Chủ đề: Chúng em với văn học - Trường PTDT nội trú khối 7

Trước hết cho phép em thay mặt cho các bạn học sinh khối lớp 7 xin được gửi đến Ban giám khảo, các thầy cô giáo và các bạn học sinh lời kính chúc sức khỏe và lời chào trân trọng nhất. Chúc buổi ngoại khóa thành công rực rỡ.

Kính thưa ban giám khảo

Kính thưa các thầy cô giáo

Thưa toàn thể các bạn!

 Văn học là món ăn tinh thần không thể thiếu của con người trong xã hội. Vì nguồn gốc của văn là tình cảm, là lòng vị tha, văn học sáng tạo ra sự sống, góp phần bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho chúng ta. Học văn, chúng ta biết cách yêu thương, chia sẻ, biết cách làm người. Khi đọc một tác phẩm văn học nó sẽ giúp ta có thêm cảm xúc và tình cảm. Có người khi đọc một tác phẩm vì quá hay và xúc động mà rơi cả nước mắt vì người ấy đã biết thả cả tâm hồn của mình vào văn học. Văn học không những giúp ta quên hết nỗi buồn mà còn giúp ta biết yêu cuộc sống hơn qua những nhân vật và sự việc trong tác phẩm.

 Trong chương trình ngữ văn lớp 7, có rất nhiều tác phẩm văn học hay, song với phạm vi buổi ngoại khóa hôm nay, em xin phép được nói lên đôi điều suy nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưa của nhà thơ Xuân Quỳnh.

 

 

