Trong cuộc sống con người luôn lu6n phải giao tếp với nhau . Sự giao tiếp diễn ra bằng nhiều hình thức : ngôn ngữ , điệu bộ cử chỉ, hội hoạ , âm nhạc,. . Trong các hình thức trên , hình thức giao tiếp bằng ngôn ngữ là hình thức quan trọng nhất.
Ðể hiểu nhau con người luôn phải nắm bắt một cái gì đó trong khi giao tiếp. Cái gì đó , đó chính là đối tượng nghiên cứu của ngữ âm học và âm vị học.
Các âm của ngôn ngữ có thể được nghiên cứu từ nhiều góc độ , do đó đã hình thành ba phân môn là : Ngữ âm học cấu âm ( Nghiên cứu các âm của ngôn ngữ theo quan điểm của người nói) , ngữ âm học thính âm (nghiên cứu các âm của ngôn ngữ theo quan điểäm của người nghe), và ngữ âm học âm học ( Nghiên cứu những đặc điểm vật lí của ngữ âm khi chúng được truyền từ miệng đến tai. Trong trường hợp này các dụng cụ như máy ghi dao động, quang phổ, đã được dùng để chuyển một âm sang một hình thức thể hiện có thể nhìn thấy được ).
27 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 3493 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bài giảng ngữ âm Tiếng Việt, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI GIẢNG NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT
ÐỐI TƯỢNG VÀ VỊ TRÍ CỦA NGỮ ÂM HỌC
Ngữ âm học và âm vị học
Vị trí của môn ngữ âm học
CƠ SỞ CỦA NGỮ ÂM
Cơ sở ngữ âm
Cơ sở sinh lí học
Cơ sở xã hội
Các đặc trưng ngữ âm
Đặc điểm cấu tạo của nguyên âm và phụ âm
ÂM TỐ
Định nghĩa
Các loại âm tố
Ý nghĩa của sự phân loại âm tố về mặt cấu âm và âm học
ÂM VỊ
Định nghĩa
Biến thể của âm vị
Các nét khu biệt âm vị và sự đối lập âm vị
Phiên âm ngữ âm học
ÂM TIẾT
Định nghĩa
Cấu tạo về cách phát âm của âm tiếng việt
Đặc điểm của âm tiết tiếng việt
Các vị trí cũa mô hình âm tiết
Phân loại âm tiết tiếng việt
Sự biến hóa ngữ âm
HỆ THỐNG NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT
Hệ thống phụ âm đầu
Hệ thống âm đệm
Hệ thống âm chính
Hệ thống âm cuối
Thanh điệu
Ngữ điệu
PHẦN BẢI TẬP
I - ÐỐI TƯỢNG VÀ VỊ TRÍ CỦA NGỮ ÂM HỌC
1- Ngữ âm học và âm vị học
TOP
a- Ngữ âm học :
Trong cuộc sống con người luôn lu6n phải giao tếp với nhau . Sự giao tiếp diễn ra bằng nhiều hình thức : ngôn ngữ , điệu bộ cử chỉ, hội hoạ , âm nhạc,... . Trong các hình thức trên , hình thức giao tiếp bằng ngôn ngữ là hình thức quan trọng nhất.
Ðể hiểu nhau con người luôn phải nắm bắt một cái gì đó trong khi giao tiếp. Cái gì đó , đó chính là đối tượng nghiên cứu của ngữ âm học và âm vị học.
Các âm của ngôn ngữ có thể được nghiên cứu từ nhiều góc độ , do đó đã hình thành ba phân môn là : Ngữ âm học cấu âm ( Nghiên cứu các âm của ngôn ngữ theo quan điểm của người nói) , ngữ âm học thính âm (nghiên cứu các âm của ngôn ngữ theo quan điểäm của người nghe), và ngữ âm học âm học ( Nghiên cứu những đặc điểm vật lí của ngữ âm khi chúng được truyền từ miệng đến tai. Trong trường hợp này các dụng cụ như máy ghi dao động, quang phổ, đã được dùng để chuyển một âm sang một hình thức thể hiện có thể nhìn thấy được ).
Vậy, ngữ âm học là môn học nghiên cứu chất liệu âm thanh của ngôn ngữ , nghiên cứu những chất liệu này trong trong những đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ và mối liên hệ giữa hình thức âm thanh và chữ viết .
