải Nobel. ―Hàng loạt phiếu bầu rất
đáng được chú ý khi xét giải‖, Carlheim-Gyllensköld khẩn khoản.
Nhưng các ủy ban sau đó liên tiếp phớt lờ số lượng đề cử không ngừng tăng lên dành
cho Planck và những nhà vật lí lí thuyết khác. Nguyên nhân là vì một số, nếu không nói là tất
cả, các thành viên trong ủy ban không đủ khả năng theo đuổi sự phát triển của cơ học lượng
tử và thuyết tương đối. Thật vậy, cuối cùng thì giải thường được trao cho Planck – giải năm
1918, trao giải năm 1919 – công nhận vai trò của ông trong việc lãnh đạo nền khoa học Đức
trong thời kì xảy ra thảm kịch quốc gia hơn là công nhận thuyết lượng tử. Thực ra thì những
người theo chủ nghĩa thực nghiệm trong ủy ban muốn dành giải thưởng năm 1918 cho nhà
vật lí nguyên tử Johanes Stark và giải thưởng năm 1919 mới trao cho Planck để nhấn mạnh
© hiepkhachquay | Tuyển báo hay vật lí | Vol. 2 5
tầm quan trọng của những thí nghiệm chính xác so với việc nghiên cứu lí thuyết. Tất nhiên,
lịch sử xảy ra như thế nào thì như chúng ta đã biết.
Thời khắc quyết định cho nền vật lí lí thuyết
Trường hợp của Einstein đánh dấu một bước ngoặt. Sau cuộc thám hiểm nhật thực
vào tháng 11 năm 1919, xác nhận ánh sáng phát ra từ các ngôi sao ở xa bị trường hấp dẫn của
Mặt Trời bẻ cong đi, Einstein bắt đầu nhận được số tiến cử tăng dần cho công trình của ông
về thuyết tương đối. Tuy nhiên, Viện Hàn lâm công bố người thắng giải năm 1920 lại là
Charles-Edouard Guillaume – người được chỉ có một mình nhà vật lí người Thụy Sĩ Charles
Guye tiến cử - cho việc phát minh ra hợp kim thép – nickel, một phát minh không ảnh hưởng
gì nhiều lắm đến những thay đổi trong ngành luyện kim. Mặc dù hợp kim ―invar‖ cho khả
năng chế tạo nhiều loại thiết bị đo lường có độ chính xác rất cao, nhưng các quan sát viên
nước ngoài, kể cả những người không thích công trình của Einstein, cũng nhận thấy
Guillaume là một sự lựa chọn kì quặc.
Vậy chuyện gì đang xảy ra ở Viện Hàn lâm ? Đơn giản thôi: một số, nếu không nói là
tất cả, các thành viên của ủy ban chưa bị thuyết phục thích đáng bởi kì nhật thực năm 1919
để thay đổi thái độ phản đối đối với Einstein. Hơn nữa, đó là một trong những lời thỉnh cầu
cuối cùng của Hasselberg, sau hai thập kỉ phục vụ trong ủy ban, muốn nhìn thấy người đồng
nghiệp đo lường chính xác Guillaume của ông được trao giải.
Năm 1921, những người tiến cử đã miêu tả Einstein như là một người khổng lồ trong
thế giới vật lí mà người ta chưa từng thấy kể từ thởi Newton . Năm 1921, Allvar Gullstrand,
giáo sư ngành quang lí và quang sinh lí thuộc trường đại học Uppsala và là một trong những
thành viên có tư cách đàng hoàng nhất trong Viện Hàn lâm, yêu cầu muốn được nghe báo
cáo về những đóng góp của Einstein cho thuyết tương đối và thuyết hấp dẫn. Đơn giản là
Gullstrand không hiểu nổi công trình nghiên cứu của Einstein. Tuy vậy, ông vẫn kiên quyết
rằng Einstein không thể nào nhận giải được.
Trong khi chuẩn bị bản báo cáo đặc biệt trước ủy ban, Gullstrand chuyển sang cầu
viện đồng nghiệp của ông ở Uppsala và là người bạn Carl Wilhelm Oseen, một giáo sư cơ
học và vật lí toán. Ông đã trình bày một số đoạn phê bình với Oseen, và ông này đã chỉ ra
cho Gullstrand thấy những sai lầm của ông. Chính Oseen cũng nghi ngờ lớn về giá trị của
thuyết tương đối, nhưng ông vui lòng cho Einstein một bình phẩm hợp lí. Sau này, ông có thổ
lộ rằng, thật là một thảm họa cho ủy ban xét giải vì có Gullstrand, người đại diện vật lí lí
thuyết, ông ta phải thẩm định những thứ mà ông ta chả hiểu gì cả !
