Luận văn Tìm hiểu và khám phá tác phẩm “Bụi trần lắng đọng”

A Lai là một nhà văn người Tây Tạng, tác phẩm của ông tập trung phản ánh về quê hương nơi “chôn rau cắt rốn” của mình với những nét phong tục văn hóa “huyền bí và lãng mạn”. “Bụi trần lắng đọng” là một trong những sáng tác đó. Sau khi được in ấn, tác phẩm chiếm được nhiều sự quan tâm của người đọc cũng như những nhà nghiên cứu, phê bình. Ngay sau 2 năm được in (2000), tác phẩm được trao giải thưởng Mao Thuẫn danh giá ở Trung Quốc, được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau, dựng thành phim, thời báo Los Angeles bình chọn “Bụi trần lắng đọng” là “cuốn sách của năm”, nó cũng lọt vào danh sách chung kết giải Kiriyama Những thành công đó đã phần nào thôi thúc chúng tôi lựa chọn tác phẩm này để nghiên cứu.

doc24 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1351 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm hiểu và khám phá tác phẩm “Bụi trần lắng đọng”, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU 1 . Lí do chọn đề tài A Lai là một nhà văn người Tây Tạng, tác phẩm của ông tập trung phản ánh về quê hương nơi “chôn rau cắt rốn” của mình với những nét phong tục văn hóa “huyền bí và lãng mạn”. “Bụi trần lắng đọng” là một trong những sáng tác đó. Sau khi được in ấn, tác phẩm chiếm được nhiều sự quan tâm của người đọc cũng như những nhà nghiên cứu, phê bình. Ngay sau 2 năm được in (2000), tác phẩm được trao giải thưởng Mao Thuẫn danh giá ở Trung Quốc, được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau, dựng thành phim, thời báo Los Angeles bình chọn “Bụi trần lắng đọng” là “cuốn sách của năm”, nó cũng lọt vào danh sách chung kết giải Kiriyama… Những thành công đó đã phần nào thôi thúc chúng tôi lựa chọn tác phẩm này để nghiên cứu. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Giới thuyết về kết cấu tác phẩm văn học Có nhiều khái nhiệm về kết cấu, nhưng nội dung chính của những khái niệm đó tập trung vào một số vấn đề sau: Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”, kết cấu là: “toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm”, là “phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật” [32,tr156]. Cũng theo “Lí luận văn học” thì: “kết cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình [47,tr152-153]. Chúng tôi nghiên cứu kết cấu trên hai phương diện: Thứ nhất, “kết cấu được mở rộng theo chiều ngang – được xem xét ở bình diện quy luật tổ chức thể loại: kết cấu tự sự, kết cấu kịch, kết cấu trữ tình”. Hay còn được gọi là kết cấu bề mặt Thứ hai, “Kết cấu được xem xét ở chiều dọc, tức là nghiên cứu mối quan hệ quy định và tùy thuộc của các cấp độ tác phẩm như một chỉnh thể. Nó tồn tại ở hai cấp độ cơ bản: cấp độ hình tượng và cấp độ trần thuật” [39,tr178-179]. Từ những nội dung chính của khái niệm kết cấu mà chúng tôi đưa ra ở trên, trong luận văn này, chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu kết cấu tác phẩm “Bụi trần lắng đọng” của nhà văn A Lai theo chiều dọc và ở cấp độ hình tượng. Giới hạn phạm vị nghiên cứu không có nghĩa là chúng tôi hoàn toàn bỏ qua những cấp độ khác của kết cấu, khiên cưỡng “dồn ép” tác phẩm vào nội dung lí luận mình đã lựa chọn. Trong quá trình nghiên cứu, tìm tòi chúng tôi vẫn sử dụng mọi nội dung của lí luận về kết cấu. Tất cả, nhằm chỉ ra được đặc trưng cơ bản, đặc sắc trong sáng tác của nhà văn A Lai mà ở đây là trong tác phẩm “Bụi trần lắng đọng”. 