Cấu trúc đề thi và hình thức thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học cao đẳng năm 2009

Năm học 2008-2009, chương trình trung học phổ thông (THPT) trên toàn quốc có sự thay đổi. Các nhóm đối tượng thí sinh dự thi tốt nghiệp THPT và thi tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2009 sẽ khác nhau. Bộ Giáo dục và Đào tạo thông báo về cấu trúc đề thi và hình thức thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy năm 2009 để các sở giáo dục và đào tạo, Cục Nhà trường - Bộ Quốc phòng, các đại học, học viện, các trường đại học, cao đẳng trên cả nước khẩn trương triển khai thực hiện và thông báo, hướng dẫn cho các đối tượng thí sinh sẽ dự thi.

doc4 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cấu trúc đề thi và hình thức thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học cao đẳng năm 2009, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cấu trúc đề thi và hình thức thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh ĐH,CĐ năm 2009 Kính gửi: - Các sở giáo dục và đào tạo; - Cục Nhà trường - Bộ Quốc phòng; - Các đại học, học viện; - Các trường đại học, cao đẳng. Năm học 2008-2009, chương trình trung học phổ thông (THPT) trên toàn quốc có sự thay đổi. Các nhóm đối tượng thí sinh dự thi tốt nghiệp THPT và thi tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2009 sẽ khác nhau. Bộ Giáo dục và Đào tạo thông báo về cấu trúc đề thi và hình thức thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy năm 2009 để các sở giáo dục và đào tạo, Cục Nhà trường - Bộ Quốc phòng, các đại học, học viện, các trường đại học, cao đẳng trên cả nước khẩn trương triển khai thực hiện và thông báo, hướng dẫn cho các đối tượng thí sinh sẽ dự thi. I. Căn cứ lập cấu trúc đề thi năm 2009 1. Người học lớp 12 THPT, gồm 5 nhóm đối tượng: a) Học sinh giáo dục THPT: học theo chương trình giáo dục phổ thông cấp THPT ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT, ngày 05/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; gồm 4 nhóm đối tượng: - Học sinh Ban Khoa học Tự nhiên: học 4 môn Toán, Vật lí, Hoá học, Sinh học theo chương trình nâng cao; các môn còn lại học theo chương trình chuẩn. - Học sinh Ban Khoa học Xã hội và Nhân văn: học 4 môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, Ngoại ngữ theo chương trình nâng cao; các môn còn lại học theo chương trình chuẩn. - Học sinh Ban Cơ bản: + Học tất cả các môn theo chương trình chuẩn; + Học từ 1 đến 3 môn nâng cao (học theo chương trình nâng cao hoặc học theo chương trình chuẩn và chủ đề tự chọn nâng cao), các môn còn lại học theo chương trình chuẩn. - Học sinh trường THPT Kĩ thuật: học tất cả các môn theo chương trình chuẩn. b) Học viên giáo dục thường xuyên (GDTX): học theo chương trình GDTX cấp THPT ban hành kèm theo Quyết định số 50/2006/QĐ-BGDĐT, ngày 07/11/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2. Thí sinh tự do, gồm 3 nhóm đối tượng: a) Thí sinh đã học chương trình THPT không phân ban; b) Thí sinh đã học chương trình THPT phân ban thí điểm; c) Thí sinh đã học chương trình bổ túc THPT. II. Các nguyên tắc lập cấu trúc đề thi năm 2009 1. Nội dung thi nằm trong chương trình THPT hiện hành, chủ yếu là chương trình lớp 12. 2. Đề thi đáp ứng cho tất cả các đối tượng thí sinh học lớp 12 THPT năm học 2008-2009. 3. Theo quy chế thi hiện hành, thí sinh tự do phải thi cùng đề thi như thí sinh đang học lớp 12 THPT năm học 2008-2009; thí sinh tự do phải tự cập nhật, bổ sung kiến thức theo các hình thức khác nhau để chuẩn bị cho việc dự thi. Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ thông báo hướng dẫn ôn tập cho tất cả các đối tượng dự thi, trong đó có thí sinh tự do. III. Cấu trúc đề thi năm 2009 1. Đề thi tốt nghiệp THPT a) Đề thi dành cho các đối tượng thí sinh học theo chương trình giáo dục phổ thông cấp THPT, gồm: thí sinh học Ban Khoa học Tự nhiên, Ban Khoa học Xã hội và Nhân văn, Ban Cơ bản, thí sinh học trường THPT Kĩ thuật và thí sinh tự do. Đề thi được ra theo chương trình giáo dục phổ thông cấp THPT hiện hành, chủ yếu là chương trình lớp 12. - Đối với các môn Toán, Vật lí, Hoá học, Sinh học, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, đề thi mỗi môn gồm 2 phần: + Phần chung cho tất cả thí sinh, ra theo nội dung giống nhau giữa chương trình chuẩn và chương trình nâng cao; + Phần riêng cho thí sinh học theo từng chương trình: chương trình chuẩn hoặc chương trình nâng cao. Thí sinh học chương trình nào thì chỉ được làm phần dành riêng cho chương trình đó (chuẩn hoặc nâng cao); riêng thí sinh tự do được chọn một phần riêng thích hợp để làm bài. Đối với tất cả thí sinh, nếu làm cả hai phần riêng thì cả hai phần riêng đều không được chấm. - Đối với các môn Ngoại ngữ: đề thi mỗi môn chỉ có phần chung dành cho tất cả thí sinh, ra theo nội dung giống nhau giữa chương trình chuẩn và chương trình nâng cao, không có phần riêng. b) Đề thi dành cho thí sinh học theo chương trình GDTX cấp THPT: được ra theo chương trình GDTX cấp THPT hiện hành, chủ yếu là chương trình lớp 12. Đề thi mỗi môn chỉ có phần chung dành cho tất cả thí sinh, không có phần riêng. 2. Đề thi tuyển sinh đại học, cao đẳng Đề thi được ra theo chương trình THPT hiện hành, chủ yếu là chương trình lớp 12. a) Đối với các môn: Toán, Vật lí, Hoá học, Sinh học, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, đề thi mỗi môn gồm 2 phần: - Phần chung cho tất cả thí sinh, ra theo nội dung giống nhau giữa chương trình chuẩn và chương trình nâng cao; - Phần riêng ra theo từng chương trình: chương trình chuẩn và chương trình nâng cao. Thí sinh chỉ được chọn một phần riêng thích hợp để làm bài; nếu làm cả hai phần riêng thì cả hai phần riêng đều không được chấm. b) Đối với các môn Ngoại ngữ: đề thi mỗi môn chỉ có phần chung dành cho tất cả thí sinh, ra theo nội dung giống nhau giữa chương trình chuẩn và chương trình nâng cao, không có phần riêng. IV. Hình thức thi năm 2009 Hình thức thi của các môn thi trong kỳ thi tốt nghiệp THPT và kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy năm 2009 như sau: 1. Thi theo hình thức tự luận: các môn Toán, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí. 2. Thi theo hình thức trắc nghiệm: các môn Vật lí, Hoá học, Sinh học, Ngoại ngữ (Tiếng Anh, Tiếng Nga, Tiếng Pháp, Tiếng Trung Quốc, Tiếng Đức, Tiếng Nhật). Môn thi của kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2009 (trong số các môn nêu trên) sẽ được thông báo cụ thể vào cuối tháng 3/2009. Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị các đơn vị trong ngành quán triệt và chủ động triển khai chuẩn bị tốt cho các kỳ thi ngay từ đầu năm học. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc hoặc đề xuất, liên hệ với Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục – 30 Tạ Quang Bửu - Quận Hai Bà Trưng – Hà Nội; email: cucktkd@moet.edu.vn; fax (04) 38683700; điện thoại (04) 38683992 để được xử lý kịp thời./. Nơi nhận: - Như trên; - Bộ trưởng (để báo cáo); - TT. Nguyễn Vinh Hiển (để phối hợp chỉ đạo); - Các đơn vị thuộc Bộ (để thực hiện); - Website Bộ; - Lưu: VT, Cục KTKĐCLGD. KT. BỘ TRƯỞNG THỨ TRƯỞNG THƯỜNG TRỰC Bành Tiến Long Nguồn: Từ chuyện đề thi và đáp án khối C, nghĩ về việc dạy, học và thi môn văn Published on 09/24,2008   Thầy giáo VŨ XUÂN TÚC-  HOÀNG PHƯƠNG (thực hiện) Phóng viên  (PV): - Thưa thầy Túc, có thể nói chuyện thi Văn bấy nay đã nghiêm túc đặt ra vấn đề cho cả xã hội, cho ngành giáo dục về việc thi, việc ra đề, việc xây dựng chương trình dạy và học, về quan niệm bộ môn Văn trong hệ thống giáo dục quốc dân. Là một thầy giáo dạy Văn lâu năm, từng phụ trách Tổ Văn của trường chuyên Hà Nội - Amsterdam, xin được hỏi chuyện thầy về những vấn đề này.  Thầy giáo VŨ XUÂN TÚC (VXT): - Càng ngày càng thấy chuyện môn Văn không dừng lại ở một bộ môn nữa rồi. Môn Văn đã trở thành nỗi bức xúc của xã hội, có liên quan đến cái tổng thể, quan hệ trực tiếp đến chất lượng dạy người như thế nào.  Tôi có theo dõi loạt bài viết về chuyện thi Văn trên Văn nghệ Trẻ. Chắc không phải vô tình, Văn nghệ Trẻ cũng đã giới thiệu những đề thi Văn của nước ngoài. Thực ra trước đây người ta cũng có xới lên những vấn đề chung quanh môn học này. Nhưng việc xới lên đó chưa được triệt để, chưa có cái nhìn toàn diện, chưa huy động được toàn bộ xã hội vào cuộc. Đặc biệt là những người có trách nhiệm, những người lãnh đạo giáo dục, lãnh đạo Bộ, các sở, các trường, các thầy giáo, kể cả học sinh là đối tượng mà giáo dục hướng tới. Cần phải cho họ tham gia một cách tích cực và dân chủ vào việc đóng góp ý kiến, để từ đó tạo nên bước ngoặt thật sự cho môn Văn trong chương trình giáo dục phổ thông nước mình ...  PV: - Vấn đề được đặt ra trong một bối cảnh Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đang triển khai công việc xây dựng Chiến lược giáo dục 2008-2020 ...  VXT: - Một sự việc xảy ra một cách bất ngờ. Nhưng từ đó làm loé lên những vấn đề của cả một quá trình từ nhiều năm rồi. Tất nhiên không phải sau đây, năm sau chẳng hạn người ta sẽ làm tốt hơn nhiều, căn bản tốt hơn. Nhưng ít ra chúng ta cũng mong đợi rằng sẽ có sự chuyển động mà sự chuyển động trong ý thức mới là quan trọng. Việc làm cụ thể thì đôi khi phải cân nhắc lộ trình như thế nào cho phù hợp. Nó liên quan đến cả bồi dưỡng đội ngũ nữa.  PV: - Thưa, cần phải bắt đầu từ câu chuyện nhận thức...  VXT: - Nhận thức để cùng nhau làm. Trong việc đi tới nhận thức, cần phải gạt bỏ những yếu tố cá nhân, cần coi đây là trách nhiệm cộng đồng. Có như vậy mới không vướng víu, không né tránh. Nếu vì học sinh mà có xảy ra hiểu nhầm này khác, thì cũng phải chấp nhận. Vấn đề cốt lõi là phải thực sự vì học sinh.  PV: - Nếu so sánh cách ra đề thi môn Văn của ta với cách ra đề thi của nước ngoài, thầy có ý kiến gì?  VXT: - Kiểu ra đề Văn của mình từ trước đến nay có một chỗ mà xem ra có vẻ như chấp nhận được là bám vào những gì học sinh đã được dạy, đã được học. Do đó, khi đi thi, học sinh dễ có cảm giác thế này: các thầy không đánh đố mình. Đó là cái chỗ mà gọi là được thì chưa hẳn đã là được nhưng cái nếp quen rồi . Còn cách ra đề của bạn, như Văn nghệ Trẻ đã giới thiệu, dễ gây cho người ta cảm giác: thì ra bao nhiêu công dùi mài kinh sử, hàng 12 năm trời chả áp dụng được gì vào cái kì thi ấy cả.  Thậm chí có những học sinh không cần học hết 12, mới học lớp 10, 11 có khi là cũng làm được. Nhưng cách ra đề này lại có những cái được khác. Theo tôi, cách làm của người ta rất đáng để mình lưu ý.            