Sự biến đổi về kinh tế xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp (trong cuối những năm của thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX)
• Sau khi dập tắt phong trào đấu tranh của nhân dân, Pháp từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở VN
• Chính sách cai trị của thực dân Pháp:
- Về chính trị:
52 trang |
Chia sẻ: shironeko | Lượt xem: 2309 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chương I : sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam và cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I: SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CSVN VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
I - Sự biến đổi về kinh tế xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp (trong cuối những năm của thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX)
Sau khi dập tắt phong trào đấu tranh của nhân dân, Pháp từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở VN
Chính sách cai trị của thực dân Pháp:
- Về chính trị:
+ Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn.
+ Chia Việt Nam thành 3 xứ: Bắc kỳ, trung kỳ và Nam Kỳ và thiết lập chế độ cai trị riêng.Đứng đầu xứ Nam kỳ là quan thống đốc, đứng đầu xứ Trung Kỳ là quan Khâm sứ, đứng đầu Bắc Kỳ là quan thống sứ.
+ Thực dân Pháp đã câu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột về kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân ta.
- Về kinh tế:
+ Thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột: cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền, khai thác tài nguyên, xây dung một số cơ sở công nghiệp, đường giao thông, bến cảng phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.
+ Chính sách khai thác thuộc địa đã làm biến đổi cơ cấu kinh tế ở nước ta, (xuất hiện các ngành mới) du nhập QHSX TBCN, thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, nền kinh tế Việt Nam lệ thuộc vào tư bản Pháp.
Về văn hóa: Thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hoá, giáo dục thực dân: duy trì các hủ tục lạc hậu (đầu độc bằng thuốc phiện, bằng rượu, thực hiện chính sách ngu dân để cai trị…).
Tình hình các giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội
- Cơ cấu xã hội biến đổi sâu sắc: xuất hiện các giai cấp, tầng lớp mới trong xã hội:
+ Giai cấp địa chủ: Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột áp bức nông dân. Tuy nhiên g/c địa chủ có sự phân hoá, một bộ phấn yêu nước tham gia đấu tranh chống thực dân pháp.
+ Giai cấp Nông dân: là lực lượng đông đảo bị áp bức bóc lột, ngày càng bị khốn cùng nên tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai.
+ Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) ra đời tập trung ở các thành phố và vùng mỏ: Hải Phòng, Hà Nội, Sài Gòn, Nam Định, Vinh, Quảng Ninh. Năm 1914 có 10 vạn thì năm 1929 có 22 vạn công nhân.
Đặc điểm: Xuất thân từ g/c nông dân, ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, sớm được tiếp thu ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị tự giác.
+ Giai cấp tư sản Việt Nam ngay từ khi vừa ra đời đã bị tư sản pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh nền có lực lượng nhỏ bé, yếu ớt, không đủ điều kiện để lãnh đạo cách mạng dân tộc, dân chủ thành công.
+ Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam: Bao gồm học sinh, trí thức, viên chức … trong đó học sinh và trí thức là bộ phận quan trọng.
Đời sống của tầng lớp này nghèo khổ, dễ trở thành người vô sản, họ có lòng yêu nước, căm thù thực dân Pháp xâm lược, lại bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng tiến bộ bên ngoài, nên họ là lực lượng có tinh thần cách mạng cao.
Các mâu thuẫn chủ yếu:
- Mâu thuẫn chủ yếu giữa nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến
- Mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt đó là: mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam và thực dân pháp xâm lược.
- Trước bối cảnh đó, ở Việt Nam đặt ra 2 yêu cầu:
+ Thứ nhất, đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân.
+ Hai là, xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân.
Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
II - Phong trào yêu nước theo khuynh hướng cách mạng vô sản
Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam
Trong 10 năm đầu của quá trình tìm tòi đấu tranh:
- Năm 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.
- Trong quá trình tìm đường cứu nước, người đã tìm hiểu kỹ các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới: đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu như cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789) nhưng cũng nhận thức được các hạn chế của cách mạng tư sản.
+ Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu đến cách mạng tháng 10 Nga năm 1917, Người rút ra kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật sự”.
- Năm 1919 Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng xã hội Pháp (Đảng của quốc tế 2- chất cách mạng còn nhiều).