2.2. Những nghiên cứu về “Bụi trần lắng đọng” 2.2.1. Tình hình nghiên cứu tác phẩm ở Việt Nam Theo sự nghiên cứu của chúng tôi cũng như ý kiến của dịch giả Sơn Lê thì “Bụi trần lắng đọng” từ khi được in ở Việt Nam (2008) đên này chưa có công trình nghiên cứu nào về nó. 2.2.2. Tác phẩm trên thế giới - Ở Trung Quốc: Có phần sôi động hơn và đáng chú ý nhất là một bài viết của tác giả Chu Tây Sơn đã được nhà xuất bản “Văn nghệ Bách Hoa Châu” in - 1999 với tiêu đề “Bàn về sắc thái lãng mạn và thần bí trong Trần ai lạc đinh” (评 论 集 再论《尘埃落定》的浪漫神秘色彩). Trong quá trình triển khai luận văn này chúng tôi tìm được một luận văn thạc sĩ của tác giả Lí Tĩnh (李静) nghiên cứu tại trường “Đại học Northwestern” trong năm 2008. Trong công trình có tên của mình là (新体小说) nhà nghiên cứu đã rất chú ý đến nghệ thuật xây dựng nhân vật Ngốc trong tác phẩm. -Trên thế giới: “Trần ai lạc định” được dịch sang tiếng Anh với nhan đề Red Poppies (Anh túc đỏ) do hai dịch giả nổi tiếng là Howard Goldblatt and Sylvia Li-chun Lin. Hai dịch giả này đã từng được Hiệp hội Dịch giả Văn học Hoa Kỳ trao giải Bản dịch của năm. Và được in ấn trên 34 quốc gia. Anh quốc vừa kí hợp đồng với tác giả để có được bản quyền dựng thành phim với tựa đề “Chiến tranh hoa anh túc”. Những bài viết và nhận định về tác phẩm được đăng rải rác trên các trang wed [68]. Tổng hợp lại chúng tôi có những lời nhận định của các nhà báo sau: Michiko Kakutani (New York Time); Helen Mitsios (Philadelphia Inquirer); Donna Seaman (Booklist). 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu kết cấu “Bụi trần lắng đọng”, luận văn tập trung vào mục đích khám phá tư tưởng kết cấu; hệ thống nhân vật và nguyên tắc xây dựng hình tượng nhân vật; sự sắp xếp mối quan hệ không gian – thời gian; ngôn ngữ nghệ thuật; sự đan xen của các thể loại văn học. Từ đó khẳng định thành công và hạn chế của tác phẩm; đồng thời, mở ra hướng tiếp cận hiệu quả cho những ai quan tâm đến tác phẩm “Bụi trần lắng đọng”. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn sẽ tiến hành nghiên cứu các phương diện: tư tưởng kết cấu; kết cấu nhân vật; kết cấu không gian thời gian; đối thoại, độc thoại; sự đan cài các yếu tố ngoài cốt truyện, cũng như những tác nhân bên ngoài có ảnh hưởng tới nội dung tư tưởng của tác phẩm. 5. Đóng góp mới, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Qua luận văn này chúng tôi mong được đem đến cho người đọc cách nhìn sâu hơn về tác phẩm đặc biệt là từ góc độ kết cấu. Việc chỉ ra nghệ thuật xây dựng kết cấu tác phẩm dựa trên mối liên hệ “đồng cấu” của triết lí Mật Tông, là một tìm tòi khá mới mẻ của tác giả luận văn. Chính dụng ý nghệ thuật đó đã tạo nên những thành công to lớn cho nhà văn A Lai. Chính việc phát hiện này mà luận văn có thể góp thêm trong những công trình đi tìm hiểu và khám phá tác phẩm “Bụi trần lắng đọng” trên thế giới và ở chính quốc, tăng cường sự hợp tác giao lưu văn hóa Việt Nam – Trung Quốc trên con đường hội nhập. 6. Phương pháp nghiên cứu Để đảm bảo đạt được mục đích nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: - Phương pháp nghiên cứu liên ngành - Phương pháp nghiên cứu