Chủ đề “Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về ngôn ngữ trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.”

Ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan trọng nhất của ý thức giác ngộ dân tộc và cũng là phương tiện thống nhất dân tộc. Ở các quốc gia đa dân tộc, đa văn hoá và đa ngôn ngữ cùng với vấn đề dân tộc và tôn giáo, ngôn ngữ càng trở nên có vai trò hết sức quan trọng. Chính vì thế, ở bất kì quốc gia nào, nhà n-ước cũng luôn quan tâm đến chính sách ngôn ngữ, và chính sách ngôn ngữ luôn luôn đ¬ược coi là một phần không thể thiếu trong chính sách dân tộc.

Xuất phát từ nhu cầu cần phải đánh giá chính xác và khách quan thực trạng của việc thực hiện chính sách ngôn ngữ trong thời gian qua, tình hình thực tế của cảnh huống ngôn ngữ trong 10 năm sắp tới của đất nước, Viện Khoa học xã hội Việt Nam đã giao cho Viện Ngôn ngữ học tổ chức hội thảo khoa học toàn quốc với chủ đề “Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về ngôn ngữ trong thời kì CNH,HĐH và hội nhập quốc tế.”

 

doc47 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2625 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chủ đề “Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về ngôn ngữ trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.”, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan trọng nhất của ý thức giác ngộ dân tộc và cũng là phương tiện thống nhất dân tộc. Ở các quốc gia đa dân tộc, đa văn hoá và đa ngôn ngữ cùng với vấn đề dân tộc và tôn giáo, ngôn ngữ càng trở nên có vai trò hết sức quan trọng. Chính vì thế, ở bất kì quốc gia nào, nhà nước cũng luôn quan tâm đến chính sách ngôn ngữ, và chính sách ngôn ngữ luôn luôn được coi là một phần không thể thiếu trong chính sách dân tộc.  Xuất phát từ nhu cầu cần phải đánh giá chính xác và khách quan thực trạng của việc thực hiện chính sách ngôn ngữ trong thời gian qua, tình hình thực tế của cảnh huống ngôn ngữ trong 10 năm sắp tới của đất nước, Viện Khoa học xã hội Việt Nam đã giao cho Viện Ngôn ngữ học tổ chức hội thảo khoa học toàn quốc với chủ đề “Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về ngôn ngữ trong thời kì CNH,HĐH và hội nhập quốc tế.” I. Tình hình xây dựng, cải tiến và sử dụng chữ viết của các dân tộc thiểu số Cuộc điều tra khảo sát về chữ viết của các dân tộc thiểu số tiến hành vào cuối năm 1977 cho thấy tình hình chung như sau: 1. Tiếng và chữ phổ thông ngày càng được phổ cập sâu rộng trong đồng bào các dân tộc thiểu số với tư cách là ngôn ngữ chung của cả nước, đã và đang góp phần thiết thực thúc đẩy sự phát triển các mặt ở các vùng dân tộc thiểu số. Tuy vậy, ở một số nơi, nhất là ở vùng cao, việc phổ cập tiếng và chữ phổ thông chưa được tiến hành tốt. 2. Tiếng nói và chữ viết hiện có của các dân tộc thiểu số được Nhà nước tôn trọng, duy trì và giúp đỡ phát triển, do đó đã góp phần xoá mù chữ dân tộc ở một số vùng mà đồng báo ít biết hoặc không biết tiếng phổ thông; đã đáp ứng yêu cầu của đồng bào về việc dùng chữ dân tộc ghi sổ sách, viết thư từ, chép tư liệu văn học dân gian, và tiến hành các công tác thông tin, tuyên truyền ở địa phương. Một số chữ dân tộc đã được dạy và học ở các trường phổ thông. Tuy nhiên việc sử dụng tiếng và chữ dân tộc trong các công tác giáo dục, văn hoá văn nghệ, thông tin, tuyên truyền, v.v... còn chưa sát với tình hình thực tế, chưa phục vụ tốt yêu