- Năm 7-1920, Nguyễn ái Quốc đọc bản: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin; nội dung:
+ Lên án chủ nghĩa đé quốc, thực dân đã nô dịch bần cùng hoá nhân dân các nước thuộc đi.
+ Kêu gọi các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu tranh.
+ Phong trào đấu tranh các nước chính quốc phải có trách nhiệm giúp đỡ các phong trào ở nước thuộc địa.
+ Phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa phải liên kết với phong trào đấu tranh ở chính quốc.
- Tại đại hội đảng xã hội Pháp (12-1920), Nguyễn ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặc trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguời- từ người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn “con đường cách mạng vô sản”.
Tóm lại trong 10 năm của quá trình tìm tòi đấu tranh:
Đây là chăng đường Nguyễn Ái Quốc đi tìm một con đường cứu nước, chứ không phải cầu viện và cuối cùng người đã tìm thấy con đường đó (giải phóng dân ttộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người).
Nguyễn Ái Quốc bắt đầu từ khảo nghiệm thực tiễn trước rồi mới từng bước tiếp cận lý luận. (Khi sang Macxây Bác nhận định: Người Pháp ở nước Pháp tốt hơn người Pháp ở Đông Dương; Bác thừa nhận ở đâu cũng có 2 hạng người: người giàu và người nghèo… Sau quá trình chu du về Pháp Bác mới học lý luận ).
Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn tự lực, tự lao động để kiếm sống, là quá trình rèn luyện nghị lực của Bác sau này. (Một hòn gạch nóng nung tâm huyết; Mẩu bánh mỳ con nuôi chí bền; Bác nói: Bác làm 12 nghề nhưng chỉ làm một nghề thôi là nghề cách mạng).
Nguyễn Ái Quốc là người đặt nền móng cho quan hệ kinh tế quốc tế và sớm trở thành chủ nghĩa quốc tế (lộ trình của Nguyễn Ái Quốc là chiến sĩ quốc tế trước khi là lãnh tụ dân tộc; là chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân và của dân tộc).
Giai đoạn 1921-1930: Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị những điều kiện để thành lập Đảng (đó là quá trỡnh từng bước hỡnh thành cương lĩnh)
- Từ 1921 đến mùa hè năm 1923: Nguyễn ái Quốc vẫn hoạt động trong Đảng cộng sản Pháp và nằm trong ban thuộc địa vì vậy ông sáng lập ra “Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa” và là thời gian hoàn tất các tư liệu để viết các tác phẩm nổi tiếng sau này.
- Từ 14-6-1923 đến 1927:
+ Về tư tưởng: Truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam thông qua những bài đăng trên các báo người cùng khổ, nhân đạo…Đặc biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, trong đó đã vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc che dấu tội ác dưới vỏ bọc “khai hoá văn minh”, từ đó đã khơi dậy lòng yêu nước, thức tỉnh tinh thần dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân pháp xâm lược.
+ Về xây dung tổ chức cách mạng: tháng 11/1924 Bác về Quảng Châu và đến tháng 6/1925, người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Mục đích của hội: làm cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới; sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập chính phủ nhân dân; mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân tiến lên xây dung CNCS; thực hiện đoàn kết với giai cấp vô sản các nước, với phong trào cách mạng thế giới.
Đào tạo cán bộ: Từ 1925 – 1927 , Hội cách mạng thanh niên đã mở các lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ cách mạng Việt Nam; xây dung được nhiều cơ sở ở các trung tâm kinh tế.
Năm 1928, với chủ trương “Vô sản hoá”, đưa hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, để rèn luyện lập trường, quan điểm giai cấp công nhân; để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và lý luận giải phóng dân tộc nhằm thúc đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam.
Ngoài ra Nguyễn Ái Quốc còn lựa chon những thanh niên ưu tú gửi đi học tại đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) để đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
+ Về chính trị: Năm 1927 Bộ truyên truyền của hội các dân tộc thuộc địa bị áp bức xuất bản Tác phẩm Đường cách mệnh, nó thể hiện đường lối cách mạng, đề cập những vấn đề cơ bản của một cương lĩnh chính trị:
Thứ nhất, Xác định rõ tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc mở đường tiến lên CNXH.
Thứ hai, Mục tiêu cách mạng là đem lại độc lập tự do, hạnh phúc cho toàn thể nhân dân.
Thứ ba, Về lực lượng cách mạng, người nhấn mạnh cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải của một hai người, do đó phải đoàn kết toàn dân.
