Bài tập nghiệp vụ cuối khoá giáo dục hành vi giao tiếp cho trẻ mẫu giáo trường mầm non Tân Lập - Lạc Sơn - Hoà Bình

Đất nước ta đang trên bước đường công nghiệp hóa, hiện đại hoá; nền kinh tế phát triển mạnh. Tất cả vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của mỗi dân tộc, của cộng đồng. Trẻ em hôm nay là những công dân của thế giới ngày mai. Vậy việc bảo vệ chăm sóc trẻ em là trách nhiệm của nhà nước, của tòan xã hội và của mỗi gia đình.

 Thế giới trẻ thơ- một thế giới đã từng là đề tài cuả biết bao cuốn sách, nguồn cảm xúc bao nhiêu tác gỉa. Tuổi mẫu giáo là thời kỳ vàng ngọc để phát triển những năng khiếu về văn hoá nghệ thuật của mỗi con người. Từ thực tế cũng như nhiều công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học, giáo dục học đã cho chúng ta thấy rằng trong những năm đầu của cuộc đời đứa trẻ, hệ thần kinh mềm mại hơn, non yếu hơn. Trong quãng thời gian đó rất dễ hình thành những nét cơ bản của cá tính và những thói quen nhất định. Sau đó những phẩm chất tâm lý, nhân cách của con người dần dần được định hình.

 

doc29 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 2456 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bài tập nghiệp vụ cuối khoá giáo dục hành vi giao tiếp cho trẻ mẫu giáo trường mầm non Tân Lập - Lạc Sơn - Hoà Bình, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường đại học sư phạm hà nội Khoa giáo dục mầm non Bài tập nghiệp vụ cuối khoá Giáo dục hành vi giao tiếp cho trẻ mẫu giáo trường mầm non Tân lập - Lạc sơn - Hoà bình Người hướng dẫn : T.s Đinh Hồng Thái Người thực hiện : Bùi Thị Tưm Lớp ĐHTC hoà bình - Khoa GDMN hà nội - 2004 Lời nói đầu Lần đầu tiên làm quen với bài tập tốt nghiệp cuối khoá đối với em thật mới mẻ và bỡ ngỡ. Được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo Khoa giáo dục mầm non - trường Đại học sư phạm I Hà Nội. Đặc biệt là sự giúp đỡ của thầy Đinh Hồng Thái - người hướng dẫn em hoàn thành bài tập này. Đề tài của em đã được hoàn thành, để có được cơ sở thực tiễn của việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ phải kể đến sự giúp đỡ tạo điều kiện của Ban giám hiệu trường Tân Lập và 2 cô giáo chủ nhiệm lớp 5 tuổi của trường. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học sư phạm - khoa giáo dục mầm non. Đặc biệt là thầy giáo Đinh Hồng Thái. Đồng thời xin cảm ơn Ban giám hiệu và 2 cô giáo trường mầm non Tân Lập - Huyện Lạc Sơn - tỉnh Hoà Bình đã tạo điều kiện cho em hoàn thành tốt bài tập nghiệp vụ cuối khoá này. Mục lục Phần I: mở đầu I. Lý do chọn đề tài II. Mục đích nghiên cứu III. Nhiệm vụ nghiên cứu 1. Nghiên cứu cơ sở lý luận 2. Thực hiện sư phạm, tác động sư phạm để giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá 3. Đề xuất và những kiến nghị sư phạm. IV. Phương pháp nghiên cứu. 1. Đọc tài liệu 2. Thực hiện sư phạm 3. Xử lý kết quả. Phần II. Nội dung nghiên cứu Chương I: Cơ sở lý luận 1. Cơ sở lý luận của việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo. Chương II. Mô tả quá trình nghiên cứu I. Khảo sát nhận thức hành vi giao tiếp của trẻ II. Biện pháp tác động để giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo. Phần III. Kết luận và những kiến nghị sư phạm Phần IV. Tài liệu tham khảo Phần I : Mở đầu I. Lý do chọn đề tài : Đất nước ta đang trên bước đường công nghiệp