- Ngữ âm học nghiên cứu hình thức ngữ âm của ngôn ngữ từ những quan điểm khác nhau :
* Từ những đặc trưng vật lí âm học của chúng .
* Từ những hoạt động của cơ quan phát âm tương ứng của con người.
- Ngữ âm học bao gồm những bộ môn nhỏ :
* Ngữ âm học đại cương : nghiên cứu phần lí luận chung của ngữ âm.
* Ngữ âm học miêu tả : nghiên cứu ngữ âm của một ngôn ngữ nhất định.
* Ngữ âm học lịch sử : nghiên cứu sự biến đổi ngữ âm qua qúa trình lịch sử và qui luật của nó .
* Ngữ âm học so sánh : nghiên cứu và so sánh ngữ âm giữa các ngôn ngữ để tìm mối quan hệ về nguồn gốc và loại hình của nó .
b-Âm vị học : Là một bộ môn khoa học nghiên cứu về việc sử dụng các vai trò của các âm tố và các hiện tượng âm thanh khác trong hoạt động của ngôn ngữ như một công cụ giao tế của con người. Ðây là lĩnh vực nghiên cứu của một bộ môn riêng , hiện nay âm vị học được coi như là một bộ phận của ngữ âm học nói chung .
2- Vị trí của môn ngữ âm học
TOP
Ngữ âm học có ý nghĩa thực hành lớn , nó cung cấp cho ta phương pháp đúng để dạy viết và đọc , cho ta cơ sở phát âm đúng tiếng mẹ đẻ đồng thời phát âm đúng tiếng nước ngoài, trang bị cho chúng ta cơ sở lí luận và kiến thức để tạo nên hệ thống chữ viết hợp lí , cho ta cơ sở để nghiên cứu các bệnh về lời nói có liên quan đến bộ máy phát âm và hoạt động của não ... Ngữ âm học còn được ứng dụng vào các công việc kĩ thuật khác : Kĩ thuật truyền tin , nhận diện tự động và tổng hợp lời nói một cách nhân tạo.
Ngữ âm học đã có nhiều đóng góp quan trọng về mặt lí luận . Qua cơ cấu ngữ âm chúng ta hiểu ngôn ngữ là một hệ thống toàn vẹn , cân đối . Ngữ âm là nơi thí nghiệm của ngôn ngữ học vì ngữ âm thường ít thay đổi và cũng đơn giản hơn các bộ môn ngôn ngữ khác .
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu. Khi nói vỏ vật chất của tín hiệu được biểu thị bằng âm thanh , khi viết nó được biểu hiện bằng chữ .Chữ viết ghi lại hình ảnh âm thanh của ngôn ngữ , nhưng không phải bao giờ chúng cũng được biểu thị theo cách một âm một chữ mà đôi khi có những âm được biểu thị bằng hai hoặc ba con chữ khác nhau
II - CƠ SỞ CỦA NGỮ ÂM
1- Cơ sở âm học
TOP
Aâm thanh ngôn ngữ cũng như mọi âm thanh khác trong cuộc sống , chúng đều có chung một cơ sở vật chất : Ðó là cơ sở vật lí : Những âm thanh nói chung được tạo thành nhờ sự chấn động của các phân tử không khí , các vật thể đàn hồi , chúng phụ thuộc vào các yếu to ánhư : vật thể chấn động , môi trường truyền âm, lực tác động ..
Aâm thanh ngôn ngữ được tạo thành do sự rung động của dây thanh và sự hoạt động của các khí quan khác trong bộ máy phát âm . Khác với các âm thanh tự nhiên , âm thanh ngôn ngữ phải là các âm thanh đi qua bộ máy phát âm của con người và có mang nội dung thông báo. Aâm thanh ngôn ngữ chỉ có thể là những chấn động mà cơ quan thính giác của con người có thể lĩnh hội được .
Chính vì vậy, âm thanh ngôn ngữ có những đặc trưng riêng biệt :
- Ðộ cao:
- Ðộ mạnh :
- Ðộ dài:
- Âm sắc :
2- Cơ sở sinh lí học
TOP
Bộ máy phát âm tức là toàn bộ những cơ cấu sinh lí có liên quan âm thanh ngôn ngữ như: môi , răng , lưỡi, khoang miệng, khoang mũi,....Tuy nhiên bộ máy phát âm của con người bao gồm những phần lớn như:
- Phổi : Là cái tạo ra không khí . Muốn tạo ra một âm trước hết cần phải có luồng hơi . Trong phần lớn các ngôn ngữ , luồng hơi được tạo ra từ phổi và mỡi âm tùng với một hơi thở ra .
