Năm học 2007- 2008 với quyết tâm thực hiện yêu cầu đổi mới nội dung phương pháp dạy và học của thầy và trò. Đảm bảo hướng dẫn và tích cực hoá hoạt động dạy và học, tạo sự chuyển biến thực sự về việc truyền đạt kiến thức và kĩ năng của chương trình học ở bộ môn Toán của tổ Tự nhiên có ứng dụng công nghệ thông tin. Bản thân tôi luôn trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học môn Toán và làm cho các em yêu thích môn học này. Đó là lý do để tôi chọn đề tài khoa học này.
2) Mục đích nghiên cứu:
Trường THCS ĐắkCấm là trường vùng ven không mấy thuận lợi, việc học của học sinh ít được quan tâm và đầu tư nên chất lượng thấp chưa đáp ứng với nhu cầu. Mỗi giáo viên có cách dạy riêng, có nhiều biện pháp khác nhau trong dạy học bộ môn Toán để nâng cao chất lượng bộ môn. Trong quá trình dạy học và qua dự giờ đồng nghiệp bản thân đã áp dụng một số biện pháp dạy học hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng bộ môn Toán.
18 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 12666 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biện pháp về dạy học nâng cao chất lượng môn Toán 7 ở trường THCS, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI KHOA HỌC:
BIỆN PHÁP VỀ DẠY HỌC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN TOÁN 7 Ở TRƯỜNG THCS
Năm học: 2007 - 2008
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1) Lý do chọn đề tài:
Năm học 2007- 2008 với quyết tâm thực hiện yêu cầu đổi mới nội dung phương pháp dạy và học của thầy và trò. Đảm bảo hướng dẫn và tích cực hoá hoạt động dạy và học, tạo sự chuyển biến thực sự về việc truyền đạt kiến thức và kĩ năng của chương trình học ở bộ môn Toán của tổ Tự nhiên có ứng dụng công nghệ thông tin. Bản thân tôi luôn trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học môn Toán và làm cho các em yêu thích môn học này. Đó là lý do để tôi chọn đề tài khoa học này.
2) Mục đích nghiên cứu:
Trường THCS ĐắkCấm là trường vùng ven không mấy thuận lợi, việc học của học sinh ít được quan tâm và đầu tư nên chất lượng thấp chưa đáp ứng với nhu cầu. Mỗi giáo viên có cách dạy riêng, có nhiều biện pháp khác nhau trong dạy học bộ môn Toán để nâng cao chất lượng bộ môn. Trong quá trình dạy học và qua dự giờ đồng nghiệp bản thân đã áp dụng một số biện pháp dạy học hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng bộ môn Toán.
3) Cơ sở và đối tượng nghiên cứu:
- Cơ sở nghiên cứu: Sách giáo khoa Toán 7, sách giáo viên Toán 7, tài liệu ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy môn Toán.
- Đối tượng: Học sinh khối 7 bậc THCS.
4) Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu chương trình Toán 7 bậc THCS.
- Nghiên cứu đối tượng học sinh khối 7 trường THCS ĐắêkCấm
- Nghiên cứu phương pháp dạy học Toán 7
5) Phương pháp nghiên cứu:
- Đối với giáo viên: Phương pháp điều tra.
Phương pháp khảo sát.
Phương pháp thăm lớp dự giờ.
- Đối với học sinh: Tìm hiểu quá trình học tập của các em trong những năm trước bằng phương pháp trò chuyện, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của các em về bộ môn...
6) Phạm vi nghiên cứu:
- Học sinh khối 7 trường THCS ĐắkCấm.
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
* Những nội dung cần nghiên cứu:
I. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH:
II. TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN:
III. NHỮNG BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN TOÁN CHO HỌC SINH:
1. Dạy nâng cao chất lượng môn Toán để phát triển tư duy, trí tuệ. Học sinh học tốt môn toán là điều kiện thuận lợi để học tốt các môn học khác.
2. Rèn luyện hạnh kiểm cho học sinh, dạy kiến thức nói chung và kiến thức toán học nói riêng là hai vấn đề có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình giáo dục và đào tạo.