hóa, hiện đại hoá; nền kinh tế phát triển mạnh. Tất cả vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của mỗi dân tộc, của cộng đồng. Trẻ em hôm nay là những công dân của thế giới ngày mai. Vậy việc bảo vệ chăm sóc trẻ em là trách nhiệm của nhà nước, của tòan xã hội và của mỗi gia đình. Thế giới trẻ thơ- một thế giới đã từng là đề tài cuả biết bao cuốn sách, nguồn cảm xúc bao nhiêu tác gỉa. Tuổi mẫu giáo là thời kỳ vàng ngọc để phát triển những năng khiếu về văn hoá nghệ thuật của mỗi con người. Từ thực tế cũng như nhiều công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học, giáo dục học đã cho chúng ta thấy rằng trong những năm đầu của cuộc đời đứa trẻ, hệ thần kinh mềm mại hơn, non yếu hơn. Trong quãng thời gian đó rất dễ hình thành những nét cơ bản của cá tính và những thói quen nhất định. Sau đó những phẩm chất tâm lý, nhân cách của con người dần dần được định hình. Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo thì việc tiếp nhận vốn tri thức, những phẩm chất nhân cách con người cũng như văn hoá, nghệ thuật thẩm mỹ thông qua sự vật, hiện tượng xung quanh gần gũi với trẻ. Cũng vì thế, khi chúng ta lo lắng nhiều tới việc nâng cao trình độ văn hoá nghệ thuật của người lớn (người mẹ, người cô đó chính là nhằm tạo điều kiện tốt cho sự phát triển của thế hệ trẻ thông qua những người gần gũi nhất đối với trẻ thơ) và việc giáo dục trẻ đòi hỏi chúng ta phải uốn nắn từ đầu như nhân dân ta đã đúc kết thành những kinh nghiệm sâu sắc lưu truyền cho đời sau: Uốn cây từ thưở còn non Dạy con từ thưở hãy còn thơ ngây. Bé không vin, cả gãy cành. Qua thời gian học tập tôi đã được các thầy cô giáo giảng dạy, hướng dẫn, bản thân tôi thấy rõ việc giáo dục thế hệ trẻ cụ thể là lứa tuổi mầm non cần được chăm sóc giáo dục để tạo nên những con người mới xã hội chủ nghĩa có phẩm chất đạo đức, có tài năng và có thể lực cường tráng để phù hợp với thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, tôi đã chọn việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa cho trẻ mẫu giáo làm đề tài cho bài tập tốt nghiệp khoá học. Giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo là dạy trẻ những hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội : Biết quý trọng ông bà cha mẹ; biết quan tâm đến người già cả, cô đơn; biết nhường nhịn em bé … Nghĩa là phải tiến hành daỵ trẻ toàn diện 4 mặt : Đức, trí, thể, mỹ đúng với ý nguyện của người lớn chúng ta là : Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai. Thế giới của công nghệ thông tin, thế giới của trí tuệ, tài năng. II. Mục đích nghiên cứu : Một số biện pháp giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo. III. Nhiệm vụ nghiên cứu : 1. Nghiên cứu cơ sở lý luận. 2. Thực nghiệm sư phạm : Tác động sư phạm để giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá. 3. Đề xuất và kiến nghị sư phạm IV. Phương pháp nghiên cứu 1. Đọc tài liệu 2. Thực nghiệm sư phạm 3. Xử lý kết quả. Phần II : Nội dung nghiên cứu Chương I : Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo . I. Cơ sở lý luận của việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo 1. Hành vi giao tiếp có văn hoá : Để tiến hành giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo có hiệu quả, chúng tôi đã xác định rõ khái niệm hành vi giao tiếp có văn hoá cũng như phân tích nhân tố có