- Thanh hầu và dây thanh
- Các khoang trên thanh hầu
(Sơ đồ bộ máy phát âm của con người.)
3- Cơ sở xã hội
TOP
Các âm thanh ngôn ngữ không chỉ là những chấn động được truyền trong môi trường không khí , và cũng không chỉ là kết qủa của hoạt động của bộ máy phát âm , mà còn là những đơng vị âm thanh ngôn ngữ mang chức năng ngữ nghĩa và dùng để giao tiếp trong cuộc sống. Mỗi ngôn ngữ có những âm thanh ngôn ngữ mang chức năng ngữ nghĩa khác nhau, có những âm thanh được sử dụng ở ngôn ngữ này nhưng lại không sử dụng ở ngôn ngữ khác, vì thế ngữ âm còn có thêm cơ sở xã hội .Mỗi ngôn ngữ có một hệ thống âm vị riêng , và hệ thống âm vị này lại có quá trình biến đổi theo sự phát triển lịch sử của mỗi dân tộc .
4-Các đặc trưng ngữ âm
TOP
Mỗi kí hiệu ngôn ngữ đều có hình thức diễn đạt bằng âm thanh của nó .Có những từ sự khác biệt được thể hiện trên số lượng các âm tiết tham gia , hoặc ngay cả trên một từ khi mà số lượng âm tiết bằng nhau chúng cũng thể hiện sự khác nhau rất rõ.
Tuy nhiên có những từ mà sự khác biệt dường như chỉ thể hiện trên một âm nào đó : ví như đàn và tàn , chúng khác biệt nhau chỉ ở một đặc trưng : sự chấn động của dây thanh trong khi phát âm hoặc không . Chính vì vậy, miêu tả ngôn ngữ không thể không biết đến những đặc trưng ngữ âm của mỗi cấu tạo âm thanh .
Aâm thanh do con người phát ra dùng để giao tiếp được cấu tạo bởi luồng không khí từ phổi đi lên qua thanh hầu. Hai dây thanh ,tức hai tổ chức cơ nằm sóng nhau trong thanh hầu, với sự điều khiển của thần kinh chấn động cho phép luồng không khí thoát ra thành từng đợt nối tiếp nhau tạo nên những sóng âm. dây thanh này dày mỏng khác nhau và tuỳ theo sự chấn động mạnh yếu khác nhau cho ta những âm thanh cao thấp khác nhau. Tuy nhiên, trong quá trình đi ra của luồng không khí những âm thanh do dây thanh tạo nên còn được sự cộng hưởng của các khoang miệng hoặc khoang mũi.
Âm này nếu thoát ra ngoài tự do, đặc trưng âm học là có tần số ổn định , chu kì đều đặn , có âm hưởng êm ái dễ nghe, chúng được gọi là tiếng thanh, trong ngôn ngữ đó là các nguyên âm .
Ngược lại, luồng không khí từ phổi đi lên qua thanh hầu có thể không tiếp nhận được một âm nào do chỗ dây thanh không hoạt động và để ngỏ . Trong quá trình thoát ra ngoài nếu gặp một sự cản trở nào đó ví như sự tiếp xúc của đầu lưỡi với răng .Những tiếng này không dễ nghe , có tần số không ổn định, có chu kì không đều đặn ,những âm thanh này gọi là tiếng động , chúng là các phụ âm .
Còn có một loại trung gian vừa mang tính chất nguyên âm vừa mang tính chất phụ âm được gọi là bán nguyên âm đơn hay bán phụ âm .Ðó là những âm như I, hoặcu trong các âm tiết như chạy , Khuya
.
5- Ðặc điểm cấu tạo của nguyên âm và phụ âm
TOP
Với nguyên âm : Thứ nhất : Luồng hơi đi ra tư do, không bị cản trở, không có vị trí cấu âm. Thứ hai , Bộ máy phát âm hoạt động toàn thể . Thứ ba, khi phát âm nguyên âm luồng hơi đi ra yếu ( dây thanh runh hoặc không rung ).