cầu phát triển đồng thời chữ phổ thông và chữ dân tộc; việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và soạn sách giáo khoa bằng chữ dân tộc cũng chưa được tốt. 3. Nhiều dân tộc thiểu số chưa có chữ viết có yêu cầu xây dựng bộ vần chữ riêng để có thể ghi tiếng nói của dân tộc mình. Một số dân tộc thiểu số đã có chữ viết lối cổ muốn có chữ viết mới theo chữ cái La tinh cho gần gũi với chữ phổ thông. Những yêu cầu này cần được coi trọng và từng bước giải quyết. II. Chủ trương đối với chữ viết của các dân tộc thiểu số Nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho các dân tộc thiểu số ở nước ta phát triển nhanh về kinh tế và văn hoá, thực hiện ngày càng đầy đủ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, đáp ứng yêu cầu chính đáng của dồng bào các dân tộc thiểu số và tăng cường sự thống nhất của Tổ quốc, Hội đồng Chính phủ quyết định: 1. Tiếng và chữ phổ thông và ngôn ngữ chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nó là phương tiện giao lưu không thể thiếu được giữa các địa phương và các dân tộc trong cả nước, giúp cho các địa phương và các dân tộc có thể phát triển đồng đều các mặt kinh tế, văn hoá, khoa học kĩ thuật, v.v... tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân và thực hiện quyền bình đẳng dân tộc. Vì vậy, mọi công dân Việt Nam đều có nghĩa vụ và quyền lợi học tập và sử dụng tiếng và chữ phổ thông. 2. Tiếng nói và chữ viết của mỗi dân tộc thiểu số ở Việt Nam vừa là vốn quý của các dân tộc đó, vừa là tài sản văn hoá chung của cả nước. Ở các vùng dân tộc thiểu số, tiếng và chữ dân tộc được dùng đồng thời với tiếng và chữ phổ thông. Cùng với chữ phổ thông, chữ dân tộc tham gia vào nhiều mặt hoạt động ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là trong việc giữ gìn và phát triển vốn văn hoá của các dân tộc. Vì thế, đi đối với việc hoàn thành phổ cập tiếng và chữ phổ thông, cần ra sức giúp đỡ các dân tộc thiểu số xây dựng mới hoặc cải tiến chữ viết của từng dân tộc. Các dân tộc thiểu số chưa có chữ viết đều được giúp đỡ xây dựng chữ viết theo hệ chữ La tinh. Các dân tộc thiểu số đã có chữ viết kiểu cổ, nếu có yêu cầu, thì được giúp đỡ xây dựng chữ viết mới theo hệ chữ La tinh. Để việc dạy và học chữ dân tộc và chữ phổ thông được dễ dàng, nhanh chóng, thuận tiện cho cả đồng bào các dân tộc thiểu số và đồng bào người Kinh muốn học chữ dân tộc, cần xây dựng mới hoặc cải tiến chữ viết dân tộc theo bộ vần, gần gũi với bộ vần chữ phổ thông. Trong khi chữ viết mới của các dân tộc thiểu số được sử dụng phổ biến, các chữ dân tộc kiểu cổ và kho tàng sách cổ của các dân tộc vẫn được giữ gìn và khai thác. 3. Ở vùng dân tộc thiểu số, chữ dân tộc được dạy xen kẽ với chữ phổ thông ở cấp I trong các trường phổ thông và bổ túc văn hoá, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người học vừa hiểu biết chữ dân tộc, vừa nắm được nhanh chữ phổ thông. a. Nếu đã có chữ viết dân tộc rồi, thì ở những nơi người dân tộc thạo tiếng phổ thông, có thể dạy thẳng bằng tiếng và chữ phổ thông, đồng thời dành một số tiết để dạy chữ dân tộc; ở những nơi người dân tộc ít biết hoặc không biết tiếng phổ thông, cần dạy chữ dân tộc xen kẽ với tiếng và chữ phổ thông, dùng chữ dân tộc để giúp cho người học từng bước tiếp thu tiếng và chữ phổ thông, tiến lên có đủ khả năng học thẳng bằng chữ phổ thông ở các cấp học trên. b. Nếu chưa có chữ viết dân tộc, thì