Ở ta, ra đề theo kiểu "truyền thống", thì học sinh có vẻ yên tâm. Thầy cũng có vẻ yên tâm là mình có dạy, và nếu học sinh có học thì có thể làm được bài theo kiểu đánh giá của mình. Nhưng cách làm đó thực chất là hạn chế, thậm chí loại trừ sự chủ động sáng tạo, loại trừ cái tạo nên phong cách sống của học sinh để trở thành con người thời hiện đại. Kiểu ra đề thi như thế là kiểu: cái gì thầy đã cho mình thì mình trả lại gần như nguyên xi như thế. Nó không những không hơn gì kiểu thi cử thời phong kiến ngày xưa, mà còn kém hơn ở chỗ: ngày xưa nội dung thi cử của các cụ còn có chỗ đòi hỏi thí sinh phải vận dụng kiến văn của mình để xử lý những tình huống cụ thể.           Theo tôi, vấn đề của chúng ta là: phải hướng tới cách ra đề thi mở, cần những kiểu ra đề thi khác với đề thi bây giờ. Nhưng để làm được điều này thì cần phải có lộ trình, tiến hành từng bước một. Và học sinh phải được chuẩn bị, phải được chuẩn bị thật sự để đi theo cái hướng này. Bộ Giáo dục cần công bố trước định hướng cách ra đề, công bố rằng sẽ thi theo kiểu như thế, để từng bước thầy và trò được làm quen. Phải có những công trình nghiên cứu hẳn hoi để chứng minh rằng nếu tôi ra đề theo kiểu mới như thế  thì tôi sẽ huy động được những gì thầy đã dạy, trò đã học...           Để tạo ra được một sự chuyển biến trong cách dạy, cách học thông qua việc ra đề thi như thế, cần tham khảo cách làm của các quốc gia có nền giáo dục tiên tiến. Nhưng không phải chỉ có thế, môn Văn có thể tham khảo ngay cách học, cách ra đề của các bộ môn bạn (bộ môn Toán chẳng hạn) để xem xem có những điểm gì có thể  tham khảo và học tập được. Hơn thế nữa, cần phân biệt thật rõ: một đề thi học sinh giỏi Văn khác với một đề thi Văn tốt nghiệp phổ thông hoặc một đề thi Văn tuyển sinh đại học. Nếu không cẩn thận, đề tuyển sinh đại học theo cách làm 3 chung như hiện nay sẽ cuốn theo cái hướng đi tìm học sinh có năng khiếu Văn, chứ không phải học sinh có năng lực học đại học nói chung.  PV: - Xin được quay trở lại với kiểu ra đề thi Văn quen thuộc ở ta lâu nay: khuôn đề thi vào vài chục tác giả, vài chục tác phẩm quen thuộc. Học trò, để được điểm, thì phải nói theo thầy, nói theo không phải một mà đến hàng trăm ông thầy mới đúng được đáp án. Mà những tác phẩm, những tác giả thuộc vùng ra đề thì luôn là chuyện cũ, người xưa. Văn chương, tất nhiên không phải mọi cái đã có đều là xưa, đều là cũ, nhưng tựu chung chúng  ta vẫn bắt học trò chú mục vào những cái đã có, không tạo điều kiện cho học trò đối diện với hiện tại và hướng tới tương lai, trong khi đề thi Văn của họ thì làm được việc này...  VXT: - Cái kiểu ra đề của nước ngoài, như Văn nghệ Trẻ đã giới thiệu, nó buộc học sinh phải học: anh học xưa tốt, nhưng anh luôn luôn phải quan tâm đến những vấn đề của hiện tại, tức là anh thực sự học làm người.  Tôi vẫn nói với học trò như thế này: học Văn, trước hết là học làm người. Càng hiểu cuộc sống  bao nhiêu thì càng có điều kiện hiểu Văn bấy nhiêu. Càng hiểu Văn được bao nhiêu thì càng có điều kiện để sống tốt hơn. Tôi dạy nhiều thế hệ học sinh chuyên Văn và có khuyên các cháu như thế. Tất nhiên mong muốn là một chuyện, còn có thực hiên được hay không thì lại là chuyện khác. Tôi thường nghĩ: cái đích của môn Văn nói chung là môn học chủ lực để mà dạy học sinh làm người. Cho nên có những bài thầy trò chúng tôi dành nhiều thì giờ để nói chuyện với nhau về những vấn đề của cuộc sống liên quan tới bài học. Tôi cho rằng trong những trường hợp cụ thể của những giờ Văn cụ thể, cái đó có lợi hơn là dạy cho học sinh rằng bài thơ này cần nắm được giá trị như sau: một là, hai là, ba là...Tất nhiên không phải bài nào cũng thế, nhưng có những bài như thế.  