Với phụ âm : Thứ nhất, Luồng hơi bị cản trở do sự xuất hiện của chướng ngại trên lối thoát của không khí . Các chướng ngại này thường là các tiêu điểm cấu âm cụ thể của mỗi âm thanh. ( thường gọi là vị trí cấu âm). Thứ hai, bộ máy phát âm hoạt động xảy ra ở những cơ thịt , tập trung ở vị trí cấu âm . Thứ ba, luồng hơi thoát ra mạnh
III - ÂM TỐ
1- Ðịnh nghĩa
TOP
Âm tố là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất không mang chức năng phân biệt nghĩa và nhận diện từ .
Theo ông Ðoàn Thiện Thuật thì : Aâm tố là đôn vị âm thanh nhỏ nhất của lời nói có thể tách ra về mặt cấu âm thính giác , đồng chất trong một khoảng thời gian nhất định và thường tương ứng với mỗi một âm vị .
Như vậy nói đến âm tố là nói đến mặt tự nhiên của ngữ âm ( bao gồm cơ sở âm học và snh lí ).
Âm tố là những yếu tố tự nhiên . Chúng phụ thuộc vào các yếu tố như : ngữ điệu, hoàn cảnh phát âm khi chúng kết hợp với các yếu tố khác trong cùng một âm tiết , bộ máy phát âm của mỗi cá nhân. Chính vì vậy , khi nói về số lượng của âm tố người ta không thể đếm được , chúng có vô vàn trong cuộc sống và chúng không phải là các yếu tố chuẩn .
Kí hiệu của âm tố là chúng được phiên âm giữa hai gạch vuông [ ] .
Ví dụ : [ b ], [ d ],... Ngoài chúng còn có một số các yếu tố phụ như : ngạc hóa, môi hóa, ngắn,dài ....
2- Các loại âm tố
TOP
a-Phân loại âm tố về mặt cấu âm :
* Âm tố nguyên âm:
Các nguyên âm không thể phân loại theo tiêu chuẩn như của phụ âm. Về mặt phương thức cấu âm, nguyên âm chỉ thuộc vào một phương thức đó là luồng hơi ra tự do. Nguyên âm không có vị trí cấu âm vì rằng các khí quan không tạo thành khe, cũng không tạo thành chỗ tắc. Các nguyên âm cũng không thể phân loại theo tiếng thanh, vì bình thường, bất cứ nguyên âm nào cũng có tiếng thanh.
Các nguyên âm chỉ khác nhau ở các hoạt động của các khí quan phát âm, trong đó quan trọng nhất là lưỡi. Vì sự thay đổi vị trí của lưỡi gây ra sự khác nhau rất lớn giữa các nguyên âm. Lưỡi chuyển động tới- lui và lên- xuống trong khoang miệng tạo nên những tương quan phức tạp giữa các khoang cộng minh ( khoang miệng và mũi), làm thay đổi hình dáng và thể tích của chúng. Môi tròn lại và đưa về trước, làm kéo dài lối thoát của luồng không khí, hoặc môi chành ra, làm cộng minh trường phía trước ngắn lại.
Người ta thường phân loại nguyên âm theo vị trí của lưỡi, độ nâng của lưỡi và hình dáng của môi.
- Phân loại theo vị trí của lưỡi: ta có các nguyên âm dòng trước (khi lưỡi dồn về trước), nguyên âm dòng sau ( khi lưỡi dồn về sau) và nguyên âm dòng giữa ( khi lưỡi ở giữa miệng nâng lên). Ví dụ, trong tiếng Việt, các nguyên âm dòng trước là[ i ],[ e ],[ ê ], nguyên âm dòng sau là [ u ], [ o ],[ ô]â và nguyên âm dòng giữa là[ ư ],[ ơ ],[ a].
- Theo độ nâng của lưỡi: các nguyên âm được chia thành nhiều loại khác nhau, tùy từng ngôn ngữ. Ðơn giản nhất là có ba độ nâng của lưỡi như trong tiếng Nga ( cao, trung bình và thấp). Ðộ nâng của lưỡi tương ứng với độ mở của miệng, nên các nguyên âm có độ nâng cao còn gọi là nguyên âm hẹp, nguyên âm có độ nâng thấp còn gọi là nguyên âm mở. Trong ngữ âm học đại cương không có một cách phân loại tuyệt đối theo độ nâng lưỡi vì mỗi ngôn ngữ có một hệ thống nguyên âm khác nhau. Ví dụ, các nguyên âm dòng trước trong tiếng Pháp có 4 độ nâng, các nguyên âm trong tiếng Ðức có 5 độ nâng, còn trong tiếng Anh có 6 độ nâng. Trong tiếng Việt, các nguyên âm đơn có thể chia thành 4 độ nâng:
- Hẹp [ i] , [ u ],....