ở những nơi người dân tộc thạo tiếng phổ thông, có thể dạy thẳng bằng tiếng và chữ phổ thông; ở những nơi người dân tộc ít biết hoặc không biết tiếng phổ thông, cần dạy chữ phổ thông và giảng bằng tiếng dân tộc, cho đến khi người học nắm được tiếng và chữ phổ thông. c. Ở cấp II của các trường phổ thông thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nếu đã có chữ viết dân tộc, có thể tổ chức dạy môn ngữ văn dân tộc. d. Những cán bộ và giáo viên hoạt động ở vùng dân tộc thiểu số nhất thiết phải học tiếng và chữ của dân tộc thiểu số nơi mình công tác. 4. Cần có kế hoạch đẩy mạnh việc sưu tầm và khai thác vốn văn hoá, văn nghệ của các dân tộc thiểu số, cũng như tổ chức phòng trào sáng tác văn nghệ bằng tiếng và chữ dân tộc phục vụ tốt sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cần dùng cả chữ dân tộc và chữ phổ thông trong việc phổ biến những tác phẩm văn học của các dân tộc thiểu số, nhất là những tác phẩm tiêu biểu. Để tạo điều kiện tăng cường việc khai thác vốn văn hoá và phát huy truyền thống văn hoá của các dân tộc thiểu số, các trường đại học và các viện nghiên cứu khoa học có liên quan cần đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giỏi về ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, đẩy mạnh công tác nghiên cứu tiếng nói, chữ viết, văn học, v.v... của các dân tộc thiểu số. Trong công tác thông tin, tuyên truyền và văn hoá của Nhà nước ở vùng các đồng bào dân tộc thiểu số, phải cố gắng kết hợp sử dụng tiếng, chữ phổ thông và tiếng, chữ dân tộc, giúp cho đồng bào tiếp thu được dễ dàng, nhanh chóng. Trong giao dịch thư tín và trong đơn từ quan hệ với các cơ quan nhà nước, đồng bào các dân tộc thiểu số được dùng chữ viết dân tộc; các cơ quan nhà nước có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết tốt những đơn từ đó. III. Tổ chức thực hiện 1. Bộ Giáo dục có trách nhiệm: a. Hướng dẫn các tỉnh xây dựng kế hoạch dạy chữ phổ thông và chữ dân tộc trong các trường, lớp phổ thông và bổ túc văn hoá thích hợp với tình hình thực tế và yêu cầu của từng vùng, từng dân tộc; b. Xây dựng chương trình học, soạn giáo trình và những sách giáo khoa cần thiết bằng chữ dân tộc, đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, hướng dẫn kế hoạch và phương pháp dạy xen kẽ chữ dân tộc với chữ phổ thông trong các trường, lớp phổ thông và bổ túc văn hoá cho sát hợp với tình hình. 2. Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam có trách nhiệm: a. Hướng dẫn uỷ ban nhân dân các tỉnh thực hiện việc cải tiến hoặc xây dựng mới các loại chữ dân tộc; b. Biên soạn các sách từ điển, hội thoại, v.v... và bồi dưỡng cán bộ phục vụ cho yêu cầu phát triển đồng thời chữ phổ thông và chữ dân tộc ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số; c. Phối hợp các ngành có liên quan để tiến hành việc nghiên cứu các chữ dân tộc cổ, khai thác các kho tàng tư liệu cổ của các dân tộc thiểu số. 3. Bộ Đại học và Trung học Chuyên nghiệp có trách nhiệm tổ chức việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ khoa học đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, khai thác, giới thiệu văn hoá, văn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số. 4. Bộ Văn hoá và Thông tin có trách nhiệm chỉ đạo các tỉnh: a. Phát động phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, phát huy tác dụng của chữ dân tộc trong các hoạt động này; b. Mở rộng việc in và phát hình các loại văn hoá phẩm bằng chữ dân tộc và bằng hai thứ chữ phổ thông và dân tộc; c. Tổ chức việc sử dụng đồng thời tiếng, chữ phổ thông và tiếng, chữ dân tộc trong công tác thông tin, tuyên truyền, triển lãm, thuyết minh phim, v.v... ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. 5. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, theo sự hướng dẫn của các ngành nói trên,có trách nhiệm: a. Căn cứ vào tình hình thực tế của tỉnh, yêu cầu và nguyện vọng của đồng bào các dân tộc thiểu số trong tỉnh, đề ra chủ trương cụ thể của tỉnh và xây dựng kế hoạch chỉ đạo các ngành, các cấp trong tỉnh thực hiện tốt quyết định này; b. Quyết định các phương án cải tiến hoặc xây dựng mới các chữ dân tộc thiểu số trong tỉnh. 6. Uỷ ban Dân tộc của Chính phủ giúp Hội đồng Chính phủ theo dõi, kiểm tra việc thực hiện quyết định này, để xuất với Chính phủ, các bộ và uỷ ban nhân dân các tỉnh những vấn đề cần xem xét và giải quyết. Điều 7, Luật Giáo dục năm 2005, quy định về “Ngôn ngữ dùng trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác; dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số; dạy ngoại ngữ”. “1. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Căn cứ vào mục tiêu giáo dục và yêu cầu cụ thể về nội dung giáo dục, Thủ tướng Chính phủ quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. 2. Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, giúp cho học sinh người dân tộc thiểu số dễ dàng tiếp thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số được thực hiện theo quy định của Chính phủ. 3. Ngoại ngữ quy định trong chương trình giáo dục là ngôn ngữ được sử dụng phổ biến trong giao dịch quốc tế. Việc tổ chức dạy ngoại ngữ trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác cần bảo đảm để người học được học liên tục và có hiệu quả”. Trích nguyên văn từ Luật Giáo dục (được thông qua ngày 14/6/2005 tại kì họp thứ 7, Quốc hội Khoá XI). Nxb Chính trị Quốc gia, H., 2005, trang 11–12. Đề tài: Chính sách văn hóa dân tộc thiểu số ở vùng Bắc Trung Bộ, thực trạng và giải pháp. LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam là nước có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống, vì thế vấn đề dân tộc mà trong đó trước hết là vấn đề ngôn ngữ văn hóa các dân tộc đã, đang và sẽ là vấn đề nóng bỏng của đất nước ta. Vì thế có một chính sách ngôn ngữ văn hóa dân tộc hợp lí là một nhiệm vụ thực sự cấp bách, một công việc không ít khó khăn. Bởi lẽ các dân tộc rất đa dạng về mặt dân số, trình độ phát triển xã hội không đồng đều nhau, điều kiên tự nhiên nơi các dân tộc cư trú lại rất khác nhau. Trong khi đó, mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa của Nhà nước ta đòi hỏi các dân tộc phải phát triển như nhau. Đây cũng chính là nhân tố tác động đến việc hoạch định chính sách cũng như việc thực thi các nhiệm vụ để hiện thực hóa chính sách ngôn ngữ văn hóa dân tộc. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của xã hội và là công cụ tư duy của con người. Cho đến hiện nay và trong tương lai, không ai có thể phủ nhận được vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển văn hóa của từng cá nhân con người trong một tập thể, trong một dân tộc. Xuất phát từ vai trò có ý nghĩa to lớn ấy, chính sách văn hóa dân tộc cần phải được quan tâm, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động.Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn hơn về vấn đề này, người viết lựa chọn đề tài “Chính sách văn hóa dân dộc ở vùng Bắc Trung Bộ, thực trạng và giải pháp” Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở những nguyên lý và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin , căn cứ vào một số quan điểm trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986), đặc biệt là những vấn đề lý luận và từ thực tiễn công tác văn hóa dân tộc ở nước ta. Đề tài được nghiên cứu trên phạm vi vùng văn hóa Bắc Trung Bộ. Do điều kiện về thời gian, về tài liệu cũng như trình độ hiểu biết vấn đề của người viết còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu từ quý thầy cô và bạn đọc để tiểu luận này được hoàn thiện hơn! I.NỘI DUNG CHÍNH: 1.Vấn đề song ngữ ở Việt Nam Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất của xã hội con người. Mỗi một cộng đồng xã hội hay dân tộc khác nhau có những hình thức giao tiếp khác nhau. Có những dân tộc trong xã hội chỉ dùng một ngôn ngữ duy nhất để giao tiếp với nhau. Trường hợp ấy người ta gọi là tình trạng đơn ngữ. Lại có những dân tộc trong xã hội để giao tiếp với nhau người ta sử dụng nhiều hơn hai ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày. Trường hợp ấy người ta gọi là tình trạng song ngữ. Việt nam là một quốc gia đa dân tộc và là một địa bàn thu nhỏ của bức tranh ngôn ngữ - văn hóa khu vực Đông Nam Á . Theo tài liệu số 121 – TCTK của Tổng cục thống kê ngày 2 – 3 – 1979, nước Việt Nam có 54 dân tộc gồm dân tộc Kinh (Việt) và 53 dân tộc thiểu số khác. Như vậy Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Các dân tộc thiểu số ở nước ta cư trú từ Bắc vào Nam, ở miền núi, trung du và đồng bằng tạo thành một bức tranh đa dạng và phức tạp về địa vực cư trú.Ngoại trừ cộng đồng người Việt là một cộng đồng đơn ngữ thì có thể nói tất cả các dân tộc thiểu số trên lãnh thổ Việt Nam đều là những cộng đồng song ngữ. Ngoài tiếng mẹ đẻ của mình được sử dụng trong những môi trường nhất định, dân tộc thiểu số còn dùng tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ quốc gia throng những môi trường khác. Ngoài ra có những dân tộc, bên cạnh tiếng mẹ đẻ, tiếng Việt lại có thể sử dụng những ngôn ngữ khác nữa trong một vài môi trường giao tiếp nào đó. Trong tình hình như vậy, việc nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở nước ta không thể không chú ý tới vấn đề giao tiếp song ngữ. Có những cộng đồng song ngữ, ngôn ngữ thứ nhất là tiếng mẹ đẻ của cộng đồng ấy. Ở đây tiếng mẹ đẻ được dùng phổ biến ở quê hương, vùng lãnh thổ mà cộng đồng song ngữ ấy sinh sống. Tuy nhiên do một điều kiên nào đó, cộng đồng này phải sử dụng thêm một ngôn ngữ thứ hai không phải tiếng mẹ đẻ để làm công cụ giao tiếp. Việc cần phải sử dụng ngôn ngữ thứ hai có thể là do tiếng mẹ không thỏa mãn yêu cầu phát triển tư duy, yêu cầu giao tiếp ở một không gian lớn hơn…Trong trường hợp này ngôn ngữ thứ hai có tác dụng tích cực bổ sung cho ngôn ngữ thứ nhất là tiếng mẹ đẻ. Bên cạnh đó có những cộng đồng song ngữ mà mối quan hệ giữa tiếng mẹ đẻ với ngôn ngữ thứ hai không như vậy. Ở đây ngôn ngữ thứ nhất không phải tiếng mẹ đẻ. Các cá nhân song ngữ không thể sử dụng tiếng mẹ đẻ làm công cụ giao tiếp thường xuyên và rộng rãi trong xã hội. Ngược lại ngôn ngữ không phải là tiếng mẹ đẻ lại trở thanhf ngôn ngữ thứ nhất, đóng vai trò là công cụ giao tiếp chính