tác giả - Phương pháp hệ thống - Các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, thư mục tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương một : Tư tưởng kết cấu trong Bụi trần lắng đọng Chương hai : Tổ chức kết cấu về hệ thống nhân vật Chương ba : Những phương tiện, phương thức của kết cấu B. NỘI DUNG Chương 1 : TƯ TƯỞNG KẾT CẤU TRONG “BỤI TRẦN LẮNG ĐỌNG” 1. Tây Tạng huyền bí và văn hóa – xã hội. 1.1.Vị trí địa lí Tây Tạng (tiếng Tây Tạng: བོད་, Bod hay pö theo cách nói vùng Lhasa; chữ Hoa: 西藏) nguyên là một lãnh thổ và là một quốc gia độc lập ở Trung Á và là nơi cư trú của người Tây Tạng. Với độ cao trung bình vào khoảng 4.900m, vùng đất này thường được gọi là “Nóc nhà của thế giới”. “Bắc giáp cao nguyên Mạc Mễ Nhĩ của Tân Cương, gối đầu lên sơn mạch của sơn hệ Côn Lôn, nam tiếp giáp sơn mạch của dãy Hy Mã Lạp Sơn, ở giữa nằm vắt ngang sơn mạch của dãi sơn hệ Võng Đê Tư, còn có sơn mạch Đường Cổ Lạp chạy xuống hướng đông để gặp Thanh Hải và Tây Khương” [74]. Có thể nói Tây Tạng là sự liên kết của các sơn hệ lớn nhất thế giới tạo thành. Nhưng theo thống kê của Học hội Địa lý Thế giới, “thì hiện nay vị trí Tây Tạng nằm từ 78 đến 96 độ kinh đông, và từ 27 đến 35 độ bắc tuyến. Chiều dài tối đa của Tây Tạng từ đông sang tây đo được là 701, 3 dặm Anh, nơi rộng nhất tính từ nam ra bắc đo được là 499, 3 dặm Anh. Tổng diện tích của Tây Tạng là 308.713 dặm vuông Anh. Tóm lại, thì tổng diện tích chính xác của Tây Tạng là 469.294 dặm vuông Anh” [30,tr31]. 1.2. Lịch sử Tây Tạng có một lịch sử phát sinh và phát triển hoàn toàn độc lập với lịch sử của Trung Hoa. Nó tồn tại cả trong truyền thuyết, trong kinh Phật và những nghiên cứu khoa học về nhân chủng học. Về nguồn gốc lịch sử, có nhiều thuyết về Tây Tạng, kinh Mahabharata, cho rằng: vị vua cai quản đầu tiên của lãnh thổ này đến từ Ấn Độ, trong bối cảnh chiến tranh. “Vị vua đầu tiên của quốc gia này có tên Nyatri Sangpo, theo truyền thuyết Nyatri giáng trần bởi một cái thang, trên đỉnh núi cao nhất của thung lũng Yarlung, thuộc thị trấn Tsetang ngày nay, thời điểm của năm 400 trước công nguyên cho đến 100 năm trước công nguyên. Vị vua thứ 9 có tên có tên Pudegungyal đã phổ biến đạo BÔN (Bổng giáo)”, Theo những nhà nhân chủng học thì người Tây Tạng được chia thành ba đại tộc. 1/ Tạng Ba, còn gọi là Bác Ba (Bodpa), đây là tộc người Tạng đang sinh sống tại bản địa Tây Tạng. Tạng Ba cũng là tên gọi của những nông dân và dân chăn nuôi ở bắc bộ Nhã Lỗ Tạng, Bố Giang, Hà Ốc. 2/ Khương Ba, xưa gọi là Khách Mộc (Kham), ý của chữ Khách Mộc là chỉ tộc người Tạng sinh sống  ở Tây Khương, người Khương Ba có thân hình cao to khoẻ khoắn, do đó họ thường được chọn làm cảnh vệ cho các Lạt Ma tại cac ngôi đại tự, nơi cư trú chủ yếu của họ được phân bố tại Tây Khương và cả những người di cư đến Nhã Lỗ Tạng, Bố Giang, Hà Ốc. 3/ An Đa, cựu xưng là Đường Cổ Đặt cũng còn gọi là A-Mộc-Đa (Amdo). A Mộc Đa là tên gọi phổ thông của người Mông Cổ dùng để gọi người Tây Tạng. Về sau tên gọi A Mộc Đa trở thành tiếng chuyên dùng để chỉ tộc người Tạng sinh sống ở các tỉnh như Cam Túc, Thanh Hải, Tứ Xuyên [30,tr33] Từ năm 1959, Tây Tạng đã trở thành vùng tự trị, đặt dưới sự kiểm soát của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. 