3. Kế hoạch dạy ở lớp.
4. Kế hoạch ra bài tập về nhà.
5. Kế hoạch kiểm tra bài tập về nhà.
4. Kế hoạch làm việc theo nhóm.
6. Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong việc đổi mới phương pháp học tập của học sinh.
7. Kế hoạch phối hợp giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm, giữa giáo viên bộ môn với gia đình trong quá trình giáo dục đào tạo.
IV. KẾT QUẢ VẬN DỤNG CÁC BIỆN PHÁP
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
* Nội dung cụ thể:
I. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH:
Trong những năm gần đây, tình hình học sinh học yếu môn Toán chiếm tỉ lệ khá cao. Các em cảm thấy chán nản khi học môn học này bởi nhiều lý do khác nhau. Đây là vấn đề mà hầu như các giáo viên giảng dạy bộ môn Toán đều quan tâm và trăn trở làm thế nào để chất lượng môn Toán được nâng lên và làm thế nào để các em yêu thích môn học này.
Chúng ta đã biết môn Toán là một môn khoa học tự nhiên, để học tốt bộ môn này đòi hỏi các em không những chăm học mà cần phải biết tư duy sáng tạo. Do xã ĐắkCấm là một vùng có nền kinh tế tương đối khó khăn, cha mẹ các em chủ yếu làm nghề nông nên chưa có sự quan tâm, giúp đỡ các em trong việc học. Bên cạnh đó các em ngoài việc học trên lớp thì về nhà các em phải phụ giúp gia đình trong công việc nhà như làm nương rẫy, thả bò . . . vốn thời gian học của các em đã ít nay càng ít hơn. Nhưng khi các em đầu tư cho việc học của mình thì nguồn tài liệu giúp các em trong công việc học tập cũng còn nhiều hạn hẹp. Thầy cô, bạn bè ở xa nên có những vấn đề khó khăn trong việc học, những vấn đề các em chưa hiểu, chưa rõ các em lại càng không biết hỏi ai. Vốn đã học yếu nay lại càng học yếu hơn. Thực tế năm học 2006 – 2007 chất lượng môn Toán ở khối 7 cụ thể như sau:
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
2,3%
14,2%
28,2%
29,4%
25,9%
II. TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN:
1. Tồn tại:
- Học sinh đến lớp ít thuộc bài cũ và làm bài tập về nhà.
- Trong giờ học trên lớp học sinh còn thụ động, ít tham gia các hoạt động lĩnh hội kiến thức.
- Chất lượng môn Toán 7 của học sinh ở những năm học trước chưa cao, dẫn đến các môn học khác cũng có chất lượng thấp.
- Đạo đức của học sinh ngày càng đi xuống, đặc biệt là trong thời gian gần đây. Vì vậy rèn luyện hạnh kiểm cho học sinh, dạy kiến thức nói chung và kiến thức toán học nói riêng là hai vấn đề có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình giáo dục đào tạo.
2. Nguyên nhân:
- Kiến thức môn Toán ở các lớp dưới học sinh bị hỏng nhiều.
- Là vùng nông thôn, học sinh ngoài giờ học chính khóa trên lớp các em phải phụ giúp gia đình nên không tham gia đầy đủ các lớp học phụ đạo.
- Giáo viên chưa mạnh dạng xác định trọng tâm, cần xoáy sâu phù hợp đối tượng học sinh.
- Do thời gian của tiết dạy có hạn, đối tượng học sinh yếu kém lại đông. Việc kèm cặp học sinh của giáo viên còn hạn chế.
III. NHỮNG BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN TOÁN 7 CHO HỌC SINH:
1. Dạy nâng cao chất lượng môn Toán để phát triển tư duy, trí tuệ. Học sinh học tốt môn Toán là điều kiện thuận lợi để học tốt các môn học khác:
Môn Toán là một trong những môn học chính trong nhà trường phổ thông. Đặc điểm cấu tạo chương trình với nội dung Toán học có sự liên quan mật thiết, kết cấu chặt chẽ với nhau. Chúng sắp xếp theo một trình tự có logic từ đầu đến cuối, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp và sát với thực tế, gần gũi với đời sống. Do đặc thù của môn Toán nên mỗi bước suy diễn phải chỉ ra căn cứ cụ thể đòi hỏi học sinh phải nắm vững cái trước để có cơ sở suy diễn vấn đề sau. Với những điều như vậy khi giải quyết vấn đề toán học phải có sự logic chặt chẽ, liên tục để đi đến kết quả cuối cùng.