doc7 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 1205 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chủ đề: Chúng em với văn học - Trường PTDT nội trú khối 7, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG PTDT NỘI TRÚ NGOẠI KHÓA VĂN HỌC KHỐI 7 CHỦ ĐỀ: CHÚNG EM VỚI VĂN HỌC Kính thưa ban giám khảo Kính thưa các thầy cô giáo Thưa toàn thể các bạn! Trước hết cho phép em thay mặt cho các bạn học sinh khối lớp 7 xin được gửi đến Ban giám khảo, các thầy cô giáo và các bạn học sinh lời kính chúc sức khỏe và lời chào trân trọng nhất. Chúc buổi ngoại khóa thành công rực rỡ. Kính thưa ban giám khảo Kính thưa các thầy cô giáo Thưa toàn thể các bạn! Văn học là món ăn tinh thần không thể thiếu của con người trong xã hội. Vì nguồn gốc của văn là tình cảm, là lòng vị tha, văn học sáng tạo ra sự sống, góp phần bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho chúng ta. Học văn, chúng ta biết cách yêu thương, chia sẻ, biết cách làm người. Khi đọc một tác phẩm văn học nó sẽ giúp ta có thêm cảm xúc và tình cảm. Có người khi đọc một tác phẩm vì quá hay và xúc động mà rơi cả nước mắt vì người ấy đã biết thả cả tâm hồn của mình vào văn học. Văn học không những giúp ta quên hết nỗi buồn mà còn giúp ta biết yêu cuộc sống hơn qua những nhân vật và sự việc trong tác phẩm. Trong chương trình ngữ văn lớp 7, có rất nhiều tác phẩm văn học hay, song với phạm vi buổi ngoại khóa hôm nay, em xin phép được nói lên đôi điều suy nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưa của nhà thơ Xuân Quỳnh. Kính thưa quý vị.... Xuân Quỳnh, nhà thơ nữ xuất sắc nhất của nền thơ hiện đại Việt Nam. Thơ Xuân Quỳnh sôi nổi, trẻ trung, sâu sắc và giàu nữ tính. Bên cạnh những bài thơ tình tha thiết cháy bỏng, Xuân Quỳnh còn một mảng thơ viết về những chuyện bình dị, gần gũi trong đời sống thường nhật trong gia đình với tình cảm gia đình, mẹ con, bà cháu...Bài thơ Tiếng gà trưa là một bài thơ như thế. Bài thơ ra đời trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Như nhiều tác phẩm đương thời, bài thơ hướng vào chủ đề chung của cả nền văn học lúc bấy giờ là lòng yêu quê hương, đất nước. Do đó, tuy bài thơ có nhiều kỉ niệm riêng của bản thân nhà thơ, nhưng ta thấy trong cái tôi rất riêng của người nghệ sĩ là cái ta chung của cả một thế hệ, một dân tộc. Tất cả được hòa hợp tự nhiên, tỏa ra nguồn cảm hứng vừa thân thương, gần gũi, vừa cao cả thiêng liêng, lay động lòng người. Nhà văn Lê Minh Khuê đã nói lên cảm xúc của mình về bài thơ như sau: “ Từ những ngày còn tuổi mười tám đôi mươi, tôi đã đọc và yêu thơ Xuân Quỳnh. Không thể không trào nước mắt khi đọc những câu: Trên đường hành quân xa/ Dừng chân bên xóm nhỏ/ Tiếng gà ai nhảy ổ/ Cục..cục tác cục ta/ Nghe xao động nắng trưa/ Nghe bàn chân đỡ mỏi/ Nghe gọi về tuổi thơ... Những câu thơ giản dị như những bài hát đồng dao, nhưng nó làm tim ta thắt lại vì nó trong trắng, sinh động và thân thiết”. Quả đúng như vậy, đoạn một của bài là hình ảnh Người chiến sĩ chống Mĩ cứu nước- đoàn quân ra tiền tuyến, trong đó có nhà thơ - kể về một sự việc bình thường mà rất thú vị: Trên đường hành quân, lúc tạm nghỉ ở một xóm nhỏ bên đường, người chiến sĩ bống nghe tiếng gà nhảy ổ vang lên”Cục...cục tác cục ta”. Tiếng gà rất đỗi gần gũi, thân thương, làm xao động, làm dịu bớt cái nắng trưa gay gắt, xua tan những mệt mỏi nơi người chiến sĩ...và đánh thức những kỉ niệm xa xưa, gọi về tuổi thơ, đưa các anh các chị sống lại những năm tháng hồn nhiên, tươi đẹp. Trong những ngày cả nước chống mĩ sôi sục và ác liệt, âm thanh tiếng gà trưa dường như góp phần làm dịu đi không khí nóng bức của chiến tranh, mở ra một không gian thanh