của cộng đồng hay cá thể người này. Ở một khía cạnh khác người ta còn nói đến một trạng thái nữa là trạng thái song ngữ tự nhiên. Ở trạng thái này các thành viên trong cộng đồng song ngữ tuy sử dụng tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ thứ nhất nhưng trình độ sử dụng chủ yếu là ở dạng nói mà chưa sử dụng ở dạng viết, trình độ năm bắt và sử dụng tiếng mẹ đẻ chưa ở trình độ hoàn chỉnh. Đồng thời ngôn ngữ thứ hai mà họ sử dụng cũng ở trình độ thấp. Nếu xem xét ở địa bàn các dân tộc thiểu số nước ta, hình như phần lớn cộng đồng song ngữ đang ở trạng thái tự nhiên này. Các dân tộc ở Bắc Trung Bộ cũng thuộc trạng thái đó. 2.Khái quát về vùng Bắc Trung Bộ 2.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội ở Bắc Trung Bộ Bắc Trung Bộ là phần phía bắc của Trung Bộ Việt Nam có địa bàn từ Nam dãy núi Tam Điệp tới Bắc đèo Hải Vân gồm sáu tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An. Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế. Vùng Bắc Trung Bộ nằm kề bên vùng KTTĐ Bắc bộ và vùng KTTĐ miền Trung, trên trục giao thông Bắc Nam về đường sắt, bộ; nhiều đường ô tô hướng Đông Tây (7,8,9,29) nối Lào với Biển Đông. Có hệ thống sân bay (Vinh, Đồng Hới, Phú Bài), bến cảng (Nghi Sơn, Cửa Lò, Cửa Hội, Vũng Ánh, Sơn Dương, Cửa Gianh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Thuận An, Chân Mây...)có các đầm phá thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy hải sản,là trung tâm du lịch quan trọng của đất nước(động Phong Nha-KẻBàng,Cố đô Huế.v.v.)tạo điều kiện cho viêc giao lưu kinh tế giữa VN và các nước Lào,MianMa.v.v.. Lãnh thổ kéo dài, hành lang hẹp, Tây giáp Trường Sơn và Lào, phía Đông là biển Đông(Vịnh Bắc Bộ)cả rung du và miền núi, hải đảo dọc suốt lãnh thổ, có thể hình thành cơ cấu kinh tế đang dạng phong phú. Địa hình phân dị phức tạp, thời tiết khắc nghiệt, nhiều biến động, cần phải lợi dụng hợp lí. Nhiều vũng nước sâu và cửa sông có thể hình thành cảng lớn nhỏ phục vụ việc giao lưu trao đổi hàng hoá giữa các tỉnh trong vùng, với các vùng trong nước và quốc tế. Bắc Trung Bộ là nơi cư trú của 12 dân tộc khác nhau (Thái, Mường, Tày, Mông, Bru-nây Kiều...) sống ở Trường Sơn. Phân bố không đều từ đông sang tây. Người Kinh sinh sống chủ yếu ở đồng bằng ven biển. Bắc Trung Bộ có nhiều khoáng sản quý , đặc biệt là đá vôi nên có điều kiện phát triển ngành khai thác khoáng và sản xuất vật liệu xây dưng . Đây là ngành quan trọng nhất của vùng. Ngoài ra vùng còn có các ngành khác như chế biến gỗ , cơ khí , dệt may , chế biến thực phẩm . Phân bố không đồng đều . Các trung tâm có nhiều ngành công nghiệp : Thanh Hóa , Vinh , Huế với qui mô vừa và nhỏ. Cơ sở hạ tầng , công nghệ , máy móc , nhiên liệu cũng đang được cải thiện . Cung ứng được nhiên liệu , năng lượng. Bắc Trung Bộ có rất nhiều cửa khẩu biên giới giữa Việt - Lào :Nậm Cắn , Cầu Treo , Cha Lo , Lao Bảo. Có bờ biển dài tạo điều kiện cho các tàu buôn hàng hóa nước ngoài xuất nhập khẩu và các tàu chở khách du lịch nước ngoài vào nước ta . Du lịch đang trên đà phát triển . Số lượng khách du lịch đang tăng lên mỗi ngày nhiều. Theo hệ thống phân vùng địa lí Việt Nam, Bắc Trung Bộ là khu vực chuyển tiếp giữa Bắc Bộ và Nam Trung Bộ. Lịch sử cho thấy cư dân nơi đây có nguồn gốc chủ yếu là người Thanh- Nghệ- Tĩnh thiên di vào Bình Trị Thiên từ thời Lý- Trần- Lê. Do đó, mối quan hệ của người Việt nơi đây liên quan, gắn bó với các sinh hoạt văn hoá dân gian nói chung. 