Giải một bài toán, tiếp thu một kiến thức mới tức là học sinh đã trải qua các thao tác tư duy: phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, cụ thể hóa. Do đó trong quá trình học toán học sinh luôn luôn phải suy nghĩ để hành động tìm ra giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề chiếm lĩnh kiến thức mới. Quá trình đó đã rèn luyện khả năng phát triển tư duy trí tuệ ở học sinh. Phải nói môn Toán là môn học đòi hỏi học sinh phải hoạt động, chịu khó suy nghĩ nhiều. Từ đó góp phần phát triển tư duy rất mạnh so với các môn học khác.
Phần nhiều học sinh học tốt môn Toán thì học tốt các môn học khác. Bởi lẽ các em đã có những khả năng tư duy toán học thì cũng có thể đủ khả năng để hiểu các vấn đề khác. Qua môn Toán đã rèn lại cho các em những đức tính: Chịu khó, cẩn thận, tỉ mỉ, thận trọng, chính xác, suy luận chặt chẽ … có phương pháp làm việc khoa học, sắp xếp thứ tự hợp lý trước sau để giải quyết vấn đề. Đó là đặc trưng nổi bật của môn Toán trong nhà trường phổ thông.
2. Rèn luyện hạnh kiểm cho học sinh, dạy kiến thức nói chung và kiến thức toán học nói riêng là hai vấn đề có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình giáo dục đào tạo:
Việc rèn luyện hạnh kiểm cho học sinh trong nhà trường cũng là một mặt quan trọng trong công tác giáo dục đào tạo, nó đi song đôi với việc dạy kiến thức cho học sinh. Hai mặt này có tác động qua lại, quan hệ với nhau trong quá trình học tập.
Một học sinh có hạnh kiểm tốt tức là biết vâng lời thầy cô giáo, chăm chỉ học tập, biết học hỏi giúp đỡ bạn bè ….. Đó cũng là một trong những yếu tố cần thiết để giúp học sinh học tập tốt. Trái lại, một học sinh ít chịu nghe lời thầy cô giáo, không chăm chỉ trong học tập, không học hỏi ở bạn bè, trong lớp thường gây ồn ào mất trật tự sẽ ảnh hưởng xấu đến quá trình học tập tiến bộ của các em. Vì vậy hạnh kiểm cũng là một trong những điều kiện quan trọng để thúc đẩy quá trình học tập cho học sinh. Đó cũng là một tác động mạnh mẽ để học sinh học tập tiến bộ, nắm kiến thức vững chắc. Đặc biệt, môn Toán cần có sự cố gắng liên tục từ đầu đến cuối để có nền tảng vững vàng học tập tốt các lớp sau này.
Một học sinh đã học tốt những môn học nói chung và môn toán nói riêng, tức là học sinh đó đã nắm được các kiến thức tương đối chắc từ đó gây cho học sinh hứng thú trong học tập. Từ đó học sinh có thể tự nhận thức, nhận biết đượcviệc học là cần thiết, đôi khi trở thành nhu cầu tìm tòi, học hỏi. Đó cũng là một yếu tố tích cực để rèn luyện cho học sinh có hạnh kiểm tốt: Siêng năng, chăm chỉ, chịu khó và nghe lời thầy cô giáo.
Từ các ý trên ta thấy việc dạy cho học sinh nắm vững chắc kiến thức toán học cũng là một trong những điều kiện quan trọng để rèn luyện hạnh kiểm học sinh trong nhà trường. Làm sao trong quá trình dạy học chúng ta không để cho học sinh có chiều hướng bị tụt hậu về kiến thức vì như vậy thường kéo theo tụt hậu về hạnh kiểm. Chúng ta, với tinh thần trách nhiệm của mình cố gắng giúp học sinh có chiều hướng phát triển liên tục, vững chắc. Từng bước trong quá trình dạy học cũng là đã rèn luyện hạnh kiểm đi song song trong quá trình học tập của từng đối tượng học sinh. Có như vậy mới đảm bảo tính giáo dục toàn diện trong nhà trường, đặc biệt là lứa tuổi học sinh THCS hình thành nhân cách các em vào giai đoạn ban đầu.