Gullstrand không việc gì phải cản trở Einstein trước ủy ban. Không thành viên nào
tán đồng thuyết tương đối cả. Như lời Hasselberg viết từ giường bệnh năm 1921: ―Người ta
không chắc lắm những nghiên cứu như thế này có phải là đối tượng trao giải như lời di chúc
của Alfred Nobel hay không‖. Đa số các thành viên trong ủy ban đơn giản là không chấp
nhận một công trình nghiên cứu như vậy là nền vật lí thật sự. Cách thức Einstein xem xét các
giả thuyết cơ sở của mình và cách ông cố gắng hợp nhất các lí thuyết cho thấy chúng là công
trình của một nhà siêu hình học hơn là một thành viên của cộng đồng khoa học đương thời.
6 &
Carl Wilhelm Oseen, giáo sư cơ học và vật lí toán tại trường đại học Uppsala ,
người thống trị ủy ban Nobel từ năm 1922 - 1944
Nếu như bản báo cáo của Gullstrand có nhiều khiếm khuyết thì, về nguyên tắc, Viện
Hàn lâm có quyền tự do hành động một khi điều đó mang đến ánh sáng giải quyết vấn đề.
Nhưng đa số mọi người trong Viện không muốn trao giải cho Einstein, và không ai muốn
làm phật lòng những thành viên kính mến trong ủy ban của mình. Như ―giới chuyên môn‖
Thụy Điển đã nói, Viện Hàn lâm giữ uy quyền và lẽ phải của mình để định giá và phán xét.
Khi chiếc đồng hồ điểm đến nửa đêm ngày 21 tháng 11 năm 1921, Viện Hàn lâm đã bỏ phiếu
không trao giải Nobel vật lí cho năm đó.
Carl Wilhem Oseen vào cuộc
Oseen gia nhập ủy ban năm 1922. Ông muốn có một giải thường cho Einstein, nhưng
không phải cho nghiên cứu về thuyết tương đối. Ông cũng rất muốn được nhìn thấy Niels
Bohr nhận giải. Với địa vị cao quý trong ban vật lí và năng lực phân tích sắc bén, Oseen đã
tìm thấy một cách khéo léo để trao giải cho cả hai người họ. Chính ông đã tiến cử thành công
Einstein cho việc khám phá ra định luật quang điện. Ông lí giải rằng, không kể đến phương
pháp lí thuyết mà Einstein đã sử dụng – nó bao hàm quá nhiều thuyết lượng tử trong đó khiến
ủy ban khó chấp nhận được – bản thân định luật quang điện đã được xác nhận bằng kinh
nghiệm. Và với việc công nhận định luật quang điện là một chân lí cơ bản của tự nhiên,
Oseen có thể biện hộ cho mẫu nguyên tử lượng tử của Bohr. Trước đây, ủy ban đã bác bỏ
công trình này vì cho rằng nó mâu thuẫn với thực tế. Nay Oseen khẳng định rằng mẫu
nguyên tử Bohr là dựa trên cơ sở chắc chắn – định luật quang điện của Einstein – và đã tập
hợp được ủy ban và Viện Hàn lâm ủng hộ cho đề xuất của ông.
© hiepkhachquay | Tuyển báo hay vật lí | Vol. 2 7
Sự có mặt của Oseen trong ủy ban vào năm 1922 làm cho ủy ban lần đầu tiên có được
sự tinh thông về vật lí lí thuyết, nhưng điều đó không có nghĩa là những công trình lí thuyết
sẽ dễ được tán thành hơn. Oseen là một tri thức vừa nghiêm khắc vừa kiêu ngạo, và đây
không nhất thiết là đức tính phải có ở một thành viên trong ủy ban. Ông thường giữ vai trò
người phản biện, vừa là quan tòa vừa là đao phủ, khi đánh giá các ứng cử viên luôn nặng tay
hơn so với những đồng sự khác. Khi có người phản đối quan điểm của ông thi ông cực lực
chỉ trích lại, cũng như trả thù cá nhân.
Oseen để lại tiếng tăm sâu sắc trong cuộc đua giảnh giải Nobel cả một thời gian dài
sau khi ông không còn quyền hạn trong ủy ban vào năm 1944. Ông lãnh đạo phong trào thu
hẹp lại quy mô của ―vật lí học‖ đủ tư cách cho việc nhận giải, trái với những hành động trước
đây bao hàm những lĩnh vực như vật lí thiên văn và địa vật lí. Nhưng, điều quan trọng nhất,
mặc dù nghiên cứu riêng của ông dẫn đến thủy động lực học và khoa vật lí nghiên cứu mạng
tinh thể, nhưng ông vẫn ngồi ở ghế thẩm phán đối với hầu hết các vấn đề vật lí lí thuyết, đặc
biệt là thuyết nguyên tử.