1.3. Nền văn hóa đậm chất Phật giáo Phật giáo Ấn Độ được truyền vào Tây Tạng theo hai con đường. Một là từ Ấn Độ theo chân của các nhà sư truyền đạo. Thứ hai là do công chúa Vân Thành con vua Đường Huyền tông đem đến từ đại lục Trung Hoa theo trên con đường “liên hôn” của mình với vị vua của Tây Tạng. Phật giáo được truyền thừa vào Tây Tạng nó đã chiếm được cảm tình của và sự ủng hộ của những người cầm quyền kết hợp với Bổng giáo bản địa sản sinh ra một chi nhánh khác của Phật giáo Ấn Độ, đó là Mật Tông. Tư tưởng cơ bản của giáo phái Mật tông dựa trên nội dung cơ bản của dòng Đại thừa. Nhưng sau khi du nhập cũng như trong quá trình hình thành, nó có những biến đổi để phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh con người nơi đây. Cơ sở triết học và tôn giáo của việc hình thành kết cấu tác phẩm 2.1. Triết lí Phật giáo Mật Tông Với những quốc gia theo đạo Phật, chúng ta có thể thấy nét văn hóa ứng xử rất đặc trưng và độc đáo. Vì họ luôn đặt niềm tin vào một thế lực siêu nhiên nào đó bên ngoài vũ trụ, nơi những phật tử gửi gắm ước mơ và khát vọng giải thoát. Khi đem so sánh tư tưởng giữa những quốc gia này với phương Tây, chúng ta sẽ thấy: ở phương Tây là sự ảnh hưởng của mặc cảm tội lỗi, nền văn hóa đó có nguồn gốc từ đạo Kitô, rồi từ đó mới có được các trường phái tâm lí học để cho ra đời Kafka, Joyce, Eliot, phân tâm học. Con người tạo ra những sai phạm bởi ẩn ức tội lỗi của tính dục được di truyền qua “vô thức tập thể”. Xuất phát từ Ấn Độ, Phật giáo Tây Tạng mang trong mình nội dung cơ bản. Với những tư tưởng và quan niệm về cái tất yếu “sinh, lão, bệnh, tử”, về “tham, sân, si”, nên dẫn đến những mê lầm, về Niết Bàn. Và cuối cùng là chi ra một một con đường dẫn tới sự chấm dứt đau khổ. Những con số mang ý nghĩa biểu trưng tư tưởng của Phật như: 12. 49… 2.2. Những quan niệm về vũ trụ và nhân sinh của người Tạng Dựa trên những lí luật của Mác và Enghen cũng như những trường phái “phân tâm học”, chúng tôi chỉ ra những nét tính cách dân tộc đặc trưng của người Tây Tạng trong quan niệm về vũ trụ và nhân sinh. Về vũ trụ: tư tưởng chi phối họ là tư tưởng của Phật giáo Mật Tông. Đó là thế giới của siêu nhiên đối lập với thế giới của bản ngã. Những gì là siêu nhiên chúng ta không nắm bắt và chế ngự được. Chỉ có những vị tăng nữ, những Lạt Ma và Phật sống đứng ra giúp mọi người chống và khắc chế những thế lực siêu nhiên thần bí đó. Về nhân sinh: người Tạng đề cao bản năng tự nhiên của con người. Sống để thỏa mãn cái bản năng đó ở mức cao nhất. Đó là bản năng sống, bản năng tính dục, bản năng xâm hại. Và họ tin vào những pháp tu mà Mật Tông đưa ra cùng với những Lạt Ma đưa họ đến sự giải thoát. “Con đường đời chiêm nghiệm và giải thoát” Việc xây dựng kết cấu tác phẩm theo quan niệm “con đường đời chiêm nghiệm, giải thoát” thể hiện tính đa tầng trong ý nghĩa. Đó là những con đường cụ thể được hình thành bởi nhu cầu tồn tại và xâm hại của con người, phụ vụ mọi mục đích của con người: như đường làng, đường phố, đường đến pháp trường, đường ra biên giới…. Những con đường này gắn với không gian cộng đồng người Tạng và xuất hiện nhiều lần nhưng được sử dụng với ý đồ nghệ thuật nhằm thể hiện tâm trạng, nỗi niềm của nhân vật, những diễn biến và sự kiện của tác phẩm. Một con đường khác cho số phận con người