- Hơi hẹp [ ê ], [ ư ],...
- Hơi rộng [ o ] , [ e ],...
- Rộng [ ă ], [ a],...
- Theo hình dáng môi: Các nguyên âm được chia thành nguyên âm tròn môi ( như [ u ],[ ô ] â,[ o ]) nguyên âm không tròn môi ( như [ i ],[ ê] [e],[ ư],[ ơ], [a]). Sự tròn môi rõ nhất ở nguyên âm khép và yếu nhất ở nguyên âm mở.
Dựa theo vị trí khác nhau của lưỡi khi cấu tạo các nguyên âm trong khoang miệng, người ta biểu diễn các nguyên âm trên hình thang nguyên âm quốc tế.
(Vẽ hình thang nguyên âm )
* Âm tố phụ âm:
( Trước tiên , theo mối quan hệ giữa tiếng thanh và tiếng ồn trong cấu tạo của phụ âm, các phụ âm được chia thành các phụ âm vang( tiếng thanh nhiều hơn tiếng ồn) và các phụ âm ồn. Trong các phụ âm ồn lại chia ra các phụ âm hữu thanh ( phát âm có sự tham gia của tiếng nhanh, do dây thanh rung động) và phụ âm vô thanh ( phát âm không có sự tham gia của tiếng thanh).
Nhóm các phụ âm vang có thể được coi là một nhóm trung gian giữa các nguyên âm và các phụ âm ồn. Khi phát âm các phụ âm vang, chướng ngại được tạo thành nhưng có thể là chỗ tắc yếu ( như ở phụ âm [r] tiếng Nga hay [R] tiếng Pháp hay [ l] tiếng Việt) hoặc không khí không những trực tiếp vượt qua chỗ có chướng ngại mà còn đi ra tự do qua mũi ( như ở các phụ âm [m], [n] trong tiếng Việt).
- Sự phân chia thứ hai của các phụ âm là phân chia theo phương thức cấu tạo tiếng ồn, tức theo tính chất của chướng ngại, thành các phụ âm tắc, xát và rung.
Phụ âm tắc được tạo thành khi hai khí quan tiếp xúc nhau, tạo thành chỗ tắc, canû trở hoàn toàn lối ra của luồng không khí. Ví dụ: Các phụ âm [p], [b], [t], [d].
Phụ âm xát được tạo thành khi hai khí quan nhích lại gần nhau, làm cho lối ra của luồng không khí bị thu hẹp; luồng không khí đi qua khe hẹp này cọ xát vào thành của bộ máy phát âm. Ví dụ: Các phụ âm [f], [v], [s], [z], [h].
Phụ âm rung được tạo thành khi các khí quan dễ rung động ( như đầu lưỡi, lưỡi con hay môi) nhích lại gần nhau tạo thành một khe hở rất hẹp hay một chỗ tắc yếu, luồng không khí đi ra mạnh làm cho các khí quan ấy rung lên (Ví dụ: phụ âm [r] trong tiếng Nga hay[R] trong tiếng Pháp).
Trong cách cấu âm của phụ âm, người ta thường phân biệt ba giai đoạn:
+ Giai đoạn tiến: khí quan phát âm chuyển đến vị trí cấu âm.
+ Giai đoạn giữ: khí quan phát âm ở vị trí cấu âm.
+ Giai đoạn lùi: khí quan phát âm rời khỏi vị trí cấu âm.
Hai giai đoạn đầu giống nhau ở bất cứ âm tắc nào. Về giai đoạn thứ ba, cần phân biệt các tiểu loại âm tắc: âm nổ, âm mũi, âm tắc- xát và âm khép.
Các phụ âm khép không thể gặp trước nguyên âm, mà chỉ thường xuất hiện ở cuối từ hay trước một phụ âm tắc khác. Trong tiếng việt, tất cả các phụ âm ở cuối âm tiết đều là phụ âm khép.