bình sâu lắng, giúp những người chiến sĩ tìm lại được chút thời gian yên tĩnh trong cõi lòng để lắng sâu suy cảm. Sau tiếng gà nhảy ổ ở hiện tại, sang đoạn hai, tiếng gà gọi về những kỉ niệm tuổi thơ. Ba khổ, hai mươi sáu câu nối nhau cùng với tiếng gà trưa điệp lại, chúng ta được cùng người chiến sĩ ấy sống lại những ngày tháng thật dịu êm trong tình yêu thương của bà, và...những câu chuyện về những con gà mái cũng rất đáng yêu. Nào là hình hài và màu sắc của những chị “ gà mái mơ, khắp mình hoa đốm trăng”, “gà mái vàng, lông óng như màu nắng”. Nào là chuyện nhìn gà đẻ, bị bà mắng yêu. Nào là hình ảnh bà soi trứng, theo dõi quá trình gà ấp với bàn tay khum khum, với tấm lòng chắt chiu, nâng đỡ từng sự sống nhỏ nhoi trong từng quả trứng. Rồi chuyện bà: Mong trời đừng sương muối Để cuối năm bán gà Cháu được quần áo mới Ôi cái quần chéo go Ống rộng dài quét đất Cái áo cánh trúc bâu Đi qua nghe sột soạt... Qua những dòng thơ êm nhẹ, hình ảnh người bà Việt Nam hiện lên đẹp như một bà tiên vậy. Bà tần tảo, chắt chiu, dành dụm từng quả trứng, từng chú gà con, như chắt chiu, nâng đỡ những ước mơ hạnh phúc nhỏ bé, đơn sơ của đứa cháu yêu. Hình ảnh đứa cháu được mặc bộ quần áo mới do công lao nuôi gà của bà ban tặng, hồn nhiên, ngây thơ làm sao. Chỉ là bộ quần áo được may bằng những loại vải rẻ tiền nhưng đứa cháu đã vô cùng cảm động, sung sướng, bởi vì đó là bộ quần áo được may bằng cả tấm lòng của bà dành cho cháu. Đứa cháu năm xưa giờ đã là chiến sĩ, người con ấy đã được lớn lên trong tình yêu thương, nâng đỡ của quê hương, của những người ruột thịt. Riêng nữ sĩ Xuân Quỳnh, có lẽ mối tình sâu nặng và ân nghĩa nhất là tình bà cháu. Nếu không nhớ thương và biết ơn bà, làm sao mà viết được những dòng thơ ghi lại những kỉ niệm đẹp như thế. Từ tiếng gà trưa gọi về những kỉ niệm tuổi thơ ở đoạn hai, đến những câu thơ cuối, người chiến sĩ - tác giả Xuân Quỳnh- trở lại với cuộc sống của con người hiện tại. Tiếng gà trưa trở thành tiếng nói của quê hương, của những người ruột thịt, của cả dân tộc và đất nước lúc bấy giờ nhắc nhở giục cĩa người cầm súng. Họ tự nhủ và nhắn với bà: Cháu chiến đấu hôm nay Vì lòng yêu Tổ quốc Vì xóm làng thân thuộc Bà ơi, cũng vì bà Vì tiếng gà cục tác Ổ trứng hồng tuổi thơ Từ kỉ niệm về tình bà cháu, cảm hứng thơ mở rộng hướng tới tình yêu đất nước, nhắc nhở, giục giã những chiến sĩ - trong đó có nhà thơ- hãy chắc tay súng tiến lên chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ gia đình, làng xóm, quê hương và nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Cả bài thơ là dòng hồi ức tuôn chảy không ngừng của một người chiến sĩ trên đường hành quân ra mặt trận. Kỉ niệm tuổi thơ luôn là những tình cảm thân thương, ngọt ngào nhất trong cuộc đời mỗi chúng ta. Đó cũng là nguồn động viên tinh thần chiến đấu của người lính. Nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt Như mẹ, như cha, như vợ, như chồng Ôi Tổ quốc nếu cần, ta chết Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông. Cũng trong nguồn cảm hứng dạt dào và thiêng liêng ấy, Xuân Quỳnh đã chọn một cách thể hiện giản dị hơn, gần giũ hơn mà cũng không kém phần sâu sắc. Bài thơ Tiếng gà trưa bắt nguồn từ hoàn cảnh riêng của nhà thơ Xuân Quỳnh: mẹ mất sớm, cha sinh sống nơi xa, Xuân Quỳnh trải qua một tuổi thơ lam lũ trong sự đùm bọc, yêu thương của bà nội. Đến đây, ta chợt nhớ nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ như thế, cũng được sống trong tình yêu thương, chăm lo, dạy bảo của bà: Cháu ở với bà, bà bảo cháu nghe/ Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học. Có lẽ cũng giống như nhà thơ Bằng Việt, kỉ niệm về những năm