chính là những pháp tu của Mật Tông – con đường của những pháp tu. Nó được ví như cây kim chỉ nam giúp con người ta đến được với sự giải thoát. Cuối cùng con đường mang ý nghĩa của số phận mỗi cuộc đời. Con đường này không hiện hữu giữa cuộc đời, không cảm nhận được bằng giác quan. Nó chi phối số phận và tạo ra những sự khác biệt cho mỗi số kiếp. Con đường số phận tuân theo sự vận hành của cỗ máy thời gian của những điều tất nhiên và ngẫu nhiên. Qua tác phẩm, nhà văn muốn khẳng định số phận là sự lựa chọn ngẫu nhiên của mỗi sinh mạng, đó là điều không thể cưỡng lại được. Nhưng không phải vì thế mà phải tuân theo số phận, con người ta vẫn có thể khám phá và không ngừng cố gắng tạo ra cuộc sống tốt hơn của số phận. Và ít nhất được đối diện với sự giải thoát tìm một con đường khác cho riêng mình. Trên mỗi con đường luôn có điểm bắt đầu và kết thúc, chỉ khác điểm xuất phát và kết thúc của mỗi cuộc đời là khác nhau mà thôi. Không có con đường nào là vô cùng vô tận trên thế gian. Cũng không có con đường duy nhất cho tất cả. Điều đó tạo ra sự đa dạng cho số phận mỗi cuộc đời khác nhau. *Tiểu kết chương 1 Trong chương 1, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu phần nào đó về nhà văn A Lai và tác phẩm “Bụi trần lắng đọng” (Trần ai lạc định) của ông cũng như đất nước con người Tây Tạng trong khả năng có thể của mình. Từ đó soi vào trong tác phẩm “Bụi trần lắng đọng”, nhằm chỉ ra được tư tưởng “con đường đời chiêm nghiệm và giải thoát” là tư tưởng cơ bản, quan trọng nhất trong việc xây dựng nên kết cấu của tác phẩm “Bụi trần lắng đọng” của nhà văn. Đây là những nhận xét ban đầu mang tính chất là cơ sở, triết lí chung để chúng tôi triển khai tìm hiểu và phân tính hệ thống nhân vật cũng như những phương thức phương tiện thể hiện tác phẩm của nhà văn ở những chương sau. Chương 2 : TỔ CHỨC KẾT CẤU VỀ HỆ THỐNG NHÂN VẬT 1. Nhân vật và hệ thống nhân vật 1.1. Khái niệm nhân vật Cũng có rất nhiều những khái niệm của các nhà nghiên cứu và lí luật về nhân vật, chúng tôi xin rút lại những nét chính sau: Nhân vật là hình tượng được nói đến trong tác phẩm nhằm để chỉ hình tượng con người. Hình tượng đó được xây dựng bởi những thủ pháp nghệ thuật, phục vụ cho tư tưởng nhà văn nhưng vẫn tập trung phản ánh con người trong thế giới này. 1.2. Hệ thống nhân vật Mọi tác phẩm đều tồn tại rất nhiều nhân vật, những nhân vật này đều có mốt quan hệ qua lại trực tiếp hoặc gián tiếp trong hệ thống để thể hiện tư tưởng của nhà văn. 2. Hệ thống nhân vật trong Bụi trần lắng đọng 2.1. Hệ thống nhân vật thống trị 2.1.1. Cơ sở hình thành Phật giáo có vai trò rất quan trọng trong việc chi phối tư tưởng người dân Tạng. Tầng lớp thống trị hiểu được điều này, chúng đã tập trung quyền lực và tôn giáo trong tay một người đứng đầu để chi phối và đàn áp người dân. Qua lịch sử thì chế độ chính trị chính – giáo hiệp nhất này có những lúc hợp, lúc tan. Đến cuối đời nhà Thanh thì nó phân chia rõ giữa tôn giáo và chính trị. Chế độ Thổ ti là chế độ gia đình trị của mỗi “lãnh chúa” trên lãnh địa họ được phân. Trong chế độ này tồn tại những vấn đề mang tính khu biệt với thế giới bên ngoài về chính trị, kinh tế, tín ngưỡng v…v…. 2.1.2. Đặc điểm giai tầng thống trị Giai tầng thống trị - minh chứng cho một chế độ bạo tàn về quyền lực Giai tầng thống trị - dục vọng và sự ham muốn tột cùng Sự cô đơn nơi tâm hồn và những kết thúc bi thảm 2.2. Hệ thống nhân vật bị trị 2.2.1. Những kẻ tay sai và người nô lệ Như luật lệ đã quy định những kẻ vi phạm sẽ bị biết thành “nông nô mất tự do”. Khi trở thành nông nô mất tự do thì số phận của họ tương đương với những món hàng. “Nông nô là gia súc, có thể mua bán, có thể sai khiến tùy ý” [1,tr22]. Những người nô lệ sống không bằng súc vật nhưng họ luôn cam chịu và chấp nhận số phận như một cái gì đó đã chi phối họ. Cái đó chính là tư tưởng của Phật giáo Mật Tông. 2.2.2. Nhân vật hiện thân của tôn giáo Chế độ Thổ ti xét về cách tổ chức xã hội, nó chia những người như “tăng lữ, nghệ nhân làm nghề thủ công, thầy mo, nghệ nhân hát xướng”, thành một giai tầng. Giai tầng này nếu chịu yên phận thì Thổ ti có phần “nới tay hơn”. Còn không thì bất cứ lúc nào “Thổ ti Mạnh Kì cũng có thể trị tội”, nhẹ thì “cắt lưỡi, bị đau đớn không thể nào tả nổi rồi mới chết” [1,tr23], nặng thì chặt đầu làm gương. Chính lí do đó mà chúng tôi xin xếp những nhân vật này vào giai tầng bị trị. 2.2.3. Người dân Tây Tạng trong dòng chảy lịch sử - Người dân với niềm tin tôn giáo trong lịch sử Người Tây Tạng gọi nó là quốc giáo của họ. Danh từ chính xác nhất là Lạt Ma giáo (Lamaisme) mà người Tây phương đã từng biết. Tín ngưỡng của người Tây Tạng khác biệt với Phật giáo ở chỗ nó căn cứ trên niềm hy vọng, còn Phật giáo đối với họ như một tôn giáo yếm thế, và hoàn toàn tiêu cực. Sự tôn sùng của người dân, cộng với việc giai cấp thống trị dùng quyền lực để bóp méo, xuyên tạc tư tưởng tôn giáo đã phần nào khắc chế niềm tin và nhận thức của dân chúng. Con người Tây Tạng luôn tin vào vòng luân hồi - nhân quả. Hình tượng người dân trong tác phẩm Những người dân là nạn nhân của áp bức bóc lột, của sự phân biệt đẳng cấp, của bất công nhưng vẫn âm thầm chịu đựng vươn lên với niềm hi vọng mãnh liệt vào ngày mai, vào số phận. Và rồi qua sự sàng lọc của thời gian, sự ảnh hưởng đó kết hợp với khí chất của con người sống ở cao nguyên khắc nghiệt này đã trở thành nét “tính cách dân tộc” đặc trưng. 2.3. Hệ thống nhân vật nữ 2.3.1. Những người phụ nữ có địa vị Một nét độc đáo trong hệ thống giai tầng thống trị nơi đây, đó là tồn tại cả nữ Thổ ti. Bà Thổ ti Nhung Cống là một ví dụ. Nhân vật này phản ánh chế độ mẫu hệ vẫn còn tồn tại nơi đây đóng một vai trò không hề nhỏ. Tiếp đến là bà người Hán vợ Thổ ti Mạnh Kì, bà vợ ba Ương Tống Mạnh Kì, vợ của Ngốc – Ta Na… Những người phụ nữ bên cạnh những Thổ ti đều rất xinh đẹp, đi song song với sự xinh đẹp đó là những âm mưu, những toan tính của sự chiếm đoạt quyền lực và địa vị. Những cuộc chiến “ngầm” cũng không kém phần sôi nổi nhưng những cuộc chiến giành quyền lực của các Thổ ti nam. 2.3.2. Những người phụ nữ không có địa vị Bên cạnh người phụ nữ có địa vị trên có hành loạt những người con gái dân tộc Tạng, họ là nạn nhân của một chế độ bất bình đẳng, tham tàn và dục vọng. Những cô gái ở lứa tuổi “trăng tròn” dần trở thành những người tình một buổi, một đêm của hai thằng con nhà Mạnh Kì. Và rồi họ trở thành món đồ chơi để kẻ thống trị: “đùa nghịch và làm tình ngay trong lều” [1,tr152]. Quan niệm hiến dâng cho người có quyền đã ăn sâu trong cách ứng xử của người nơi đây để rồi nó trở thành