tính quy luật chi phối quá trình giáo dục này. a. Văn hoá là gì ? Văn hoá là một khái niệm rộng và phức tạp, khái niệm về văn hoá đã được nhiều tác giả đề cập tới và diễn đạt theo nhiều cách khác nhau, thậm chí một số nhà xã hội học Mỹ đã thống kê được tới gần 1000 định nghĩa khác nhau về văn hoá . Nhưng nhìn chung thì “Văn hoá là toàn bộ những giá trị về vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử của dân tộc mình”. Văn hoá là một hiện tượng xã hội tiêu biểu cho trình độ mà xã hội đã đạt được trong từng giai đoạn lịch sử nhất định như : Tiến bộ về kinh tế, kinh nghiệm sản xuất lao động, học vấn giáo dục, khoa học, văn học nghệ thuật và những tổ chức thích ứng với cái đó. Theo nghĩa rộng văn hoá bao gồm cả văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, còn theo nghĩa hẹp thì văn hoá chỉ liên quan đến đời sống của con người. Văn hoá chính là sản phẩm của con người và do con người tạo ra nó. Vì vậy, văn hoá chỉ là cái gì dành riêng cho con người và chỉ có thể có ở nơi con người sinh sống mà thôi. ở đâu có con người sống thành tập thể, thành xã hội thì ở đó có văn hoá, văn hoá bao giờ cũng gắn liền với xã hội, với dân tộc, với thời kỳ lịch sử. Có văn hoá thời cổ đại, văn hoá thời Phục hưng, văn hoá thời Trung đại, văn hoá Việt Nam,văn hoá Trung Quốc… Văn hoá là do con người sáng tạo ra, có thể nói rằng con người sinh ra và trưởng thành trong xã hội nào thì chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi nền văn hoá của xã hội đó. Thậm chí cho dù có một thời gian dài sống tách khỏi xã hội thì con người vẫn tư duy và hành động theo những khuôn mẫu, tác phong, nề nếp quen thuộc. Nhân cách của mỗi thành viên trong một cộng đồng bao giờ cũng mang dấu vết bản sắc văn hoá dân tộc. * Phân biệt văn hoá và văn minh : Văn minh là một khái niệm dùng để chỉ trình độ đạt tới mức độ nào đó của xã hội loài người, có nền văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần mang những nét đặc trưng nhất định. Theo các nhà xã hội học và dân tộc học thì dân tộc nào cũng có nền văn hoá riêng của mình. Dân tộc này văn minh hơn dân tộc khác chỉ là nói đến sự khác nhau về mức độ phát triển mà thôi. Theo ý nghĩa đó thì trong xã hội ngày nay có những nền văn hoá ở trình độ văn minh thấp hơn. Văn minh liên quan chủ yếu tới kỹ thuật làm chủ tự nhiên, sự tiến bộ của văn minh trước hết là sự tiến bộ về khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Sau đó là sự tiến bộ về đạo đức xã hội. Vì thế, người ta thường lấy sự tiến bộ về khoa học, kỹ thuật và công nghệ làm tiêu chuẩn đo trình độ văn minh của các nền văn hoá. VD : Nền văn minh đồ đá, văn minh cơ khí, văn minh công nghiệp. Tuy là khái niệm rất khác nhau, song văn hoá lại cũng gắn bó chặt chẽ với văn minh. Thậm chí còn là linh hồn của văn minh bởi vì để tiếp thu được khoa học kỹ thuật đòi hỏi con người phải có một nền văn hoá sâu sắc. Nếu một dân tộc không có sẵn một nền văn hoá cao, không có truyền thống ham học, không có bản lĩnh vững vàng, chỉ tiếp nhận ở khía cạnh đơn thuần thì dần dần bản sắc văn hoá dân tộc đó bị mai một, dân tộc đó sẽ bị tác động bởi những nền văn hoá khác. Ngược lại : Nếu một dân tộc có nền văn hoá cao, có truyền thống hiếu học, có bản sắc dân tộc vững vàng thì từ chỗ rất lạc hậu so với thế giới bên ngoài dân tộc đó sẽ nhanh chóng làm chủ được khoa học hiện đại, tạo ra những sản phẩm có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Bằng cách ấy dân tộc đó sẽ phát triển nhanh, văn hoá là một hiện tượng vừa mang tính phổ biến vừa mang tính cá biệt. Tính phổ biến của văn hoá thể hiện ở chỗ nó là đặc điểm chung của con người bắt gặp ở mọi cộng đồng. Tính cá biệt của văn hoá thể hiện ở chỗ mỗi cộng đồng lại có một lối sống riêng không giống các cộng đồng khác. Văn hoá không phải là một hiện tượng cố định mà trái lại nó biến chuyển và phát triển từ xã hội này qua xã hội khác; từ thời kỳ này qua thời kỳ khác. Thậm chí còn có thể thay đổi trong nội bộ từ chế định này sang chế định khác. Sự biến chuyển của văn hoá yếu tố quan trọng nhất là thông qua sự hội tụ, phổ cập. Hai diễn biến này có khuynh hứớng đan xen lẫn nhau trong sự phát triển của một nền văn hoá. Lịch sử đã cho thấy văn hoá biến chuyển và phát triển nhanh chóng ở những khu vực có giao lưu, tiếp xúc rộng rãi với các nền văn hoá khác. Còn những nền văn hoá cô lập với thế giới bên ngoài thì nền văn hoá đó không phát triển được.Trong thời đại ngày nay, thời đại mà phương tiện thông tin đại chúng phát triển một cách hiện đại thì sự giao lưu, trao đổi với nhau giữa các nền văn hoá là rất thuận lợi. Trong quá trình giao lưu này nếu cá nhân nào, tập thể nào biết lựa chọn và tiếp thu những tinh hoa của nền văn hoá khác một cách nhanh chóng, thông minh, tinh tế và khéo léo thì nền văn hoá đó sẽ được hoàn thiện và tốt đẹp hơn. Ngược lại với một nền văn hoá cô lập, tự bó hẹp thì nó sẽ bị nghèo nàn và mai một dần. Bởi vậy, để có nền văn hoá phát triển cần tăng cường giao lưu kinh tế, tăng cường tiếp xúc, trao đổi với những nền văn hoá của các dân tộc khác nhau; biết lựa chọn và tiếp thu những tinh hoa của họ nhưng phải phù hợp với nền văn hoá của nước mình và không làm mất đi bản sắc riêng của dân tộc mình. 2. Hành vi : Theo các nhà tâm lý học, hành vi con người được phân loại theo nhiều cách khác nhau: Như hành vi có nguồn gốc bên ngoài và hành vi có nguồn gốc bên trong; cũng có nhà tâm lý học đã phân biệt hành vi thành 3 loại khác nhau theo bản chất tâm lý học: Đó là hành vi bản năng, hành vi kỹ xảo và hành vi lý trí. Trong giáo dục học người ta thường quan tâm đến hành vi đạo đức. Đó là những hành động được thúc đẩy bằng các động cơ đạo đức đem lại những kết quả có ý nghĩa đạo đức và được đánh giá bằng những phạm trù đạo đức. Hành vi đạo đức gồm 2 thành phần : Hành động đem lại những kết quả có ý nghĩa đạo đức với tư cách là mặt biểu hiện bên ngoài; thái độ (mục đích, ý định, động cơ) thấm nhuần ý thức đạo đức với tư cách là mặt kích thích bên trong. Như vậy, khi đánh giá con người có hành vi đạo đức hay không thì không những ta phải xem xét người đó hoạt động như thế nào, có phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội hay không mà còn phải xem xét người đó hoạt động với động cơ đúng hay sai, tích cực hay tiêu cực? Cũng như khi giáo dục hành vi văn hoá cho trẻ điều quan trọng là không ngừng tạo ra những hoạt động phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội và xây dựng động cơ hoạt động có đạo đức cao. 3. Văn hoá hành vi Đạo đức Mác xít coi văn hoá hành vi là toàn bộ những hình thức hành vi, lối sống giao tiếp hàng ngày của con người lao động mà các chuẩn mực đạo đức và thẩm mỹ bao trùm lên các hình thức ứng xử ấy. Nếu các chuẩn mực đạo đức quy định hành vi ấn định cụ thể con người cần phải làm gì thì văn hoá hành vi vạch rõ cụ thể phải làm bằng cách nào. Các yêu cầu đạo đức tồn tại trong hành vi. Hình thức bên ngoài của hành vi con người ra sao, trong phạm vi nào - các chuẩn mực này hoà nhập một cách hữu cơ tự nhiên và đương nhiên với hình ảnh của nó trong cuộc sống để trở thành các quy tắc sống hàng ngày. Vì thế, văn minh hành vi còn được coi là văn hoá bên ngoài để phân biệt với văn hoá bên trong của con người bao gồm thế giới quan, niềm tin đạo đức, trình độ phát triển chung, kiến thức, hứng thú, nhu cầu… Giữa văn hoá bên trong và văn hoá bên ngoài của con người có mối liên hệ chặt chẽ, một sự thống nhất xác định. Mối quan hệ đó rất phức tạp và biện chứng có tính hai chiều. Văn hoá bên trong tuy quan trọng nhưng nó cần được biểu hiện ra bằng hành động cụ thể dưới những hình thức hành vi nhất định. Văn hoá bên trong quy định hành vi bên ngoài của con người. Hình thức hành vi là sự phản ánh cái bên trong chịu sự quy định của cái bên ngoài nhưng đồng thời nó lại tác động trở lại thế giới bên trong của chủ thể. Sự luộm thuộm trong sinh hoạt, thô lỗ cục cằn, thiếu tế nhị trong giao tiếp dần dần sẽ tạo nên những thói quen và phẩm chất cá nhân tương ứng. Vì vậy, sẽ là sai lầm nếu cho rằng phẩm chất bên trong mới là phẩm chất thực, còn hành vi bên ngoài chỉ là lớp vỏ hình thức. Chính quan niệm sai lầm này đã dẫn đến việc coi thường tuân thủ các hành vi văn hoá cũng như dẫn đến việc thiếu quan tâm giáo dục văn hoá hành vi cho thế hệ trẻ. Đồng thời, chống lại khuynh hướng giáo dục này sẽ tạo ra một thế hệ con người giả dối, tham lam ích kỷ. Những kẻ như vậy sẽ tạo ra một xã hội lừa bịp, giả tạo. Vậy chính các quy tắc hành vi văn hoá là một trong những con đường giúp con người giải quyết những vấn đề đó. Chúng ta tìm ra những hình thức hành vi phù hợp với các yêu cầu đạo đức xã hội, đáp ứng được những đòi hỏi thẩm mỹ và phản ánh một trình độ văn hoá do xã hội tích luỹ được trong quá trình phát triển của mình. Giữa văn hoá hành vi và kỷ luật có mối quan hệ chặt chẽ do được quy định bởi đạo đức xã hội. Do mối quan hệ chặt chẽ giữa kỷ luật và văn hoá hành vi mà việc giáo dục kỷ luật tự giác phải được gắn liền với văn hoá hành vi. Khi giải thích cho trẻ các yêu cầu kỷ luật đồng thời phải chỉ ra cách thực hiện chúng. Tóm lại: Văn hoá hành vi là một phần của đạo đức cộng sản. Giáo dục văn hoá hành vi là một trong những mặt giáo dục đạo đức thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo. 4. Giao tiếp Giao tiếp là một phạm trù rất quan trọng của tâm lý học. Trong lịch sử phát triển tâm lý học có rất nhiều quan điểm khác nhau về giao tiếp. Nhưng nổi lên là cuộc tranh luận gay gắt giữa hai trường phái tâm lý Xô viết sau : * Trường phái A. A Leonchep quan niệm giao tiếp là hệ thống những quá trình có mục đích và có động cơ đảm bảo sự tương tác giữa người này với người khác. Trong hoạt động thực tiễn các quan hệ xã hội nhân cách và các quan hệ tâm lý sử dụng các phương pháp đặc thù mà trước hết là ngôn ngữ . Ông cho rằng giao tiếp có cấu trúc chung của hoạt động, giao tiếp nào cũng có động cơ quy định sự hình thành và phát triển của nó và cũng đều được tạo ra bởi các hành động và thao tác. Họ cho rằng giao