Từ đó mới thấy rằng: thi Văn nói chung là phải nhắm cái đích định hướng cho việc dạy  và học làm người, chứ không phải là thi nhằm cái đích kiểm tra xem đã học sinh nhắc lại được những gì từ những điều ông thầy đã nói, đã viết. Hai cái đó, hai quy trình rất khác nhau, hai quan điểm rất khác nhau. Nói chuyện thi cử, lại nhớ những cuộc thi Học sinh thanh lịch của trường tôi. Trong một cuộc thi như thế, tôi là một trong mấy thầy cô được phân công làm Giám khảo. Trong phần thi "ứng xử" của cô học sinh là con một nhà báo nổi tiếng, thay vì những câu hỏi kiểu:  "Theo em thì cái nết có đánh chết cái đẹp hay không?" - kiểu câu hỏi giống như một cô phóng viên hỏi một chiến sĩ Trường Sa: "Đồng chí sống ở Trường Sa thì phải nhớ quê lắm nhỉ?" (Cười rất to!!!), tôi ra tình huống kiểu khác: "Trước mặt chúng ta là một bộ ấm chén, một hộp trà, một phích nước. Em hãy pha trà, mời nước các thầy cô trong Ban Giám khảo". Đơn giản thế thôi...   PV: -  Nhân đây xin thầy kể cho nghe một vài kỷ niệm về việc dạy văn và học văn...  VXT: - Chẳng hạn, có cái chuyện thế này... Ngày ấy, tôi dạy học ở Hà Bắc... thời chiến tranh... Tôi thấy các thầy cô thường chủ quan trong việc ra đề, chấm bài, chữa bài cho học sinh. Đại khái, cứ nghĩ rằng với cái đề này thì rất cần phải làm theo như thế này mới là đúng. Tôi rủ mấy thầy cô trong tổ Văn: anh em ta cùng thử làm một bài văn với cái cái đề này, xem chúng ta có gặp nhau ở điểm nào không. Kết quả: trong bài làm của anh em chúng tôi có rất nhiều ý khác nhau. Tôi không nói bài làm của ai là đúng, của ai là sai. Tôi chỉ muốn chứng minh là chính chúng ta - những người dạy  học sinh, ra đề cho học sinh, chấm bài cho học sinh... mà chúng ta còn lệch nhau...            Trong rất nhiều trường hợp, khi ra đề cho học sinh trên lớp, khi học sinh làm bài, tôi cũng ngồi thử làm. Và nhận ra rằng: chính mình, trong 2 tiết, làm ra một bài văn cũng không hề dễ dàng, nhiều trường hợp cũng không hơn gì học trò! Đấy là mình là người ra đề, biết  rõ yêu cầu của người ra đề! Lẳng lạng thu bài của học sinh. Khi trả bài, việc đầu tiên, tôi thú thực với học sinh là thầy cũng làm bài cùng với các em nhưng thầy không làm xong, để cho học sinh thấy, thầy đánh giá rất công bằng. Có lẽ chúng ta cũng nên  kể cho nhau nghe xem một số nước họ dạy Văn như thế nào, họ học Văn và thi Văn như thế nào? Cán bộ giáo dục của ta đi tham quan, học hỏi nước ngoài có ít đâu?!  Kể cả các nước tưởng như không có truyền thống về văn chương như Singapore chẳng hạn, vậy mà họ vẫn có môn Văn. Vậy môn Văn của họ có gì?           Càng ngày càng thấy cần phải dạy sao cho học sinh học được cách  làm người - chủ động, sáng tạo và nhân văn. Điều này là đúng, nhưng mà khó, rất khó. Chính vì khó như thế cho nên cần phải huy động nhiều công sức, tâm trí của rất nhiều người.  Có làm được như thế, thì việc "mỗi ngày  học sinh đến trường là một ngày vui" mới trở thành hiện thực. Có làm được như vậy, thì giờ học Văn mới không còn là nỗi khiếp sợ, không còn là sự nhàm chán, mới trở thành giờ học mà các em chờ đợi, đón đợi. Một giờ Văn vừa có điểm chung với những giờ Toán, nhưng đồng thời lại có cái khác với một giờ Toán.  PV: - Xin cảm ơn thầy!

File đính kèm:

  • docCau truc de thi va hinh thuc thi tot nghiep THPT va tuyen sinh DHCD nam 2009 .doc
Giáo án liên quan