thói quen. Khi Ngốc cứu giúp những người dân trên lãnh địa La Tuyết Ba họ cũng đem một “cô gái của một bản từ bỏ Thổ ti La Tuyết Ba” [1,tr292], để đền đáp công lao Ngốc làm cho họ. Có lẽ phần nào đó trong phong tục và quan niệm được ngủ với những người “quan trọng” là một ân sủng. Nhưng dù sao ở trong trái tim họ vẫn có khát vọng về tình yêu “Dù là một đêm nhưng phải là người yêu em thật lòng…” [1,tr153] Xây dựng hình tượng những nhân vật này, nhà văn muốn đưa ra những quan niệm của phật giáo nơi đây, những khát vọng giải thoát. Ngòi bút của ông thấm đẫm tinh thần nhân đạo, nhân văn. Đó là tiếng nói đồng tình ủng hộ và bênh vực một nửa của thế giới. 2.4. Nhân vật người kể chuyện Nhân vật người kể chuyện được coi là “hình thái của hình tượng tác giả trong tác phẩm văn học nghệ thuật, là người mang tiếng nói, quan điểm tác giả trong tác phẩm văn xuôi” [32,tr221]. 2.4.1. Người kể chuyện – tác giả 2.4.1.1. Người kể chuyện – tác giả với mục đích khẳng định và quảng bá bản sắc dân tộc Tạng với thế giới bên ngoài. Khi đọc tác phẩm không ít nhà nghiên cứu đã nhận định, tác phẩm là: “… một cuộc hành trình tuyệt diệu đến một không gian khác, một thời gian khác, một sự quan sát nghiêm khắc về quyền lực, sự tàn ác và suy đồi” (Helen Mitsios tờ Philadelphia Inquier). Nhà báo Julia Lovell của Thời báo Phụ trương Văn học nhận xét: “A Lai đã đem đến cho độc giả phương Tây thấy một bức tranh phối cảnh mới, khơi gợi suy nghĩ của họ về lịch sử Tây Tạng” [75]. Nét đặc trưng về thiên nhiên của Tây Tạng được hiện lên qua không gian thảo nguyên rộng lớn, tươi đẹp;“thảm cỏ mùa xuân sao mà mềm mại!” [1,tr303]; Những con đường thảo nguyên (…), những con đường mùa xuân nở đầy hoa đỗ quyên [1,tr221]. Trong không gian của dãy Himalaya hùng vĩ: “trên mặt đất một màu xanh vô tận. Phía nam là núi non trập trùng, phía bắc là thảo nguyên mênh mông” [1,tr261]. Và rồi để con người trở về với tự nhiên có lẽ thuận hơn và phù hợp với tư tưởng của Mật Tông. Bởi thế, hơn đâu hết người Tạng vẫn tuân theo quy luật của tạo hóa để sinh tồn và phát triển một cách tự nhiên nhất. Điều đó được thể hiện qua mối quan hệ con người là sự phân biệt đẳng cấp đến nghiệt ngã, cũng như bản năng tính dục và xâm hại được giữ ở mức độ “tự nhiên” nhất. Người con gái và con trai bình đẳng trong quan hệ tình dục. Trinh tiết không được coi trọng nơi đây. Người đọc còn được biết đến một xã hội Thổ ti tàn bạo và quyền lực với việc họ duy trì chức vụ Đao phủ trong lãnh địa của mình. Người đao phủ làm nhiệm vụ duy trì trật tự xã hội, hành hình những người có tội, hoặc vi phạm luật lệ của Thổ ti. Bình thản trước cái chết để tin vào sự giải thoát tốt hơn đó cũng là nét đặc trưng trong tư duy người Tạng khi họ bị chi phối bởi tư tưởng giải thoát của Mật Tông, đó là văn hóa. 2.4.1.2. Người trần thuật trong vỏ bọc một người Ngốc. Câu chuyện được kể lại bởi một trong những người con nhà Mạnh Kì. Anh ta được coi là Ngốc vì anh ta nhìn mọi vật bình thường không giống như những người bình thường, và nhất là luôn tỏ ra ngô nghê dưới mắt mọi người, để rồi từ đó mọi người cũng có một cái nhìn cố định và gọi anh là Ngốc. Nhưng kì thực ẩn sau vẻ ngây ngô ấy là một con người thông minh hơn cả người thông minh. Sự sáng tạo bất ngờ thú vị và khá mới mẻ của nhà văn