- Sự phân chia thứ ba của phụ âm là sự phân chia theo vị trí cấu tạo ra tiếng ồn hay theo khí quan chủ động khi cấu âm.
Theo vị trí cấu tạo tiếng ồn, các phụ âm thường được chia ra thành các loạt chính như: phụ âm môi, răng, lợi, ngạc mạc, lưỡi con, yết hầu, thanh hầu.
Theo khí quan chủ động, các phụ âm được chia thành các loạt: phụ âm môi, lưỡi trước, lưỡi giữa, lưỡi sau, lưỡi con, yết hầu, thanh hầu.
Trong các nhóm này, có một số cần chia nhỏ ra nữa. Thí dụ trong các âm môi, người ta phân biệt các âm hai môi, thường gọi là âm môi- môi ( ví dụ: [p], [b], [m]) với các âm một môi, thường gọi là âm môi- răng ( ví dụ: .[f], [v]).
Các âm lưỡi trước thường chia thành nhiều nhóm nhỏ nhưng đáng chú ý là âm đầu lưỡi ( apical) và âm quặt lưỡi (cacuminal).
- Ðối với một số ngôn ngữ, còn có một số cấu âm bổ sung làm thay đổi sắc thái các âm. Ðó là các hiện tượng bật hơi, môi hóa, ngạc hóa, yết hầu hóa, thanh hầu hóa, mũi hóa. Trong tiếng Việt, các cấu âm bổ sung có vai trò quan trọng hơn cả là: hiện tượng bật hơi tức là kèm theo một lưu lượng không khí lớn khi chỗ tắc được bật ra ( ví dụ: phụ âm th); hiện tượng thanh hầu hóa, tức là bổ sung động tác tắc kèm theo sự nâng lên của thanh hầu; và yết hầu hóa- bổ sung động tác khép của yết hầu. Hai hiện tượng sau góp phần hiện thực hóa một số phụ âm đầu và thanh điệu tiếng Việt.
Các cấu âm bổ sung, cũng như các cấu âm khác, đều có thể được sử dụng để khu biệt các âm tố, hay các hiện tượng âm thanh trong ngôn ngữ. Vì vậy, chúng có giá trị bình đẳng với nhau, xét về mặt âm vị học.( Các âm bổ sung này tạo cho các âm tố có những kí hiệu phụ khác nhau trong từng trường hợp cụ thể khi chúng được thể hiện trên mỗi âm tiết.) Ví dụ : ngạc hóa , môi hóa , ngắn, dài,....
(Vẽ bảng phụ âm ) Tr 168, ÐTT . Tr 123- CSNN - NTG
Âm tố bán âm : Những âm tố có đặc tính giống nguyên âm về cách phát âm , cách thể hiệnkí hiệu, nhưng thường chỉ đi kèm, bản thân không tạo thành âm tiết được . Nói cách khác, chúng có chức năng khác với chức năng của nguyên âm : Không tạo nên âm sắc chính của âm tiết, không ở đỉnh âm tiết .
b- Phân loại âm tố về mặt âm học :
Sự phân loại các âm tố về mặt âm học đã được xây dưng trên tài liệu âm phổ . Các máy phân tích âm phổ cho chúng ta các phổ hình , qua đó các âm tố thể hiện rõ các đặc trưng âm học : cao độ, cường độ , trường độ...
Khi phân loại âm tố theo tiêu chí này người ta nhận thấy rằng nhiều khi các nguyên âm hoặc phụ âm phụ thuộc vào các yếu tố khác như: ồn >< không vang , các yếu tố bổng trầm ....và chúng ta có thể kể ra khá nhiều các chi tiết thuộc về các yếu tố âm học
Bổng trầm: Những âm bổng có tần số lớn , còn những âm trầm có tần số nhỏ. Âm bổng là các nguyên âm hàng trước , phụ âm răng , các phụ âm lưỡi trước ( giữa). Âm trầm là các nguyên âm hàng sau, các phụ âm môi và phụ âm lưỡi sau.
Ngắt- không ngắt: Ðó là sự đối lập giữa có và không có sự chuyển tiếp đột ngột., giữa sự có mặt và vắng mặt của âm thanh .các phụ âm xát thường có khởi âm từ từ . Ngược lại , các phụ âm tắc thường có sự ngắt đột ngột sóng âm đi trước bằng một khoảng im lặng hoàn toàn . Các phụ âm tắc ( trừ nhóm mũi) là những âm ngắt. Còn lại là những âm không ngắt.