3.Kế hoạch dạy ở lớp:
Vấn đề dạy một tiết Toán đạt tốt, học sinh nắm vững kiến thức của một tiết học thì việc đầu tư vào một giáo án là không thể thiếu được trong quá trình dạy học. Do đặc điểm của môn Toán là một môn học rất gần gũi với thực tế đời sống nên người giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo trong từng tiết dạy của mình để làm nổi rõ sự kết hợp, gắn bó của Toán học với cuộc sống hàng ngày. Ngôn ngữ phải dễ hiểu để học sinh dễ nhìn nhận, chiếm lĩnh tri thức mới. Với phương pháp dạy học mới hiện nay, chúng ta cần thiết kế một hệ thống câu hỏi logic, gợi mở từ câu đầu tiên đến câu cuối cùng để học sinh tự tìm kiếm ra kiến thức mới. Từ đó kiến thức mới sẽ được học sinh khắc sâu , nhớ lâu và sẽ gây hứng thú trong học tập.
Dạy môn toán cần dạy cho học sinh nắm chắc các khái niệm, các qui ước, các ký hiệu, các tính chất … Nó là mấu chốt để học sinh khỏi mơ hồ, lẫn lộn giữa cái này với cái khác, có suy nghĩ lệch lạc, quan niệm tách rời xa với thực tế đời sống. Chẳng hạn, dạy về chu vi một hình, học sinh phải biết chu vi một hình là gì ? Tại sao hình vuông lại lấy (cạnh x 4) còn chu vi hình chữ nhật lại tính (dài + rộng )x2… Các vấn đề đó rất gần gũi với đời sống, nếu chúng ta không để ý tới thì đôi khi học sinh chỉ thực hành một cách máy móc, rập khuôn các công thức do vậy mau quên, kiến thức Toán học không được sâu sắc.
Khi dạy Toán cần có đồ dùng dạy học trực quan, nếu có điều kiện cần phát huy mặt này. Chẳng hạn khi dạy bài “ Tính chất ba đường trung tuyến của tam giác ” từng học sinh phải có thước thẳng để học sinh nắm chắc cách đo, kích thước của mỗi đơn vị độ dài, một tam giác bằng giấy, mảnh giấy kẻ ô vuông; giáo viên cũng cần chuẩn bị các dụng cụ như: Thước thẳng, tam giác, giấy kẻ ô vuông… Khi dạy tiết thực hành ngoài trời xác định khoảng cách giữa hai địa điểm A và B trong đó có một địa điểm nhìn thấy nhưng không đến được, giáo viên phải chuẩn bị giác kế để học sinh biết giác kế là gì ? Đặt giác kế tại điểm A vạch theo đường xy vuông góc với AB tại A, ta phải đặt giác kế ra sao, dùng thước dây xác định E là trung điểm của AD trên mặt đất như thế nào ?…
Để tạo tình huống gây trí tò mò cho học sinh khi dạy chứng minh định lí “ Tổng các góc trong một tam giác bằng 1800”, giáo viên phải chuẩn bị thước đo góc và bảng phụ có vẽ sẵn các tam giác có nhiều hình dạng khác nhau. Vào đầu tiết học giáo viên cho lần lượt một số học sinh lên đo các góc của tam giác. Gợi ý cho các em phát hiện một điều thú vị là “ Tổng các góc trong một tam giác bằng 1800 ”. Lúc này đặt vấn đề cần thiết chứng minh điều thú vị đó.
Vì vậy đầu tư vào việc chuẩn bị đồ dùng trực quan cho một tiết dạy là hết sức cần thiết để học sinh hiểu được kiến thức một cách sâu sắc, sát với thực tế, hiểu được các kiến thức đó có được do đâu ? Dựa trên cơ sở nào ?… Còn rất nhiều các vấn đề khác nếu được đầu tư chu đáo sẽ tạo nên một tiết học hấp dẫn, dễ học và gây hứng thú cho học sinh trong học tập.