2.2.Cảnh huống ở Bắc Trung Bộ Bắc Trung Bộ là một vùng đất rộng lớn có lịch sử từ rất lâu đời bao gồm sáu tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế. Đây là địa bàn cư trú của 12 dân tộc thiểu số: Thái, Mường, Mông, Dao, Thổ, Khơ Mú, Bru – Vân Kiều, Cơ Tu, Tà Ôi, Lào, Chứt, Ơ Đu. Người Kinh sống chủ yếu ở đồng bằng ven biển và chiếm một số lượng lớn. Nên tiếng Việt có vai trò quan trọng nhất đôí với sự phát triển xã hội. Tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông dùng chung cho tất cả các dân tộc thiểu số ở Bắc Trung Bộ. Họ chỉ dùng tiếng mẹ đẻ khi sinh hoạt trong cộng đồng dân tộc của họ, còn khi giao tiếp với xã hội, đa phần đồng bào dân tộc thiểu số ở đây đều dùng tiếng Việt. Ở Bắc Trung Bộ, bên cạnh những cộng đồng ngừơi Kinh sinh sống khá đông đúc thì còn có những cộng đồng dân tộc thiểu số có trình độ kinh tế xã hội phát triển khá mạnh. Đáng chú ý nhất là hai dân tộc Thái và Mường. Về tiếng Thái, đây là dân tộc thiểu số đông thứ hai ở Việt Nam (1040549 - số liệu điều tra 1999) sau dân tộc Tày (1477514 - số liệu điều tra năm 1999). Ngưòi Thái tại Bắc Trung Bộ đang sống tập trung ở miền Tây Thanh Hoá (117836 người) , Nghệ An ( 213604 người) . Ở Việt Nam, người Thái có tên gọi chính thức là Thái, nhưng tên tự gọi của họ là Táy / Tãy. Tuỳ thuộc vào từng địa danh cụ thể, nguời Thái có tên gọi khác nhau. Ở Thanh Hoá ngươì Thái chia làm hai nhóm có tên gọi là Tãy Do và Tãy Đeng (Thái Đỏ) nhưng đồng bào vẫn lờ mờ nghĩ rằng mình là người Tãy dón. Riêng ở Nghệ An, việc chia thành đen hay trắng không còn ý nghĩ mà họ chia thành ba nhóm Tãy Hàng Tổng/ Tãy Mường ( Thái hàng Tổng / Thái Mường), Tãy Thanh / Man Thanh (Thái Thanh / thái Man Thanh) và Tãy Mươi (Tày Mười). Đôi khi nhóm Thái Hàng Tổng ở Quỳ Châu - Nghệ An cũng tự nhận mình là Tãy Do. Người Thái có Một nền văn hoá dân tộc phong phú và đa dạng. Họ không chỉ có chữ viết cổ mà còn có nhiều kiểu chữ khác nhau ở những địa phương khác nhau. Thái là một dân tộc thống nhất với một ngôn ngữ thống nhất. Về tiếng Mường, đây là dân tộc đứng thứ ba về dân số trong các dân tộc thiểu số ở Việt Nam ( 914596 người - số liệu năm 1989). Người Mườn ở BẮc Trung Bộ sống tập trung ở Thanh Hoá (các huyện Ngọc Lạc, thạch Thành, Cẩm Thuỷ, Bá Thước, Như Xuân, Lang Chánh – 260404 người) và Nghệ An. Người Mường có tên tự gọi là Mol, Mual, Muon với nghĩa là “người”. Ở một số địa phương người Mường có những tên gọi khác nhau, ở Nghệ An họ tự nhận là Thổ và được gắn với những địa điểm cụ thể (Thổ Lâm La, Thổ Sông Con...). Người Mưòng có một hệ thống văn hoá, đặc biệt là văn học dân gian rất phát triển. Chính sự phát triển của nền văn học dân gian ấy cho phép chúng ta nói rằng tiếng Mường ở một phương diện nào đó là một ngôn ngưc khá phát triển. Tiếng Muờng là một hệ thống ngôn ngữ thống nhất. Tính thống nhất này không loại trừ ở một số địa phương. Tiếng Mường là bà con ngôn ngữ gần nhất với tiếng Việt. Ngoài hai dân tộc kể trên, Bắc Trung Bộ còn có những dân tộc thiểu số khác với số dân khá nhiều nhưng vẫn chưa thực sự phát triển mạng. Dân tộc Mông tại Bắc Trung Bộ sinh sống chủ yếu ở Nghệ An (17435 người) và Thanh Hoá. Tiếng Mông là một ngôn ngữ thống nhất, bao gồm nhiều nhóm địa phương khác nhau. Nền văn học của dân tộc Mông rất phong phú, bao gồm nhiều thể loại đến