Loãng đặc : Các âm loãng là những âm có độ nâng của lưỡi cao (những nguyên âm có độ mở của miệng hẹp- hơi hẹp), những phụ âm răng phụ âm môi.( Trên phổ hình chúng có các phoóc măng ở gần trung tâm của phổ hơn ) các âm đặc là những âm có độ nâng của lưỡi thấp ( những nguyên âm có độ mở miệng hơi rộng rộng ),các phụ âm lưỡi trước , lưỡi giữa, lưỡi sau. ( Trên phổ hình chúng có các phoóc măng ở xa trung tâm của phổ hơn )
Trên đây là bảng phân loại theo âm học tương ứng với cách phân loại theo cấu âm.
Hữu thanh Vô thanh: Ðó là sự đối lập giữa có hay không có những dao động điều hoà ở vùng tần số thấp, tương ứng với sự có hay không có sự dao động của dây thanh về mặt cấu âm.
Căng lơi: Những âm căng là những âm có độ dài lớn,năng lượng lớn và có thanh cộng hưởng thể hiện rõ trên phổ hình.( Các phụ âm căng là những phụ âm mạnh, còn những phụ âm không căng là những phụ âm yếu. Còn ở nguyên âm:âm căng là những âm đặc , âm lới là những âm loãng).
Gắt không gắt:
Ðó là đối lập giữa cường độ lớn hay nhỏ của tiếng ồn. Trên phổ hình, các âm gắt có vùng tối thay đổi sắc thái rõ rệt.
Các phụ âm xát điển hình, các âm tắc- xát, bật hơi, phụ âm rung là những phụ âm gắt. Những loại hìng âm còn lại là những âm không gắt.
Giáng Không giáng : Các âm giáng là những âm trầm hóa, ( có một số các phoóc măng của chúng bị hạ thấp so với các âm không giáng ). Các nguyên âm tròn môi [ u [, [ ô ], [ o ],... và các phụ âm đứng trước chúng bị môi hóa đều là những âm giáng .
Thăng -không thăng: Ngược lại so với âm giáng , chúng là những âm bổng hóa. Các nguyên âm hàng trước thường là các âm có một trong số các phoóc măng cao hơn các âm không thăng tương ứng .( Ðiều này thể hiện rõ trong các tiếng nước ngoài như tiếng Nga)
Mũi- miệng ( hay mũi- không mũi):
Phổ hình của các âm mũi có mật độ phoóc- măng dày hơn so với các âm miệng tương ứng. Ở các nguyên âm mũi giữa F1 và F2 xuất hiện thêm một phoóc- măng phụ, và đồng thời có sự giảm cường độ của F1 và F2. Về mặt cấu âm, các âm mũi được tạo thành khi ngạc mềm hạ xuống.
Trong tiếng Việt có các âm mũi được thể hiện bằng các chữ cái: m, n, nh, ng.( Chúng chịu ảnh hưởng trực tiếp của khoang mũi)
Thanh hầu hóa không thanh hầu hóa:
Các âm thanh hầu hóa đặc trưng bởi tốc độ biến đổi năng lượng lớn trong một khoảng thời gian ngắn ( về mặt cấu âm đó là sự có mặt của sự xiết hay tắc khe thanh).
Trong tiếng Việt, âm thanh hầu hóa có thể xuất hiệntrong các âm tiết vắng các thủy âm ( phụ âm đầu) trên chữ viết như ăn, uống, uể, oải,... hoặc trước các phụ âm hữu thanh, đặc biệt là trước [ b ],[ đ], và [ l ].
3- Ý nghĩa của sự phân loại âm tố về mặt cấu âm và âm học
TOP
* Nghiên cứu cấu âm để dạy và học ngoại ngữ , lồng tiếng cho phim từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác , ( làm cho âm thanh của lời dịch khớp với cấu âm của cấu âm của diễn viên đang nói trên màn ảnh)...v.v.
· Nghiên cứu các âm trên phương diện âm học đã xác định đặc điểm của âm tố một cách trực tiếp , không thông qua hoạt động của bộ máy phát âm . Vì vậy chúng đã giúp người đọc có được sự cảm nhận chính xác mặt âm thanh của mỗi một ngôn ngữ .