Một vấn đề cần thiết nữa đặt ra là khi dạy một tiết học người giáo viên phải nắm bắt kịp thời số học sinh hiểu bài và chưa kịp hiểu bài. Từ đó có biện pháp giúp đỡ số học sinh chưa kịp hiểu bài. Sau mỗi tiết học đều phải có phần củng cố và luyện tập; bằng những câu hỏi trọng tâm, cơ bản tiết học người giáo viên phải quan sát từng đối tượng học sinh; chú ý đến học sinh yếu, cá biệt để nắm bắt tình hình tiếp nhận kiến thức trong nội dung bài học; bài luyện tập tại lớp cần được nâng dần từ dễ đến khó, từ những bài toán rất đơn giản đến phức tạp. Ngoài ra người giáo viên phải tính đến việc kiểm tra một lúc được nhiều học sinh; nhất là yêu cầu tối thiểu những nội dung cần đạt được. Chẳng
hạn khi dạy bài “ Luỹ thừa của một số hữu tỉ” giáo viên phải đưa ra một số bài tập nâng cao dần như sau:
Thực hiện các phép tính sau:
a) 23 b) (- 5)3
c) ( 23 )2 d)
e) (1,5)3.8 f)
g) h)
i) v.v…….
Các bài tập a, b, c, d dành cho học sinh yếu và kiểm tra một lúc đồng thời 4 học sinh lên bảng. Là các bài tập yêu cầu tối thiểu sau một tiết dạy học sinh phải tự làm được.
Khi giảng bài “Quan hệ giữa góc và cạnh đối diện trong một tam giác”, kiến thức học sinh cần nắm được trong tiết học này là nội dung định lí 1 và định lí 2. Định lí 2 là định lí đảo của định lí 1, từ đó trong tam giác ABC, AC > AB . Nội dung định lí 1, định lí 2 được phát biểu như sau:
Định lí 1: Trong một tam giác, góc đối diện với cạnh lớn hơn là góc lớn hơn.
Định lí 2: Trong một tam giác cạnh đối diện với góc lớn hơn là cạnh lớn hơn.
Để giúp học sinh nắm được định lí, cách vận dụng định lí để giải bài tập, yêu cầu tối thiểu để học sinh đạt được, giáo viên ra một bài tập:
Bài tập 1: So sánh các góc của tam giác ABC, biết rằng:
AB = 2cm; BC = 4cm; AC = 5cm
Bài tập 2: So sánh các cạnh của tam giác ABC, biết rằng:
Với bài tập này học sinh vận dụng trực tiếp định lí 1 và định lí 2 để giải:
Bài tập 1:
Áp dụng định lí 1, ta có:
Tronghay 2cm < 4cm < 5cm
Bài tập 2: Áp dụng định lí 2, ta có:
Trong
Hay
do đó hay 450 < 550 < 800
AC < AB < BC
Qua bài tập này giáo viên rút ra nhận xét cho học sinh thấy: Trong một tam giác nếu biết độ dài ba cạnh của tam giác thì ta có thể so sánh ba góc của tam giác đó và nếu biết số đo hai góc của một tam giác thì ta có thể so sánh ba cạnh của tam giác đó.
Sau khi học sinh nắm được bài tập này, giáo viên cho một bài tập nâng cao hơn như sau:
Ba bạn Hạnh, Nguyên, Trang đi đến trường theo ba con đường AD, BD, CD ( hình vẽ sau). Biết rằng ba điểm A, B, C cùng nằm trên một đường thẳng và là góc tù. Hỏi ai đi xa nhất, ai đi gần nhất ? Hãy giải thích ?
Để giúp đỡ nhau trong học tập, học sinh khá giúp học sinh yếu, giáo viên có thể tạo ra các cặp học tập khá yếu. Trong những lúc rãnh rỗi, trong những giờ giải lao, kể cả ở nhà chỗ nào chưa hiểu bạn yếu có thể hỏi bạn khá. Khi đã tổ chức làm thì phải có những hình thức tuyên dương điển hình, khuyến khích thi đua với nhau, có kiểm tra việc tiến bộ của học sinh yếu với mục đích các em đều học được môn Toán và có phong trào học tập sôi nổi.