Oseen không hài lòng với con đường mà nền vật lí đang tiến triển; quan điểm rằng
mọi thứ cần phải kiên định, rõ ràng, hợp lí khiến ông thật sự thất vọng trước những giải pháp
cục bộ và nhất thời trước cuộc khủng hoảng sâu sắc của nền vật lí nguyên tử trong thập niên
1920. Ông thấy không có chút lí do gì để tôn vinh những giải pháp nửa vời, những vật liệu
nhất thời, và những bước tiến dò dầm về một tương lai chưa biết.
Từ trái sang: Carl Wilhelm Oseen, Niels Bohr, James Franck và Oskar Klein cùng với Max Born (ngồi) trong lễ
kỉ niệm công trình của Bohr ở Göttingen năm 1922. Khi đó, Oseen đã coi mẫu nguyên tử lượng tử sơ khai của
Bohr là “đẹp nhất” trong số những phát triển mới tuyệt vời trong vật lí lí thuyết. Oseen đã thuyết phục được ủy
ban trao giải cho Bohr vào năm đó (Nguồn: AIP Emilio Segrè Visual Archives)
8 &
Thay vì tìm một giải pháp hòa giải giữa những cuộc tìm kiếm mang tính chất hỗn
loạn của vật lí lượng tử với những cơ sở vật lí cổ điển, như Oseen hi vọng, các nhà nghiên
cứu lại đề xuất những lí thuyết càng ngày càng kì dị hơn. Giữa thập niên 1920, Heisenberg đề
xuất rằng mục tiêu lâu nay cố gắng mường tượng ra các quá trình nguyên tử cần phải vứt bỏ
đi. Những phương trình toán học rắc rối lại cho đáp số phù hợp với dữ liệu quan sát. Điều
này khiến Oseen không ưa. Và rồi người ta đi đến khẳng định rằng ở cấp độ nguyên tử thì
xác suất thống trị chứ không phải là tính quyết định luận.
Oseen đã phải khổ sở trước những phát triển này, nhưng ông vẫn không chịu rút lui
vào hậu trường. Ông không muốn từ bỏ quyền lực trong ủy ban. Sự thiếu vắng giải thường
dành cho những công trình nghiên cứu lí thuyết trong thời gian ngự trị của Oseen trong ủy
ban phản ánh tính nhạy cảm của ông trước thời cuộc chứ không phải những cản trở nghi thức
hay thiếu vắng ứng cử viên.
Sự chấp nhận cơ học lượng tử
Từ giữa thập kỉ 1920, Werner Heisenberg và Erwin Schrödinger bắt đầu đặt nền tảng
mới cho việc hiểu các hiện tượng nguyên tử. Năm 1928 bắt đầu có một số lượng nhỏ đề cử
cho cách tiếp cận vấn đề không giống ai của họ, và sau đó số tiến cử ngày càng thuyết phục
hơn cả về số lượng và cơ sở tiến cử vào cuối thập kỉ đó.
Một số nhà tiến cử thích sự miêu tả trực quan các quỹ đạo electron như một dạng cơ
học sóng của Schrödinger hơn. Trong khi những nhà lí thuyết kì cựu như Einstein, Planck và
Max von Laue lại thích cách tiếp cận phi trực quan triệt để hơn của Heisenberg. Hơn nữa, sự
dấn ngày càng sâu từ nghiên cứu của Heisenberg hình như đã đánh đổ niềm tin lâu nay của
các nhà vật lí về quan hệ nhân quả. Một số nhà vật lí làm việc thân cận với Heisenberg – gồm
Bohr, Wolfgang Pauli và Max Born – đã mở ra một cánh cửa đi vào thế giới hạ nguyên tử,
trong đó mọi hiện tượng xảy ra khác biệt tận gốc rễ với nền vật lí của thế giới vĩ mô. Tuy
nhiên, các lí thuyết vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, và chúng bắt đầu được tiến cử bởi
những nhà vật lí hàng đầu.
Oseen đã làm những gì mà ông có thể làm để tránh phải công nhận Schrödinger và
Heisenberg. Có lẽ ông có thiện ý với phương pháp của Schrödinger nhưng ông cũng đồng ý
với số đông những người tiến cử rằng – nếu trao giải thưởng cho cơ học lượng tử - thì cả hai
người này phải nhận chung. Không thèm đếm xỉa tới số đông, Oseen đã tạo ra cuộc đua giữa
những người ủng hộ hai người này. Những cuộc đua tranh này có nguyên nhân từ tính khí
hay đua tranh và thủ đoạn của ông.
Đáp lại những sự tiến cử vào năm 1929, Oseen cho rằng lí thuyết của Schrödinger và
Heisenberg chưa đủ chín chắn ―từ một góc nhìn hợp lí‖ để cho phép mô tả có hệ thống các
nguyên tử. Hơn nữa, ông không thể tuyên bố họ đủ tư cách nhận giải khi mà lí thuyết của họ
chưa thu được kết quả trong bất kì khám phá có tầm quan trọng cơ sở nào. Nói cách khác,
ông cố làm ngăn trở họ bằng quy chế của giải.