Thứ tư, Lãnh đạo cách mạng: do Đảng lãnh đạo và để cách mạng thành công thì Đảng đó phải theo chủ nghĩa Mác-Lênin (Đảng có vững, cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Mác-Lênin).
Thứ năm, về đoàn kết quốc tế, Nguyễn ái Quốc khẳng định: cách mạng Việt Nam là một bộ phận trong cách mạng thế giới, ai làm cách mạng trong thế giới đều là đồng chí của cách mạng Việt Nam.
Thứ sáu, Về phương pháp cách mạng: Phải giác ngộ và tổ chức quần chúng cách mạng, phải làm cho quần chúng hiểu rõ mục đích của cách mạng, biết đồng tâm hiệp lực, làm cách mạng phải biết cách làm, phải có “Mưu chước” thì mới đảm bảo thành công cho cuộc khởi nghĩa với sự nổi dậy của toàn dân…
Sự phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
- Giai đoạn 1919-1925: Phong trào công nhân diễn ra dưới các hình thức đình công, bãi công, tiêu biểu như các cuộc bãi công của công nhân Ba Son (1925-Sài gòn) do Tôn Đức Thắng tổ chức, cuộc bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định ngày 30-4-1925, đòi chủ tư bản phải tăng lương, bỏ đánh đập,.. giai đoạn này hình thức bãi công trở thành phổ biến, diễn ra trên quy mô lớn và thời gian dài hơn.
- Giai đoạn 1926-1929, phong trào bãi công đã có sự lãnh đạo của các tổ chức như: Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Công hội đỏ và các tổ chức cộng sản ra đời từ năm 1929 (năm 1928-1929 có khoảng 40 cuộc bãi công diễn ra trên cả nước).
+ Phong trào đấu tranh giai đoạn này đã mang tính chất chính trị rõ rệt, đã có sự liên kết giữa các nhà máy, các ngành và các địa phương. Phong trào công nhân đã có sức lôi cuốn phong trào dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
+ Cũng vào thời gian này phong trào yêu nước phát triển một cách mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào ông dân diễn ra ở nhiều nơi trong cả nước, như: nông dân Hà Nam, Nam Định Ninh Bình, nghệ An, Hà Tĩnh…đấu tranh chống bọn địa chủ cướp đất, đòi chia ruộng công…
Phong trào công nhân và nông dân đã hỗ trợ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống thực dân phong kiến.
Sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam
Tại đại hội lần thứ nhất của hội Việt Nam cách mạng thanh niên (5-1929) đã xảy ra sự bất đồng giữa các đại biểu về việc thành lập Đảng cộng sản, thực chất là sự khác nhau giữa các đại biểu muốn thành lập ngay một Đảng cộng sản và giải thể tổ chức hội Việt Nam cách mạng thanh niên, với nhưng đại biểu cũng muốn thành lập Đảng cộng sản nhưng không muốn tổ chức đảng ở giữa đại hội thanh niên và không muốn giải tán Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Trong bối cảnh đó các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời.
Đông Dương cộng sản Đảng: ngày 17-6-1929, tại Hà Nội, do đại biểu các tổ chức cộng sản ở miền bắc thành lập.
An Nam cộng sản Đảng: vào mùa thu năm 1929, do các đại biểu trong hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Trung Quốc và Nam Kỳ thành lập.
Đông Dương cộng sản liên Đoàn: Sự ra đời của hai tổ chức cộng sản trên làm cho nội bộ Đảng tân việt phân hoá, những đảng viên tiên tiến của Tân Việt đứng ra thành lập Đông dương cộng sản liên đoàn.
Cả ba tổ chức đều gương cao ngọn cờ chống đế quốc và phong kiến, nhưng hoạt động phân tán, chia rẽ ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng Việt Nam. Vì vậy cần phải khắc phục những khó khăn trên là nhiệm vụ cấp bách của tất cả những người cộng sản Việt Nam.
III - Hội nghị thành lập Đảng, cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và ý nghĩa sự ra đời của Đảng CSVN
Hội nghị thành lập Đảng
Cuối năm 1929 những người cộng sản Việt Nam đã ý thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng cộng sản thống nhất.