Trong sách bồi dưỡng môn Toán cấp tiểu học cho giáo viên có viết: “Số học là hạt nhân của chương trình toán”. Vì vậy người giáo viên cần dạy học sinh nắm vững chắc về cấu trúc của số học và các phép tính trên tập N, tập Z, tập Q. Do đó chương trình Toán lớp 6 là nền tảng để có cơ sở học các nội dung khác. Trong chương trình có những chỗ căn bản, trọng tâm nên giáo viên phải thường xuyên ôn luyện và ra bài tập thật nhiều để học sinh thực hành để kiến thức mới được khắc sâu và lâu quên. Giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh cách ôn tập chương, cách liệt kê các công thức toán để tóm tắt và chốt lại những điểm trọng tâm vận dụng vào giải bài tập.
Tóm lại trong quá trình dạy học sự nhiệt tình, chịu khó, tinh thần trách nhiệm của người giáo viên là đều không thể thiếu được để dạy nâng cao chất lượng học tập cho học sinh. Nhưng đó cũng chỉ là một mặt, là điều kiện cần nhưng chưa đủ để học sinh đạt chất lượng cao. Phải có sự kết hợp, vận dụng sáng tạo trong phương pháp dạy học nhất là phương pháp dạy học mới hiện nay. Người giáo viên cần chú ý trong từng trường hợp, từng đối tượng học sinh để học sinh tự lực của mình có điều kiện phát triển khả năng tư duy, chiếm lĩnh kiến thức.
4.Kế hoạch ra bài tập về nhà:
Môn Toán là môn học rất cần đến việc thực hành, luôn luôn phải có sự kết hợp với nhau giữa lý thuyết và thực hành. Qua thực hành mới củng cố được lý thuyết, khắc sâu kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán và phát triển tư duy. Ở phạm vi SGK sau mỗi bài học đều có một lượng bài tập để học sinh thực hành, luyện tập nhưng đôi khi còn ít, hệ thống bài tập chưa đủ cho học sinh yếu tập làm quen từ những bài tập rất dễ để từng bước nâng dần giải những bài tập khó hơn. Do đó trong từng tiết dạy người giáo viên có thể ra thêm bài tập tùy tình hình lớp học để học sinh có điều kiện tiếp xúc với khâu thực hành và nội dung bài tập phong phú hơn.
Những số tiết cơ bản trong chương trình rất cần thiết. Vì vậy vấn đề luyện tập thật nhiều để học sinh nhớ lâu, củng cố lý thuyết được bền vững là rất cần thiết.
Nếu khâu thực hành làm ít thì rõ ràng kiến thức chóng quên hơn, lí thuyết không được khắc sâu đậm nét. Chẳng hạn khi dạy cộng, trừ, nhân, chia số hữu tỉ ở học sinh lớp 7, cần có lượng bài tập thật nhiều để qua bài tập học sinh mới được khắc sâu kiến thức. Khi dạy học sinh mới giải toán hình, nếu học sinh ít giải bài tập, ngại thực hành thì chắc chắn các em không nhạy bén,vận dụng lý thuyết ít được linh hoạt vào giải bài tập. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến đợt kiểm tra, đợt thi, làm giảm sút chất lượng trầm trọng.
Nói chung do đặc điểm của môn Toán là môn học không thể nói suông, nói và làm phải luôn đi song song với nhau. Vì vậy, cần thực hành để rèn luyện kỹ năng, khắc sâu kiến thức và phát triển tư duy.
5.Kế hoạch kiểm tra bài tập về nhà:
Kiểm tra bài cũ, kiểm tra bài tập về nhà là việc rất cần thiết. Nếu chúng ta kiểm tra thường xuyên thì việc học bài cũ và làm bài tập ở nhà của các học sinh sẽ chu đáo hơn. Ngược lại, nếu bị xem nhẹ thì việc chuẩn bị bài tập, học bài cũ sẽ hạn chế và chất lượng học tập giảm rõ rệt.