tiếp nào cũng mang đặc tính của hoạt động tức là cũng có cụ thể nhằm vào một đối tượng nào đó để tạo ra một sản phẩm. Nội dung của nó là sự nhận thức qua lại và trao đổi thông tin nhằm mục đích và xây dựng mối quan hệ qua lại có lơị đối với quá trình hoạt động chung. Ông đã chia quá trình giao tiếp ra làm 4 thời điểm : Một là tiếp xúc và liên hệ; hai là tác động lẫn nhau; ba là nhận thức lẫn nhau; bốn là mối quan hệ lẫn nhau. Còn BDPARUGHIN cho mối quan hệ giao tiếp là quá trình hai mặt của sự thông báo và tác động qua lại. Trong đó sự thông báo là nội dung và tác động qua lại là hình thức của giao tiếp. Phái B.E Lomop cho rằng giao tiếp không phải là một dạng hoạt động mà nó phải được xem như một phạm trù tương đối độc lập trong tâm lý học bên cạnh phạm trù hoạt động. Sự bất đồng giữa hai trường phái là ở chỗ giao tiếp không phải là một dạng của hoạt động. Tuy nhiên cả hai trường phái cũng như bất cứ một nhà tâm lý học chân chính nào cũng phải thừa nhận vai trò quan trọng của giao tiếp trong sự hình thành và phát triển nhân cách, đều phải coi giao tiếp là điều kiện tất yếu của sự hình thành và phát triển tâm lý con người. ở Việt Nam cũng có một số tác giả đưa ra những quan niệm của mình về giao tiếp như: Phạm Minh Hạc trong bài: “hoạt động - giao lưu - nhân cách” đã định nghiã: Giao tiếp là mối quan hệ hai chiều qua lại tạo một cái chung của các chủ thể của mối quan hệ đó. Đinh Trọng Lạc lại cho rằng : “giao tiếp là sự tiếp xúc nhau giữa các cá thể này và cá thể khác trong một cộng đồng xã hôi.” Trong cuộc sống, giao tiếp diễn ra rất phong phú, đa dạng về loại hình. Dựa trên những cơ sở phân loại khác nhau mà người ta có các cách phân loại khác nhau. Căn cứ vào phương tiện sử dụng để giao tiếp, người ta chia giao tiếp ra làm 3 loại là giao tiếp vật chất, giao tiếp ngôn ngữ và giao tiếp tín hiệu. Căn cứ vào tính chất trực tiếp hay gián tiếp khi giao tiếp mà người ta phân giao tiếp ra thành giao tiếp trực tiếp và giao tiếp gián tiếp. II. Thực tiễn việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo. Xuất phát từ nhận thức muốn nâng cao chất lượng về hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo thì phải có kế hoạch, có chương trình. Nội dung thực hiện việc giáo dục hành vi có văn hoá cho trẻ. Vì vậy, từ năm học 1996 - 1997 Bộ G D ĐT đã triển khai chuyên đề : “Giáo dục lễ giáo” tới 100% các trường mầm non trong toàn quốc. Các trường mầm non trên địa bàn huyện Lạc Sơn đã được thực hiện chuyên đề này theo sự chỉ đạo hướng dẫn của Bộ GDĐT và sở Giáo dục đào tạo Tỉnh Hoà Bình theo tinh thần công văn số 914/GDMN về việc triển khai “Chuyên đề giáo dục lễ giáo” ngày 16/2/1996. Để đội ngũ giáo viên nắm được mục đích, yêu cầu nội dung chuyên đề ta cần phải : 1. Quan tâm đến công tác bồi dưỡng. Các nhà trường đã tổ chức cho 100% cán bộ giáo viên và công nhân viên tham dự các lớp bồi dưỡng do sở, phòng, trường tổ chức. Sau mỗi đợt bồi dưỡng thì tổ chức cho tất cả chị em trao đổi, thảo luận, viết thu hoạch và đề xuất những kiến nghị. Ngoài bồi dưỡng theo lớp, các trường chỉ đạo bồi dưỡng qua thực tế ở các lớp điểm. Các trường thực hiện theo kế hoạch chỉ đạo trong 3 năm thực hiện chuyên đề sau đó là thực hiện sau chuyên đề. 2. Tạo môi trường giáo dục xung quanh trẻ : Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo có đặc