Ngày 27-10-1929, Quốc tế cộng sản gửi những người ở Đảng cộng sản Đông Dương tài liệu về việc thành lập một Đảng cộng sản ở Đông Dương, để khắc phục sự chia rẽ giữa các nhóm cộng sản và thành lập một Đảng của giai cấp vô sản.
Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm Đến Trung Quốc chủ trì hội nghị hợp nhất Đảng từ 6-1 đến 8-2. Nhưng Đại hội III (10-9-1960) chọn ngày 3-2 làm ngày thành lập Đảng.
Thành phần hội nghị: 01 đại biểu quốc tế cộng sản; 2 đại biều Đông Dương cộng sản đảng; 2 địa biểu An Nam cộng sản đảng, Hội nghị thảo luận đề nghị của Nguyễn Ái Quốc gồm 5 điểm lớn:
+ Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thất hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản ở Đông Dương.
+ Định tên Đảng là Đảng cộng sản Việt Nam.
+ Thảo chính cương và điều lệ sơ lược của Đảng.
+ Định kế hoạch việc thực hiện thống nhất trong nước.
+ Cử ban chấp hành trung nương lâm thời gồm 9 người, trong đó có hai đại biểu chi bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương.
Hội nghị thống nhất với năm điểm lớn của Nguyễn Ái Quốc và quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản, lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam.
Ngày 24-2-1930, theo yêu cầu của Đông dương cộng sản liên đoàn, ban chấp hành trung ương lâm thời họp và ra nghị quyết chấp nhân Đông dương cộng sản liên đoàn gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Các văn kiện được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng như: chánh cương vắn tắt của Đảng, sách lược vắn tắt của Đảng, chương trình tóm tắt của Đảng, hợp thành cương lĩnh chính trị đầu tien của Đảng cộng sản Việt Nam.
Những vấn đề cơ bản của cương lĩnh:
Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng:
+ Về chính trị: Đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông.
+ Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn (công nghiệp, vận tải, ngân hàng…) của đế quốc pháp để giao cho chín phủ công nông binh quản lý, tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ.
+ Về văn hoá xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền,.. phổ thông giáo dục theo công nông hoá.
Về lực lượng cách mạng: công nhân và nông dân là lực lượng cơ bản, là gốc; đồng thời phải mở rộng rãi hơn các lực lượng khác đó là: tư sản vừa và nhỏ, trung tiểu địa chủ.
Về lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Xác định mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: cách mạng Việt Nam là một bộ phận cấu thành của cách mạng thế giới, phải tranh thủ cách mạng thế giới.
ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng cộng sản Việt Nam và cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Sự ra đời của Đảng đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam đủ sức đảm đương sứ mạng lịch sử của mình lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Định hình ra được quy luật ra đời và phát triển của Đảng cộng sản ở nước ta: Kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước dẫn tới sự ra đời cua Đảng.
Đảng có cương lĩnh chính trị là bước vận dụng sáng tạo học thuyết chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng thuộc địa vạo thực tế Việt Nam. Vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận vào thực tiễn.
Về thực tiễn: chấm dứt thời kỳ khủng hoảng và bế tắc về đường lối của phong trào yêu nước, phong trào cách mạng Việt Nam, đã có một cương lĩnh hoàn chỉnh, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho cách mạng Việt Nam.
Tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, đồng thời cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
CHƯƠNG II: ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930-1945)
Hoàn cảnh ra đời, nội dung, ý nghĩa “Luận cương chính trị tháng 10 – 1930”
Hoàn cảnh ra đời
Năm 1930: Tháng 4-1930 Trần Phú sau thời gian học tập ở Liên Xô được quốc tế cộng sản cử về nước. Đến tháng 7-1930 đợc bổ sung vào BCH TW Đảng.
Từ 14- 30/10/1930 hội nghị BCH TW họp lần thứ nhất tại Hương Cảng, do Trần Phú chủ trì.
Nội dung của hội nghị gồm: Thảo luận Luận cương chính trị, quyết định đổi tên Đảng từ Đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng cộng sản Đông Dương, trong hội nghị các đại biểu cũng nhất trí bầu đồng chí Trần Phú làm tổng bí thư.
Nội dung luận cương
- Phân tích đặc điểm, tình hình xã hội nước ta là xã hội thuộc địa nửa phong kiến và nêu lên những vấn đề cơ bản của Cách mạng tư sản dân quyển ở Đông Dương do giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Chỉ rõ mâu thuẫn gay gắt của Cách mạng Việt Nam: mâu thuẫn giai cấp giữa một bên là thợ thuyên, dân cày, các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến, tư bản đế quốc.