IV- ÂM VỊ
1- Ðịnh nghĩa
TOP
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau .
Theo cuốn Ngữ âm học tiếng Việt hiện đại NXBGD 1972 ,nhóm tác giả Cù Ðình Tú thì âm vị là đơn vị nhỏ nhất của ngữ âm có mang chức năng phân biệt nghĩa và nhận diện từ .
Theo cuốn ngữ âm tiếng Việt của ông Ðoàn Thiện Thuật thì âm vị là tổng thể các nét khu biệt ,được xuất hiện đồng thời (được con người tri giác theo trật tự trước sau) và có chức năng khu biệt vỏ âm thanh của từ hoặc hình vị .
Như vậy , ta có thể hình dung những định nghĩa trên đều được định nghĩa ở hai bình diện : Bình diện chức năng khu biệt , tức thuộc về bình diện ngôn ngữ học, và bình diện thời gian , tức mặt thể chất hay vật lí . Aâm vị , một là có thể định nghĩa như một đơn vị âm vị học : Có tác dụng khu biệt , không thể phân tích thành những đơn vị nhỏ hơn kế tiếp nhau trong thời gian . Hai là được định nghĩa như một tập hợp những nét khu biệt được thực hiện đồng thời .
Hai đặc tính : Ðồng thời và kế tiếp được nói đến trong các định nghĩa nói trên không phải là những thuộc tính khách quan có thể quan sát được trong tín hiệu ngôn ngữ , chúng ta có thể dựa vào nó để phân giới giữa cấp độ âm vị với cấp độ nét khu biệt . Hoặc để phân biệt các âm vị đoạn tính với các âm vị siêu đoạn tính.
Theo Giáo sư Cao Xuân Hạo , thì những cách định nghĩa trên vẫn còn có những chỗ chưa thoả đáng : Có tính chất ấn tượng chủ nghĩa , có sự lầm lẫn về cách tri giác tính đồng thời, kế tiếp.. . và theo ông thì chỉ cần thay Một tập hợp những nét khu biệt được thực hiện đồng thời bằng cách cụ thể hơn như Một tập hợp những nét khu biệt có tham gia thế đối lập về trật tự thời gian bên trong cái cái đơn vị ở cấp cao hơn mà nó khu biệt. Từ đó , theo giáo sư thì định nghĩa âm vị là Aâm vị là đơn vị khu biệt âm thanh nhỏ nhất có tham gia vào thế đối lập âm vị học về trật tự thời gian , hoặc âm vị là đơn vị âm vị học tuyến tính nhỏ nhất .
Theo Ðinh Lê Thư và Nguyễn Văn Huệ Nguời ta thường định nghĩa : Aâm vị là đơn vị nhỏ nhất của cơ cấu âm thanh ngôn ngữ , dùng để cấu tạo và phân biệt hình thức ngữ âm của những đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ từ và hình vị
Ví dụ : các từ tôi và đôi, ta và đatrong tiếng Việt Phân biệt nhau bởi các âm vị / t /, / đ / . Như vậy, nếu thay âm vị này bằng một âm vị khác trong cùng một âm tiết sẽ làm cho âm tiết đó thay đổi về nghĩa hoặc mất nghĩa .
Về chức năng của âm vị : Các âm vị trên nguyên tắc nhất định phải có sự khác nhau , ít nhất là về một đặc trưng nào đó . Chính nhờ sự khác biệt này mà các âm vị có thể tạo ra sự khác biệt về hình thức âm thanh của các hình vị và từ , tạo nên những tín hiệu khác biệt đối với sự cảm thụ của con người . Chức năng khu biệt vỏ âm thanh của hình vị và từ , chức năng cấu tạo nên những thành tố của đơn vị có nghĩa . ( Có những âm tiết có thể do nhiều âm vị cấu tạo nên , ví dụ chuyện gồm 5 âm vị cấu thành. Nhưng cũng có những âm tiết chỉ gồm 2 âm vị cơ bản , ví dụ : u mẹ , y- hắn ta )
Kí hiệu âm vị : Xác định chính xác các âm vị mang chức năng khu biệt ngh
File đính kèm:
- Giao trinh Ngu am tieng viet.doc