điểm hay bắt chước. Vì vậy, phải tạo môi trường mẫu mực xung quanh trẻ: Phải có môi trường sư phạm, môi trường xanh- sạch - đẹp (có sân vườn, khu thiên nhiên, chuồng nuôi các con vật, đồ chơi đẹp…) chúng tôi còn yêu cầu giáo viên phải gương mẫu đối với trẻ đó là ăn mặc, cử chỉ, lời nói, tác phong phải nhẹ nhàng đúng mực để hình thành thói quen gương mẫu trước trẻ. Các trường đã phát động các đợt thi đua như : “Nói lời hay, làm việc tốt”; “Kỷ cương, tình thương, trách nhiệm”… Nhờ những đợt vận động như trên, dần dần những hành vi chưa gương mẫu của giáo viên, công nhân viên đã chấm dứt. 3. Giáo dục lễ giáo mọi lúc, mọi nơi. Đặc điểm tâm lý trẻ mầm non là mau nhớ nhưng cũng chóng quên nên việc giáo dục lễ giáo đối với trẻ phải được làm thường xuyên, liên tục và giáo dục ở mọi lúc, mọi nơi thông qua các hoạt động là biện pháp tốt nhất. Giáo dục lễ giáo thực hiện qua các hoạt động hàng ngày như đón trả trẻ, hoạt động vui chơi, lao động vệ sinh… đều là những dịp để trẻ bộc lộ cá tính, cách ứng xử lời ăn tiếng nói của mình. Yêu cầu giáo viên phải gần gũi để kịp thời phát hiện và uốn nắn những sai sót của trẻ trong hành vi, lời nói theo những tiêu chí của chuyên đề lễ giáo quy định. Hoạt động học tập chiếm ưu thế trong giáo dục lễ giáo. Cho nên, đội ngũ giáo viên đã lồng nội dung lễ giáo vào tất cả các môn học : làm quen văn học, giáo dục âm nhạc, làm quen môi trường xung quanh …Trong môn làm quen với văn học trẻ đóng vai nhân vật trong truyện. Thông qua việc nhập vai trẻ cảm ơn, xin lỗi thì hành động lời nói trong vai kịch đã trở thành hành động lời nói trong sinh hoạt hàng ngày. Như vậy, việc giáo dục lễ giáo đã thấm vào trẻ nhẹ nhàng và hấp dẫn. 4. Xây dựng góc lễ giáo. ở mỗi nhóm lớp đã xây dựng và sắp xếp một góc lễ giáo. ở góc này giáo viên đã sưu tầm sách, truyện có tranh ảnh nêu những gương tốt có giáo dục để trẻ xem và làm theo. Ngoài ra, ở góc khác cô trưng bày những sản phẩm đẹp do trẻ tự làm như các bức tranh, sản phẩm nặn, vẽ, xé dán… 5. Xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp. Để hỗ trợ cho chuyên đề các lớp đã chú ý tạo cảnh quan sân trường để thu hút trẻ; Hoa và cây cảnh được sắp xếp , chăm sóc chu đáo; Quy định chỗ để xe cho phụ huynh khi đưa con đến trường để tạo ý thức thực hiện nếp sống văn minh, trật tự; Tạo các thùng đựng rác và tạo thói quen bỏ rác vào thùng cho phụ huynh và học sinh; tạo góc thiên nhiên cây cảnh, nuôi các con vật gần gũi để trẻ làm quen như : Chim bồ câu, thỏ, gà, chim cảnh, cá cảnh… 6. Phối kết hợp với các bậc cha mẹ học sinh, các lực lượng xã hội để làm tốt việc giáo dục lễ giáo Công tác chăm sóc giáo dục trẻ mầm non nói chung và công tác giáo dục lễ giáo nói riêng muốn đạt kết quả tốt đều không thể không có sự ủng hộ của các bậc phụ huynh. Với nhận thức như vậy khi triển khai chuyên đề lễ giáo chúng tôi đã phối kết hợp chặt chẽ với các bậc phụ huynh. Khi bắt đầu thực hiện chuyên đề lễ giáo thì trong các buổi họp phụ huynh đầu năm giáo viên đã thông báo rõ mục đích yêu cầu, nội dung thực hiện của chuyên đề với phụ huynh và đề nghị các chi hội phụ huynh bàn biện pháp phối hợp và thực hiện. Thông báo trong các kỳ họp, đại hội phụ nữ xã, thôn xóm bởi phần đa phụ huynh trẻ đều tham gia sinh hoạt phụ nữ, để có biện pháp kết hợp giữa gia đình và nhà trường, giáo dục lễ giáo thông