trong việc xây dựng hình tượng người kể chuyện là một nhân vật Ngốc đã đem lại thành công không chỉ cho tác phẩm này mà nó còn được đánh giá là đã tạo ra một hình tựng mới mẻ cho nhân vật người dẫn truyện của lí luận văn học đương đại về nhân vật này. Sự ngốc nghếch của anh ta thực ra chỉ là sự “lừa phỉnh” mọi người mà thôi, đánh lừa cả người đọc lẫn những nhân vật có mối quan hệ xung quanh, “nhằm thực hiện những âm mưu về quyền lực, những tham vọng và ham muốn, là tình yêu lòng hận thù và sự ghen ghét, để rồi biến cuộc đời như như một cuộc khởi hành theo đuổi cuộc sống và cái chết” [75]. *Tiểu kết chương 2 Tác phẩm viết về vùng đất Tây Tạng trong lịch sử, vì thế mỗi nhân vật nơi đây trong địa vị của mình đều mang dấu ấn của tư tưởng trên. Từ Thổ ti, người có điạ vị cao nhất trong mỗi lãnh địa, đến người nô lệ, họ đều có con đường riêng cho số phận. Trên con đường đó họ luôn đấu tranh với xã hội bên ngoài và dục vọng trong bản thân. Nhưng không phải ai cũng chiêm nghiệm đầy đủ nhất hành trình của số phận. Con đường đời chiêm nghiệm và giải thoát không chỉ dành riêng cho mỗi số phận nào vì thế mà nhân vật trong “Bụi trần lắng đọng” các nhân vật cũng bị “mờ hóa” là những mảnh đời biểu trưng không thuộc về một con người cụ thể nào. Chương 3: NHỮNG PHƯƠNG THỨC CỦA KẾT CẤU 1. Không gian, thời gian nghệ thuật Không gian và thời gian là phương thức tồn tại của thế giới vật chất, nó đi vào thế giới nghệ thuật như một yếu tố tất yếu gắn liền với cuộc sống được phản ánh. Cùng với thế giới khách quan được phản ánh trong tác phẩm, không gian và thời gian nghệ thuật cũng đi vào sáng tác của nhà văn. Chúng được soi sáng bởi tư tưởng, tình cảm của nhà văn để trở thành một hiện tượng nghệ thuật. Vì vậy, kết cấu tiểu thuyết bao giờ cũng gắn liền với việc tổ chức hệ thống nhân vật trong không gian và thời gian. 1.1. Không gian thời gian hiện thực xã hội Không gian hiện thực Không gian hiện thực trong “Bụi trần lắng đọng” được miêu tả tỉ mỉ và rõ nét. Đó là những khoảng không bao phủ lấy nhân vật, mở ra với sự trưởng thành của nhân vật. Không gian gắn với nhân vật trở nên một phương tiện nghệ thuật để thể hiện ý đồ của tác giả về nhân vật của mình. Đó là nơi nhân vật sống, hoạt động, suy nghĩ, đi lại, nói năng, ăn uống, bàn bạc đưa ra những quyết định có tính bước ngoặt với thời đại (…) Nó được cụ thể bằng việc miêu tả màu sắc, đường nét, hình khối, bố trí các vị trí khác nhau như: gần – xa, rộng – hẹp, cao – thấp, phải – trái, trên – dưới v…v…. Dựa trên cấu trúc không gian nghệ thuật, chúng tôi phân chia không gian hiện thực ở đây ra làm hai: không gian cơ ngơi nhà Mạnh Kì và không gian thảo nguyên. Hai mảng không gian đó vừa thống nhất vừa đối lập. Thời gian hiện thực Thời gian hiện thực trong tác phẩm xuất hiện với tần suất lớn nhất gắn liền với các nhân vật, sự kiện của tiểu thuyết. Đó là thời gian của sự luân chuyển bất tận của tạo hóa (xuân, hạ, thu, đông), thời gian sinh mệnh của mỗi cá nhân, thời gian sự kiện mà người ta có thể đếm được (ngày, tháng, sáng, trưa, chiều, tối…. tất cả được biết qua thời gian sinh hoạt của mỗi nhân vật). Mỗi nhân vật bao giờ cũng xuất hiện, hoạt động, nói năng trong một không gian nhất định vào một thời điểm xác định. Nhưng mốc thời

File đính kèm:

  • docT=m t_t.doc