tháng tuổi thơ luôn là bóng mát đi theo suốt cuộc đời nhà thơ Xuân Quỳnh, và những kỉ niệm ấy chính là sức mạnh, là nguồn động viên to lớn đối với nhà thơ trong cuộc sống cũng như trong chiến đấu. Bài thơ khép lại, nhà thơ Xuân Quỳnh đã cho chúng ta hiểu được một điều: Tình yêu quê hương đất nước có gì xa lạ đâu, nhiều khi nó được bắt đầu từ tình cảm gia đình, từ tình bà cháu, giống như nhà văn Ê ren bua từng nói: Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc. 1. Tìm hiểu đề, tìm ý. * Tìm hiểu đề - Thể loại: nghị luận về một SV,HT đời sống - Nội dung: thảo luận, bày tỏ ý kiến về SV, hiện tượng được nêu ra: Phạm Văn Nghĩa ham học, chăm làm, có đầu óc sáng tạo và biết vận dụng những KT đã học vào thực tế c/s một cách có hiệu quả hơn. - Yêu cầu: trình bày suy nghĩ về hiện tượng đó * Tìm ý - Nghĩa giúp mẹ + Ra đồng trồng trọt + Ở nhà: nuôi gò, nuôi heo - Ý nghĩa việc làm + Nghĩa là người thương mẹ, giúp mẹ trong việc đồng áng. + Là người kết hợp học với hành + Là người sáng tạo - Học tập Nghĩa là: + Học yêu cha mẹ + Học lao động + Học biết kết hợp học với hành, học sáng tạo (làm những việc nhỏ mà có ý nghĩa) 2- lập dàn bài. a. Mở bài. - giới thiệu hiện tượng Phạm Văn Nghĩa - Nêu tóm tắt ý nghĩa của tấm gương PV Nghĩa b. Thân bài. - Phân tích ý nghĩa về những việc làm của Phạm Văn Nghĩa. - Đánh giá việc làm của Phạm Văn Nghĩa - Nêu ý nghĩa của việc phát động phong trào học tập Phạm Văn Nghĩa. c. Kết bài. - Nêu ý nghĩa giáo dục của tấm gương PVN - Rút ra bài học cho bản thân Vai trò của tình cảm trong văn chương Người ta đã nói nhiều và sẽ còn nói nữa, nói mãi về vai trò của văn chương đối với con người và cuộc sống. Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết: Trái đất rộng thêm ra một phần  bởi các trang thơ Vì diện tích tâm hồn các nhà thi si (Sổ tay thơ) Văn chương quả là món ăn tinh thần thiết yếu, thường xuyên của con người trong xã hội. Thưởng thức văn chương là hoạt động hàng ngày  của hàng triệu, hàng triệu con người thuộc các lứa tuổi, các dân tộc, các tầng lớp khác nhau trên hành tinh chúng ta. Có thể  kể ra muôn vàn minh chứng cho điều này. Chẳng hạn ảnh hưởng của Đíchken đối với dân tộc Anh cuối thế kỉ XIX. “Trong khi ấy- Xtephan Vaixơ kể lại - họ (những người sùng bái Đíchken) không thể bắt mình chờ ở nhà  trong ngày bưu phẩm tới, cho đến khi lại có cuốn sách nhỏ màu xanh, mới xuất bản. Suốt cả tháng họ thèm thuồng ước mơ về cuốn sách đó, kiên trì, hi vọng, tranh cãi...Và thế là cuối cùng đành chờ đợi người  đưa thư đi xe ngựa tới và sẽ giải tất cả những câu đố thú vị ấy. Năm này qua năm khác trong cái ngày long trọng đó những người già và người trẻ đi bộ hàng dặm để đón người đưa thư chỉ cốt nhận được cuốn sách sớm hơn. Ngay trên đường về họ bắt đầu đọc, liếc nhìn nhau qua vai, họ đọc to lên, và chỉ có những người tử tế nhất mới chạy ba chân bốn cẳng về nhà  để chia sẻ với vợ con những điều mình vừa tìm được... Khi Đíchken quyết định phát biểu công khai với tư cách là người đọc và lần đầu tiên mặt đối mặt với độc giả của mình, nước Anh tựa như say rượu. Các phòng đều bị đột kích chật ních; những người hâm mộ thú vị leo trèo lên các cột, chui cả dưới bục của sân khấu cốt chỉ được nghe nhà văn yêu mến” (1). Đây là chuyện xảy ra với người lớn, Còn đối với trẻ em? Nhà văn Liên xô trước đây Coocnây Trucôpxki có kể một câu chuyện thật xảy ra với ông ở Alupca vào năm 1929: “Bọn trẻ đang mệt nhoài vì nóng bức. Chúng la hét inh ỏi. Một bà phụ nữ vụng về cứ quang quác mắng chúng, nhưng chẳng làm sao chúng im tiếng cho. Tôi vừa ở xa đến. Muốn các em vui lên, tôi bèn đem truyện “Muynhaoden” ra đọc cho các em nghe. Chỉ sau hai phút