qua công tác tổ chức hội thi : “Gia đình và người công dân tý hon” ở các cấp. Với những phương pháp, biện pháp giáo viên đề cập với các bậc phụ huynh từ đó việc chăm sóc, giáo dục trẻ nâng lên rõ rệt như vệ sinh cá nhân trẻ, lời ăn tiếng nói, tác phong, cử chỉ của các bậc cha mẹ và đội ngũ giáo viên Sự mẫu mực, văn minh là tấm gương tốt cho trẻ noi theo. Chương II : Mô tả quá trình nghiên cứu I. Khảo sát nhận thức hành vi giao tiếp của trẻ 1. Đối tượng khảo sát : Để nắm vững thực trạng sự nhận thức hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo chúng tôi đã tiến hành khảo sát 25 cháu mẫu giáo lớn 5 - 6 tuổi của trương mầm non Tân Lập - Lạc Sơn - Hoà Bình 2. Nội dung khảo sát : - Khảo sát nhận thức của trẻ dựa trên các tiêu chí nhận thức hành vi giao tiếp có văn hoá bằng phương pháp quan sát trò chuyện. Tiêu chí 1 : Biết chào hỏi. Tiêu chí 2 : Biết thưa gửi. Tiêu chí 3 : Cảm ơn xin lỗi Tiêu chí 4 : Biết giữ gìn vệ sinh thân thể Tiêu chí 5 : Thích chơi với bạn Tiêu chí 6 : Không tranh giành đồ chơi với bạn Tiêu chí 7 : Biết yêu thương những người gần gũi. Tiêu chí 8 : Giao tiếp mạnh dạn, tự tin, lễ độ. Tiêu chí 9 : Biết yêu quý cây trồng Tiêu chí 10 : Biết giữ gìn vệ sinh môi trường Tiêu chí 11 : Biết giúp đỡ bạn Tiêu chí 12 : Giữ và cất lấy đồ chơi đúng nơi quy định. Tiêu chí 13 : Phân biệt được sai đúng. Tiêu chí 14 : Hứng thú chơi và học. Tiêu chí 15 : Hứng thú tham gia các hoạt động tập thể. Tổng số trẻ tôi chọn khảo sát nghiên cứu là 25 cháu. Stt Họ tên trẻ Ngày tháng năm sinh 1 Bùi ngọc anh 20/3/1998 2 Bùi khánh thương 20/10/1998 3 Bùi thị việt 10/2/1998 4 Bùi thị hương 3/2/1998 5 Bùi văn quyền 7/11/1998 6 Bùi anh tuấn 11/5/1998 7 Bùi thanh tùng 30/3/1998 8 Bùi văn trung 25/5/1998 9 Bùi minh phương 5/5/1998 10 Bùi thu huyền 30/8/1998 11 Bùi văn hùng 13/7/1998 12 Bùi việt chính 2/4/1998 13 Bùi hữu chính 27/1/1998 14 Bùi thị hà 1/10/1998 15 Bùi thị thảo 12/7/1998 16 Quách thị trang 22/6/1998 17 Bùi thị hảo 6/2/1998 18 Bùi văn đạt 6/6/1998 19 Bùi thuỷ quyên 16/3/1998 20 Bùi thị nga 4/8/1998 21 Bùi văn tài 10/12/1998 22 Bùi văn thành 15/8/1998 23 Bùi thị nguyệt 16/6/1998 24 Bùi văn minh 2/9/1998 25 Quách văn hoàng 30/7/1998 Trên đây là 25 cháu trong đối tượng nghiên cứu, các cháu ở cùng một độ tuổi nên việc theo dõi và đánh giá cũng thuận tiện. Ngoài việc quan sát theo dõi ghi chép tự nhiên ra tôi còn trò chuyện gợi ý để trẻ giao tiếp một cách thoải mái tự nhiên những điều trẻ biết, trẻ chơi và trẻ định làm. Khi xây dựng kế hoạch khảo sát trẻ, chúng tôi đề ra 15 tiêu chí trên để đánh giá phân loại theo 4 mức độ: tốt, khá, trung bình, yếu tương ứng với số điểm của từng tiêu chí, cụ thể như sau : Tốt : 4 điểm Trung bình : 2 điểm Khá : 3 điểm Yếu : 1 điểm Loại tốt : Trẻ có thói quen giao tiếp thường xuyên Loại khá : Trẻ đã có ý thức nhưng chưa có thói quen thường xuyên, đôi khi phải có sự nhắc nhở của người lớn. Loai trung bình : Khi thực hiện phải có sự nhắc nhở của người lớn trẻ mới làm nhưng chưa đạt yêu cầu. Loại Yếu : Trẻ chưa có ý thức thực hiện việc giao tiếp trong khi chơi và khi học. Sau thời gian khảo sát, nghiên cứu từng tiêu chí đến từng trẻ tôi đã ghi lại cụ thể như sau Stt Tên tiêu chí Loại tốt Loại khá TB Yếu T.số trẻ Tỷ lệ % T.số trẻ Tỷ lệ % T.số trẻ Tỷ lệ % T.số trẻ Tỷ lệ

File đính kèm:

  • docSKKN.doc