NDC là một nhà văn, nhà thơ có tài. Thơ văn của ông luôn phản ánh tư
tưởng nhân đạo và phản khán thế lực xâm lược thời đầu chống Pháp rất rõ.
Bằng ngòi bút tài hoa NDC đã phát họa nên hình tượng người nông dân anh
hùng mà mộc mạc chất phát và hết sức độc đáo qua “văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc”.
Hai câu thơ đầu của bài văn tế khái quát khung cảnh bảo táp của thời đại,
phản ánh biến cố chính trị lớn lao chi phối toàn bộ thời cuộc. Đó là cuộc
độ giữa thế lực xâm lược tàn bạo của thực dân pháp và ý chí chiến đấu kiên
cường để bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta. Hiện lên trên cái nền ấy là hình
ảnh của đội quân áo vải được khắc họa hoàn toàn bằng bút pháp hiện thực,
không theo ước lệ của văn học trung đại, không bị chi phối bởi kiểu sáng tác
lí tưởng hóa. Điều đáng chú ý là những chi tiết chân thực được lựa chọn rất
tế, nên đậm đặc chất sống.
3 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 17753 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vẽ đẹp của hình tượng người nông dân trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễ Đình Chiểu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TẬP LÀM VĂN SỐ 3
ĐỀ 3: Vẽ đẹp của hình tượng người nông dân trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của NDC
BÀI LÀM
NDC là một nhà văn, nhà thơ có tài. Thơ văn của ông luôn phản ánh tư
tưởng nhân đạo và phản khán thế lực xâm lược thời đầu chống Pháp rất rõ.
Bằng ngòi bút tài hoa NDC đã phát họa nên hình tượng người nông dân anh
hùng mà mộc mạc chất phát và hết sức độc đáo qua “văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc”.
Hai câu thơ đầu của bài văn tế khái quát khung cảnh bảo táp của thời đại,
phản ánh biến cố chính trị lớn lao chi phối toàn bộ thời cuộc. Đó là cuộc
độ giữa thế lực xâm lược tàn bạo của thực dân pháp và ý chí chiến đấu kiên
cường để bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta. Hiện lên trên cái nền ấy là hình
ảnh của đội quân áo vải được khắc họa hoàn toàn bằng bút pháp hiện thực,
không theo ước lệ của văn học trung đại, không bị chi phối bởi kiểu sáng tác
lí tưởng hóa. Điều đáng chú ý là những chi tiết chân thực được lựa chọn rất
tế, nên đậm đặc chất sống.
“Vốn chẳng phải quân cơ quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh; chẳng qua
là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ”.
“Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi; trong
cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ”.
Chính những hình ảnh trên mà bức tượng đài về người nông dân nghĩa sĩ
ánh lên một vẽ đẹp mộc mạc, chân chất và hết sức độc đáo.
Hình tượng người anh hùng nghĩa binh nông dân còn được khắc họa rõ
nét trên cái nền của 1 trận công đồi náo nhiệt, đầy khí thế tiến công.
“Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm
đeo dùng bằng lưởi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ”.
“Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn
hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ”.
Qua đoạn văn ta thấy sự đối lập giữa ta và địch , giữa vũ khí thô sơ và
súng ống hiện đại nhưng chúng ta cũng chiến thắng lớn thể hiện qua các
động từ mạnh: đâm, chém, xông, xô, đốt,…,kết hợp nhịp câu ngắn gọn. Tất
cả tạo nên một không khí khẩn trương, sôi động, quyết liệt và đầy tự hào.
Hình ảnh những người nông dân nghĩa quân dưới ngòi bút của tác giả
lại hiện lên dũng mãnh và hiên ngang: “coi giặc như không”, “liều mình như
chẳng có,…”khí thế của họ là khí thế đạp lên đầu kẻ thù sắp tới không quản
ngại gian khổ hi sinh, rất tự tin và đầy ý chí quyết thắng. Chings họ đã tạt
tượng mình vào dòng lịch sử dân tộc đầy hào hùng.
NDC đã tài tình phát hiện và ngợi ca bản chất cao quý, tiềm ẩn đằng sau
manh áo vải, đằng sau cuộc đời lam lũ gắn bó với ruộng vườn, đó là lòng
yêu nước là ý chí quyết tâm bảo vệ tổ quốc. Đó là hình tượng xưa nay chưa
từng có trong các tác phẩm văn chương.
Người nông dân với lòng quyết tâm và ý chí bảo vệ tổ quốc tuy nhiên họ
đã anh dũng ngã xuống với lòng tiếc thương không chỉ của tác giả, của gia
đình mà còn của quê hương, của nomn sông Việt Nam.
“Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường
Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ”.
“Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng
trăng rằm; đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng
nước đổ”.
“Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”.
Tiếng khóc trong bài “văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” tuy bi thiết nhưng
không đượm màu tan tóc, thê lương kéo dài bởi nó mang âm hưởng của
niềm tự hào, của sự khẳng định ý nghĩa bất tử của cái chết vì nước, vì dân
mà muôn đời sau con cháu vẫn tôn thờ.
Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ vừa giản dị lại vừa oai hùng.Họ
đã vẽ nên bức tượng đài vĩ đại về người nông dân áo vải cầm ngọn tầm
vông đánh giặc. Bài văn tế này, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, người
nông dân có một vị trí trung tâm, hiện ra với tất cả vẻ đẹp vốn có của họ.
THE END
File đính kèm:
- btlvso3.doc