- Vạch ra chiến lược Cách Mạng: Thực hiện Cách mạng tư sản dân quyền, giải phóng dân tộc. Sau đó tiến thẳng lên Chủ nghĩa Xã Hội, không trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
- Khẳng định nhiệm vụ của CM tư sản dân quyền là: Đánh đổ phong kiến, thực hành CM ruộng đất triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ này có quan hệ khăng khít với nhau, nhưng Luận cương xác định “Vấn đề thổ địa là cái cốt của CM tư sản dân quyền”.
- Lực lượng CM: giai cấp vô sản vừa là động lực chính của CM tư sản dân quyền, vừa là giai cấp lãnh đạo CM, dân cày là lực lượng đông đảo nhất và là động lực mạnh của CM. Ngoài ra còn có các phần tử lao khổ ở đô thị như trí thức thất nghiệp, người bán hàng rong..)
- Phương pháp thực hiện cách mạng: phương pháp vũ trang bạo động, đó cũng là một nghệ thuật (nghệ thuật quân sự).
- Vai trò lãnh đạo của Đảng: Luận cương khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cốt yếu cho thắng lợi của CM. Đảng là đội quân tiên phong của giai cấp vô sản, đại biểu chung cho quyền lợi của giai cấp vô sản ở Đông Dương, đấu tranh để đạt mục đích cuối cùng là chủ nghĩa cộng sàn ỏ Đông Dương. Để đảm nhận vai trò đó, Đảng phải có đường lối chính trị đúng đắn, lấy chủ nghĩa Mac - Lênin làm nền tảng tư tưởng, phải có kỷ luật tập trung, phải liên hệ mật thiết với nhân dân.
- Quan hệ giữa Cm Việt Nam với CM thế giới: CM Việt Nam là một bộ phận của Cm thế giới.
Ý nghĩa của luận cương:
Khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc chiến lược cách mạng mà chính cương vắn tắt và sách lược vắn tắt đã nêu ra.
So sánh Luận cương chính trị Tháng 10-1930 với Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Điểm giống nhau:
+ Chiến lược phát triển CM: Độc lập dân tộc gắn liền CNXH
+ Nội dung CM về tư sản dân quyền: Đánh đổ đế quốc & phong kiến
+ Thống nhất vai trò của các lực lượng cơ bản của CM: vai trò lãnh đạo của công nhân và vai trò động lực mạnh của CM của nông dân.
+ Thống nhất phương pháp CM : vũ trang bạo động
+ Thống nhất mối quan hệ giữa CM Việt Nam & CM thế giới : CM Việt Nam là một bộ phận của CM thế giới.
+ Thống nhất về vai trò lãnh đạo của Đảng trong tiến trình CM.
- Điểm khác nhau:
+ Luận cương tháng 10 -1930 không đưa nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu, không nêu ra mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp.
+ Đánh giá không đúng vai trò CM của tầng lớp tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc, chưa thấy được khả năng phân hóa, lôi kéo một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ tham gia CM, do đó Luận cương không đề ra được một liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai.
- Nguyên nhân chủ yếu khác nhau:
+ Luận cương chưa phân tích những mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thuộc địa nửa phong kiến của Việt Nam.
+ Do nhận thức giáo điều, máy móc về vấn đề giai cấp, dân tộc trong CM thuộc địa.
+ Chịu ảnh hưởng trực tiếp tử khuynh hướng “Tả” của Quốc tế Cộng sản và một số Đảng Cộng sản trong thời gian đó.
Luận cương tháng 10-1930 đã không chấp nhận những điểm mới, sáng tạo trong Chính cương của Nguyễn Ái Quốc.
II. Chủ trương & nhận thức mới của Đảng về vấn đè dân tộc & dân chủ giai đoạn 1936 - 1939
Khái quát hoàn cảnh lịch sử
Tình hình thế giới:
- Cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1929-1933 ở các nước thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa đã khiến cho mâu thuẫn nội tại của CNTB ngày càng gay gắt, đồng thời làm cho phong trào cách mạng của quần chúng dâng trào.