Hai nhà lí thuyết tiếp tục được ủng hộ trong năm 1930. Một lần nữa, một số người đề
cử thích Schrödinger, một số khác thì thích Heisenberg, hoặc là chia hai giữa Heisenberg và
© hiepkhachquay | Tuyển báo hay vật lí | Vol. 2 9
Born, người đã giúp sáng tạo ra lí thuyết. Nhưng những nhà vật lí đạt giải Nobel lắm đổi thay
như Planck và Perrin lại tán thành việc trao giải cho Schrödinger và Heisenberg. Để chống
lại tính cố chấp của Oseen, The Svedberg, một thành viên Viện Hàn lâm và là một nhà hóa lí,
đề cử Heisenberg và nhấn mạnh rằng lí thuyết của ông đã tiên đoán và sau đó đưa tới một
khám phá quan trọng – một dạng mới của phân tử hydro. Oseen đáp lại mỉa mai rằng như thế
có lẽ Heisenberg phải được xem xét cho một giải thưởng về hóa học ! Mặc dù thừa nhận rằng
việc trao giải thưởng vật lí cho một công trình lí thuyết thu được kết quả là một khám phá
hóa học không phải là không có, nhưng một lần nữa ông lại từ chối chứng thực cho hai nhà
vật lí này đạt giải.
Có lẽ vấn đề là ở chỗ, như một số nhà đề cử đã đề cập, việc chia giải thưởng cho hai
người thật là một sự bất công. Tại sao hai trí tuệ lớn như thế phải chấp nhận chia chung một
giải thưởng, trong khi một số người khác sau này nhận trọn vẹn giải cho những thành tựu
kém hơn ? Oseen và những người còn lại trong ủy ban đã tìm thấy một con đường vòng lảng
tránh toàn bộ vấn đề này. Nhà vật lí thực nghiệm người Ấn Độ Chandrasekhara Raman đột
ngột xuất hiện như một ứng cử viên công chúng cho việc khám phá ra một quá trình mới,
nhờ đó các phân tử làm tán xạ ánh sáng; và ông nhận giải thưởng năm 1930.
Năm 1931, số tiến cử cho những nhà tiên phong của cơ học lượng tử giảm xuống, có
lẽ do những người đề cử không muốn lãng phí những phiếu bầu của họ cho những ứng cử
viên mà ủy ban tỏ ra chống đối quá quyết liệt. Một lần nữa, thế giới vật lí thật nhỏ bé; nhiều
nhà tiến cử đều biết ai đang ngồi ở ghế thẩm phán và xu hướng mà họ nắm giữ. Nhà lí thuyết
bị chỉ trích mạnh mẽ, nhưng thông minh, Wolgang Pauli lúc ấy bình luận rằng không có nhà
vật lí lí thuyết nào ở Thụy Điển cả, ông không thèm đếm xỉa tới cả Oseen. Một số nhà tiến cử
cảm thấy bối rối và từ chối không đề cử ai hết.
Nhưng, bất kể những chỉ trích ngày càng mạnh mẽ, Oseen tuyên bố rằng sự giảm sút
số đề cử cho Heisenberg và Schrödinger là một dấu hiệu cho thấy sự nhiệt tình đối với công
trình nghiên cứu của họ đã ―lạnh đi‖. Ông quy việc thiếu sự ủng hộ này là do thuyết lượng tử
không bao hàm các hiệu ứng tương đối tính của chuyển động electron. ―Vấn đề này lún sâu
đến nỗi cần có một ý tưởng hoàn toàn mới mới giải quyết được nó‖. Không ai có thể nói ý
tưởng mới này và, cho đến tận bấy giờ, sự đột phá phi thường sẽ tác động như thế nào đến lí
thuyết cơ học lượng tử. Do đó, ông thúc giục ủy ban rằng Heisenberg và Schrödinger phải
chờ đã; giải thưởng năm 1931 đành gác lại cho năm sau.
Khẳng định vị thế vững chắc
Lại một lần nữa, các tiêu chuẩn cao không thể đạt được của Oseen thúc giục ông đòi
hỏi một lí thuyết hoàn hảo. Hoặc lả một lí thuyết hoàn toàn có khả năng giải thích tất cả các
hiện tượng có liên quan, hoặc là nó không được công nhận có giá trị. Không ai phủ nhận yêu
cầu phải bao hàm các hiệu ứng tương đối tính, nhưng điều này không làm giảm bớt sự kính
trọng mà nhiều nhà vật lí dành cho Heisenberg và Schrödinger. Có lẽ, như m
File đính kèm:
- Tuyen nhung bai bao vat li hay.pdf