Ở lứa tuổi của các em nhất là đầu cấp học đôi khi nhận thức còn kém, học là để đối phó thầy cô giáo, học là để giáo viên kiểm tra bài mình đã làm, đã thuộc. Chưa có sự hiểu biết phải tự giác học để hiểu, để bản thân mình được tiến bộ. Do vậy kiểm tra bài cũ thường xuyên là biện pháp để học sinh tự giác học bài và làm bài ở nhà trước khi đến lớp. Từ đó tạo nên không khí lớp học nghiêm túc, trật tự, mọi học sinh đều ở tư thế chuẩn bị giáo viên sẽ kiểm tra mình.
Thời gian kiểm tra bài cũ ở đầu các tiết học rất có giới hạn, không thể kiểm tra hết được. Vì vậy muốn nắm được việc làm bài tập ở nhà của học sinh một cách toàn diện người giáo viên phải nghĩ ra kế hoạch phân công các tổ trưởng chịu trách nhiệm kiểm tra từng thành viên trong tổ ở đầu buổi học. Đầu tiết học các tổ trưởng báo cáo tình hình chuẩn bị bài tập ở nhà của từng tổ viên. Học sinh nào chưa làm bài tập ở nhà sẽ có biện pháp xử phạt thích đáng. Trong trường hợp học sinh không làm bài tập ở nhà mà lên lớp mượn vở bạn chép cũng được báo lại và sẽ xử phạt nặng hơn.
Sau khi các tổ trưởng báo cáo lại xong giáo viên mới kiểm tra bài cũ. Nếu kiểm tra có gì không khớp với báo cáo của tổ trưởng thì sẽ có biện pháp xử phạt tổ trưởng vì chưa thực hiện đúng với sự phân công. Có như vậy trong từng tiết học mới sớm phát hiện được những học sinh lười học bài, lười làm bài tập giúp giáo viên sớm có biện pháp xử lý và tìm ra nguyên nhân cụ thể để sớm khắc phục.
Với kế hoạch kiểm tra bài tập ở nhà như trên, người giáo viên đã kiểm tra được toàn diện học sinh. Phải làm thường xuyên, liên tục mới thấy được kết quả nâng cao chất lượng rõ rệt tạo thành nếp thi đua học tập sôi nổi ở học sinh. Học sinh hứng thú học tập, giáo viên biết được các học sinh cá biệt của mình. Khi trở thành thói quen, giáo viên làm việc rất nhẹ nhàng nhưng đạt hiệu quả cao. Từ các báo cáo tổng quát đến cụ thể tình hình học tập của học sinh, giáo viên kịp thời nắm bắt được lỗ hổng của học sinh mà kịp thời sửa chữa.
Tóm lại, những kế hoạch ở lớp, kế hoạch ra bài tập về nhà đến kế hoạch kiểm tra bài tập về nhà là những suy nghĩ tìm ra phương pháp làm việc của bản thân trong thời gian qua. Với những kế hoạch đó bản thân tôi đã làm nhiều năm và thấy chất lượng dạy học tăng rõ rệt. Nhưng dù sao thì tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình trong công tác, hăng say trong nghề nghiệp là không thể thiếu được trong quá trình giảng dạy.
Kế hoạch làm việc theo nhóm:
- Đối với giáo viên: Cần phải lập kế hoạch, chuẩn bị trước vấn đề cần thảo luận, chuẩn bị nội dung liên quan và phương tiện hỗ trợ.
Dựa vào tình hình thực tế của lớp học để có kế hoạch chia nhóm, phân tổ. Trong kế hoạc chia nhóm, cần lưu ý xen kẽ học sinh khá, học sinh trung bình với học sinh yếu. Cũng trong kế hoạc chia nhóm, có thể chia nhóm 2 – 4 – 6 – 8 tuỳ vào đặc trưng của từng môn hay tuỳ thuộc vấn đề thảo luận.
Hướng dẫn học sinh học cách thu thập các nguồn tài liệu từ sách báo, từ thư viện, từ mạng hoặc các
File đính kèm:
- SKKN nang cao chat luong mon toan 7.doc