- Chủ nghĩa Phát xít đã xuất hiện và thắng thế ở một số nơi: phát xít Hitle ở Đức, phát xít Phrangco ở Tây Ban Nha, phát xít Mutxolini ở Italia và phái Sĩ quan trẻ ở Nhật. Chế độ độc tài phát xít là nền chuyên chính của những thế lực phản động nhất, tàn bạo nhất, dã man nhất. Chúng tiến hành chiến tranh xâm lược, bành trướng và nô dịch các nước khác.Nguy cơ chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới đe dọa nghiêm trọng nền hòa bình và an ninh quốc tế.
- Ở Pháp, mặt trân bình dân lên nắm chính quyền do Đảng Xã Hội và Đảng Cộng sản thành lập đã có những chính sách thân thiện hơn với giai cấp công nhân và nông dân.
- Đại hội VII Quốc tế Cộng sản họp tại Matxcova vào tháng 7- 1935 do Dimitorop chủ trì đã diễn ra. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu đã tham dự đại hội. Nội dung đại hội :
- Xác định lại kẻ thù nguy hiểm trước mắt của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới lúc này chưa phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa Phát xít.
- Xác định nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới lúc này chưa phải là đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, mà là đấu tranh chống chủ nghĩa Phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ dân chủ và hòa bình.
- Để thực hiện được nhiệm vụ cấp bách này, các đảng cộng sản và nhân dân các nước trên thế giới cần thiết phải thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, hòa bình và cải thiện đời sống.
Tình hình trong nước:
- Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã tác động sâu sắc tới mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
- Bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương vẫn ra sức vơ vẹt, bóc lột, bóp nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ và thi hành chính sách khủng bố, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ta.
Chủ trương nhận thức mới của Đảng
Được thể hiện qua 4 nghị quyết của 4 hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương: Hội nghị lần 2 (tháng 7-1936), Hội nghị lần 3 (3-1937), HN lần 4(9-1937), HN lần 5(3-1938)
- Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh: BCH TW xác định cách mạng ở Đông Dương vẫn là “cách mạng tư sản dân quyền - phản đế và điền địa”, nhưng yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân ta lúc này là tự do, dân chủ, cải thiên đời sống.
- Về kẻ thù cách mạng: chủ trương đánh đổ bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.
- Xác định nhiệm vu trước mắt của CM : chống Phát xít, chống chiến tranh đế quốc, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình.
- Xác định lực lượng CM: thành lập mặt trận nhân dân phản đế gồm mọi giai cấp, tầng lớp, đảng phái, tôn giáo với nòng cốt là liên minh công nông
- Đoàn kết quốc tế: Ủng hộ mặt trận nhân dân Pháp, ủng hộ Chính phủ mặt trận nhân dân Pháp để cùng nhau chống lại kẻ thù chung là bọn Phát xít ở Pháp và bọn phản đông thuộc địa ở Đông Dương.
- Hình thức và phương pháp đấu tranh: Kết hợp nhiều hình thức. Vừa đấu tranh công khai vừa nửa công khai, vừa hợp pháp vừa nửa hợp pháp.
- Xây dựng tổ chức: Phải chuyển hình thức tổ chức bí mật không hợp pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai và nửa công khai Nhằm mở rộng quan hệ của Đảng với quần chúng, giáo dục, tổ chức, lãnh đạo quần chúng bằng các hình thức và khẩu hiệu thích.
- Nhận thức mới của Đảng vể mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ: Được thể hiện trong văn kiện Chung quanh vấn đề chính sách mới công bố tháng 10 năm 1936. Trong chính sách mới cho rằng : “ Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải gắn kết chặt với cuộc cách mạng liên địa. Nghĩa là không thể nói rằng muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng.”. Tức là với 2 nhiệm vụ này không nhất thiết phải song song tồn tại, mà phải tùy hoàn cảnh mà đặt nhiệm vụ nào lên hàng đầu hoặc giải quyết các nhiệm vụ một cách liên tiếp, đồng thời xác định kẻ thù nào là nguy hiểm nhất để tập trung lực lượng của dân tộc mà đánh cho toàn thắng.
Tóm lại: chủ trương mới của Đảng đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và dân chủ, xác định mục tiêu trước mắt của CM, từ đó đề ra các hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt, thích hợp hướng dẫn quần chúng đấu tranh giành chính quyền, chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh sau này.
III.Hoàn cảnh lịch sử, nội dung, ý nghĩa sự chu
File đính kèm:
- dlcm.doc