đồng hồ bọn trẻ kêu lên vì sung sướng. Nghe tiếng reo mừng rỡ của chúng, lần đầu tiên tôi thật sự hiểu rằng cuốn truyện vui này đối với các em chín tuổi là món quà ngon miệng như thế nào và cuộc sống của trẻ thơ sẽ mờ đục biết bao nếu như không có cuốn sách nói trên. Với lòng biết ơn vô cùng trìu mến đối với tác giả cuốn sách, giữa tiếng cười vang của bọn trẻ, tôi  đọc cho chúng nghe nào là cái rìu bay vút lên cung trăng, nào là những cuộc phiêu lưu lên chín tầng mây, nào là chân ngựa cắt rời ra mà người ta chăn nuôi trên cung trăng. Và khi tôi ngừng đọc một phút bọn trẻ lại nhao nhao  “đọc tiếp đi, chú!” (2). Có thể xem đó là những dẫn chứng tiêu biểu xác nhận vị trí của văn chương trong đời sống con người. Chính tính truyền cảm, và gắn bó với nó là tính hình tượng làm nên ưu thế đặc biệt của văn chương nhất là khi nhân loại đang bị đe doạ bởi xu hướng kĩ trị như hiện nay. Trong kho tàng ca dao Việt Nam có nhiều viên ngọc lung linh ánh sáng . Một trong những viên ngọc ấy là bài ca dao bình dị viết về bông sen bình dị: Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh, bông trắng, lại chen  nhị vàng Nhị vàng, bông trắng, lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn Câu đầu là một lời khẳng định dứt khoát, không một chút đắn đo: “Trong đầm gì gì đẹp bằng sen”. Người đời vốn thông minh và khó tính lắm, không dễ tìm được sự thừa nhận rộng rãi nếu không có sức thuyết phục. Bằng lí lẽ sắc bén và thực tế hùng hồn, cố nhiên. Và dân gian đã đưa ra những bằng cớ. Trước hết là bằng cớ bên ngoài. Này nhé: Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng Có màu sắc,lại có cả hương thơm. Riêng màu sắc mới hài hòa làm sao! Chúng nằm cạnh nhau, tôn nhau lên để cho mọi yếu tố đều có sức cuốn hút đến ngỡ ngàng!Đủ chưa? Vẫn chưa đủ! Nếu câu thứ hai đi từ  ngoài vào trong, từ “lá xanh”, “bông trắng”, tới “nhị vàng” thì câu thơ thứ ba lại đi từ trong ra ngoài: Nhị vàng, bông trắng, lá xanh  Ôi, kĩ càng và thận trọng làm sao! Khó tính đến thế làm sao những người khó tính ở đời không tin cho được. Khi vẻ đẹp hình thức đã hoàn toàn thuyết phục thì vẻ đẹp phẩm chất đột nhiên phát lộ ra bên ngoài ngời ngợi: Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn Bông sen đẹp cả sắc hương lẫn sự tinh khiết, cả vẻ đẹp bên ngoài lẫn phẩm chất bên trong. Đó chính là vẻ đẹp bình dị của người nông dân chân lấm tay bùn đã làm nên bao giá trị trên đời trong đó có cả những câu ca dao sáng ngời kia đó. Chỉ  cần đọc một lần trong đời những tác phẩm như vậy ta rung động và nhớ mãi. Nói về sức sống bất diệt của những tác phẩm văn chương đã chinh phục trái tim và khối óc của hàng triệu người đọc, thi hào Anh Bairơn đã viết: “Lạ lùng thay!Vài câu nói không to lên thành tiếng mà viết ra lại có thể trở thành một mắt xích bền lâu trong chuỗi dài năm tháng. Thời gian sẽ thu nhỏ con người mảnh khảnh lại trong một phân tấc mỏng manh, ấy vậy mà một mẩu giấy con, một tí xíu thôi, như mẩu giấy này chẳng hạn, lại sống dai hơn con người, lâu hơn cả nấm mồ con người, lâu hơn bất cứ cái gì thuộc về con người”. Những tác phẩm lớn như thế góp phần làm cho con người phát triển toàn diện mà trước hết là có sự hài hòa giữa lí trí và tình cảm, nhận thức và cảm xúc.Không phải vô cớ câu nói của văn hào Đôxtôiepxki “Cái đẹp cứu rỗi thế giới” đặc biệt vang lên trong thời đại chúng ta, khi nhân loại đang bước vào ngưỡng cửa của thiên niên kỉ mới. Quả thật, khi con người không  biết rung động  trước cái đẹp yếu ớt, cái đẹp mong manh liệu thế  giới của chúng ta rồi sẽ ra sao đây! Có lần, tại diễn đàn hội nghị chuyên đề về thơ Á - Phi tổ chức tại Êrêvan (Liên xô trước đây) vào năm 1973, nhà thơ Chế Lan Viên đã vẽ lên một thế giới không có thi ca: “Các bạn hãy tưởng tượng một thế giới không có lộc non cây xanh; tiếng cười của trẻ con và của suối, không có tiếng hót của loài chim và mùi hương của các loài hoa, ở xứ sở ấy, những dãy núi khi người ta cất lên lời không có tiếng vang đáp lại...Không, không ai vì thế mà chết cả, trong xứ sở ấy. Người ta vẫn tiếp tục sống - đúng hơn - tiếp tục tồn tại như thường. Chỉ có điều trong xứ sở ấy, những đôi trai gái chẳng hôn nhau mà cũng chẳng hôn hoa. Và không bao giờ người ta nhỏ lệ trước máu đổ ra của đồng loại. Người di chuyển như  đồ vật. Và con số, và tín hiệu và mật mã là tất cả ngôn ngữ  ở xứ ấy.” Trái tim sắt đá, trí tuệ lạnh lùng đó chính là tai họa khủng khiếp cho nhân loại. Tình cảm, trong đó có tình cảm thẩm mĩ, tình cảm văn chương có ý nghĩa vô cùng đặc biệt và lâu dài. V.L. Lênin từng khẳng định: “Đã, đang và sẽ không bao giờ có thể  có sự tìm tòi chân lí của nhân loại nếu không có  cảm xúc của con người" (3) I.M Xêtrênốp cũng chỉ rõ sức mạnh của cảm xúc khi  cho rằng: “Chúng ta không hề biết một thứ ý chí lạnh lùng bất định nào” (4). Ở một góc độ khác có thể nhấn mạnh đến tính tích cực xã hội của tình cảm. Động lực của cảm xúc trong việc thúc đẩy hành động được biểu hiện sinh động và đầy sức thuyết phục qua ý tưởng của bài thơ” Con hỏi cha” của Chế Lan Viên. Bài thơ  được cấu tứ bằng hệ thống những câu hỏi hồn nhiên của đứa con với  người cha theo sự tăng tiến của mức độ vấn đề và cường độ cảm xúc. Con hỏi cha: “Bom có giết chết mèo”. Mèo, chó...những con vật vốn thân thuộc với cuộc sống hàng ngày của trẻ thơ nên lòng người cha sao có thể dửng dưng! Tuy trái tim người cha mới khẽ rung lên. Người cha còn đủ điềm tĩnh để nhắc nhở đứa con: "Có!"  Khi xuống hầm con hãy nhớ mang theo Câu thứ hai của người con: Bom có giết thỏ cao su và  ngựa gỗ? Mèo chó đã gần gũi với con trẻ nhưng đồ chơi, những thỏ cao su và ngựa gỗ gần gũi với con trẻ hơn. Phản ứng tình cảm của người cha ra sao? Im lặng. Một sự im lặng chất chứa yêu thương và căm thù. Người cha không trả lời. Nhà thơ buông ra một lời cảm thán: Ôi đồ chơi trẻ bao lần hoen máu đỏ! Đó là câu hỏi thứ hai. Câu hỏi thứ ba là gì đây? Con lại hỏi cha: "Bom có giết mẹ không?" Hiển nhiên là câu hỏi ở tầm mức mới, cao hơn hẳn hai câu hỏi đầu tiên, vì có đứa trẻ nào trong đời lại không thương mẹ - người đã dứt ruột đẻ ra mình, ấp iu, chăm sóc mình ngay từ tấm bé. Và hẳn nhiên sự bộc lộ cảm xúc ở người cha cũng phải ở một cường độ mới: "Không" và cha ôm con nước mắt lưng tròng Không thể im lặng thêm một lần nữa (người con sao chịu nổi!) nhưng câu trả lời lại không đúng sự thật. Không, bom không thể giết mẹ - người trần mắt thịt - đâu! Sao đứa con có thể chấp nhận, vì lẽ đứa con sẽ không chịu nổi. Ôi, trái tim trẻ thơ, non dại dường kia! Tuy, hành động sau đó của người cha lại nói một điều ngược lại. Không, bằng cảm tính, đứa con sẽ cảm được, đúng hơn là sẽ cảm hiểu được cái điều mà người cha đang bị nỗi đau giằng xé kia hành hạ - người cha ấy không thể nói ra bằng lời. Đứa con chắc không chịu nổi! Từ đây, nhà thơ chủ động đẩy đến đỉnh điểm: Con lại hỏi: Bom có thể giết con không đấy? Câu hỏi như kéo dài ra, nhức nhối, thật đột ngột mà cũng rất hợp qui luật. Câu kết như là sự phát triển tự nhiên của mạch thơ: Đừng có  hỏi, con ơi đừng có hỏi Để ngày mai cha ra trận cho con Câu thơ đóng lại, nhưng suy tưởng của người đọc được mở ra. Rồi chân lí giản đơn hiện lên rõ mồn một: Phải có tình cảm, tình cảm ở mức cao, mức sâu, con người mới có thể hành động để cải tạo thế  giới này.

File đính kèm:

  • docBinh giang bai tho Tieng ga trua nen tham khao(1).doc