ca, truyện cổ. đặc điểm này cho thấy tiếng Mông cũng là một ngôn ngữ khá phát triển. Trước đây tiếng Mông không có chữ viết. Bây giờ người ta đã xây dựng một bộ chữ Latinh cho dân tộc này. Nhưng việc phổ biến chữ viết Mông Latinh gặp rất nhiều khó khăn. Dân tộc Dao sinh sống ở Bắc Trung Bộ tập trung chủ yếu ở Thanh Hoá nhưng số lượng rất ít. Dân tộc Thổ bao gồm những người sống ở phía Tây tỉnh Nghệ An: Nghĩa Đàn (17399 người), Tân Kỳ (10723 người), Quỳ Hợp (10700 người), Con Cuông (1127 người) và Như Xuân - Thanh Hoá (6758 người). Về mặt ngôn ngữ, chúng ta khó có thể nói đến tiếng Thổ. Nó chỉ là tiếng Cuối, tiếng Poọng, tiếng Mường trong cái gọi là dân tộc Thổ. Tiếng Cuối, tiếng Poọng chưa có chữ viết cổ mà cũng không có chữ Latinh. Dân tộc Khơ Mú hiên nay sống tập trung đông nhất ở tỉnh NGhệ An (19441 nguời), tập trung ở hai huyện Kỳ Sơn (13009 người), Tương Dương (5452 người) và rải rác ở Quế Phong (gần 1000 người). Khơ Mú là một ngôn ngữ rất quan trọng đối với việc nghiên cứu lịch sử tiếng Việt. Từ trước dến nay, ngôn ngữ này chưa có chữ viết. Dân tộc Bru – Vân Kiều ở Bắc Trung Bộ sống tập trung ở Quảng Trị (40132 người), Quảng Bình (8045 người) và Thừa Thiên Huế (609 người). Hiện nay chưa thể nói có một ngôn ngữ Bru – Vân Kiều thống nhất bởi ngôn ngữ của các nhóm Khùa, Trì và Măng Cong chưa được nghiên cứu ở mức độ cần thiết. Tiếng Bru – Vân Kiều không có chữ viết cổ. Người Mỹ đã có một phương an Latinh tiếng Bru (nhóm Vân Kiều) và cũng có một phương án khác do cán bộ Mặt trân Dân tộc giải phóng miền Nam làm. Dân tộc Cơ Tu sinh sống chủ yếu ở vùng Trunh và Bắc Trung Bộ: Quảng Nam (gần 30.000 người), ở Huế có huyện Nam Đông (6378 người) và A Lưới (2481 người). Là một dân tộc đã tương đối thống nhất nên ngôn ngữ của nó cũng tương đối thống nhất. Người Cơ Tu chưa có chữ viết cổ. Người Mỹ đã làm một bộ chữ Latinh cho người Cơ Tu. Dân tộc Tà Ôi có 26044 người (số liệu 1989) cứ trú trong địa banf của hai tỉnh THừa Thiên - Huế và Quảng Trị. Người Tà Ôi chưa có chữ viết. Dân tộc Lào ở Bắc Trung Bộ sinh sống chủ yếu ở Kỳ Sơn - NGhệ An (437 người). Chữ Lào đã có từ lâu đời . Dân tộc Chứt sống chủ yếu ở Tây Bắc Quảng Bình và nam Hà Tĩnh. Chứt có ba ngôn ngữ riêng lẻ: Tiếng Chứt chỉ gồm các nhóm Sách, Mày, Rục; Tiếng Arem là nhóm Arem riêng ở Bố Trạch - Quảng Bình; Tiếng Mã Liềng bao gồm các nhóm Mã Liềng ở Quảng Bình và Hà Tĩnh. Cả ba ngôn ngữ này hiện nay đều chưa có chữ viết. Dân tộc Ơ Đu là dân tộc có số lượng người ít nhất ở Việt Nam : 137 người (số liẹu 1989) sống ở Tương Dương - Nghệ An. Tiếng Ơ Đu thuộc ngôn ngữ Môn – Khơmer và có một số yếu tố Việt Muờng trong từ vựng cơ bản. Tiếng Ơ Đu là ngôn ngữ chưa có chữ viết. Trên đây là 12 dân tộc thiểu số sinh sống ở Vùng Bắc Trung Bộ. Thái và Mường là hai dân tộc lớn với số dân rất đông và trình độ kinh tế xã hội cũng phát triển. Hiên nay ở Bắc Trung Bộ đây là hai dân tộc duy nhất có chữ viết. Còn tất cả những dân tộc còn lại chỉ có chữ viết dạng Latinh (Mông, Bru – Vân Kiều, Cơ Tu, Tà Ôi, Lào, Mường, Dao) hoặc không có chữ viết (Thổ, KHơ Mú, Chứt, Ơ Đu) Ở Bắc Trung Bộ hiện nay Thái là dân tộc duy nhất đã có các chuơng trình truyền hình chuyên về tiếng Thái và đã có mặt trên hệ phát thanh dân tộc VOV4. Những dân tộc còn lại đều chưa có. Hiện nay ở Bắc Trung Bộ chỉ có tiếng Thái đã và đang được giảng dạy t

File đính kèm:

  • docbai hoc.doc