Thân thế: Tên thật Nguyễn Kim Thành sinh năm 1920 ở Huế. Sinh ra trong một gia đình nghèo không đỗ đạt gì, nhưng lại am hiểu rất sâu về thơ ca, rất ham thích sưu tầm ca dao tục ngữ. Chính cha ông là người đã dạy ông làm thơ từ nhỏ. Mẹ ông là phụ nữ Huế tiêu biểu rất giàu lòng thương con, thuộc nhiều ca dao tục ngữ, dân ca Huế. Chính hồn thơ của Tố Hữu sau này đã được hình thành từ tiếng ru của mẹ. Xứ Huế lại nổi tiếng là một vùng văn hóa phong phú và độc đáo với hai dòng văn hóa đan xen đó là Văn hóa cung đình và Văn hóa dân gian.
Năm 1938 ông đã được kết nạp vào Đảng. Đối với Tố Hữu thì cái thời điểm “Từ ấy” này hết sức quan trọng, vì bắt đầu từ đây sự nghiệp thơ ca của ông hoàn toàn thống nhất với sự nghiệp cách mạng của đất nước. Đầu năm 1939 TH bị bắt giam và đã trải qua rất nhiều nhà giam ở Tây Nguyên ở Huế. Tháng 3 -1942 lại vượt ngục Đắc Lay (Kon Tum), vượt hàng trăm cây số đường rừng tìm ra Thanh Hoá để bắt liên lạc với Đảng
17 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1731 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề 2 thơ Tố Hữu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề 2
thơ tố hữu
I. Thân thế và sự nghiệp:
1. Thân thế: Tên thật Nguyễn Kim Thành sinh năm 1920 ở Huế. Sinh ra trong một gia đình nghèo không đỗ đạt gì, nhưng lại am hiểu rất sâu về thơ ca, rất ham thích sưu tầm ca dao tục ngữ. Chính cha ông là người đã dạy ông làm thơ từ nhỏ. Mẹ ông là phụ nữ Huế tiêu biểu rất giàu lòng thương con, thuộc nhiều ca dao tục ngữ, dân ca Huế. Chính hồn thơ của Tố Hữu sau này đã được hình thành từ tiếng ru của mẹ. Xứ Huế lại nổi tiếng là một vùng văn hóa phong phú và độc đáo với hai dòng văn hóa đan xen đó là Văn hóa cung đình và Văn hóa dân gian.
Năm 1938 ông đã được kết nạp vào Đảng. Đối với Tố Hữu thì cái thời điểm “Từ ấy” này hết sức quan trọng, vì bắt đầu từ đây sự nghiệp thơ ca của ông hoàn toàn thống nhất với sự nghiệp cách mạng của đất nước. Đầu năm 1939 TH bị bắt giam và đã trải qua rất nhiều nhà giam ở Tây Nguyên ở Huế. Tháng 3 -1942 lại vượt ngục Đắc Lay (Kon Tum), vượt hàng trăm cây số đường rừng tìm ra Thanh Hoá để bắt liên lạc với Đảng.
2. Sự nghiệp sáng tác: Đối với TH thì thơ ca và CM là một do vậy sự nghiệp thơ ca của ông luôn thống nhất chặt chẽ đối với mỗi bước đi của CM. Trong nền thơ VN hiện đại, TH là một tác giả có vị trí đặc biệt. Là nhà thơ của cuộc CM theo khuynh hướng vô sản, thơ TH gắn liền với các giai đoạn, các mục tiêu đấu tranh CM và có sức cổ vũ to lớn với đông đảo quần chúng trong nhiều thập kỷ qua.
a. Từ ấy: Là tập hợp những sáng tác của TH từ 1937 – 1946. Tập thơ này bao gồm 3 phần Máu lửa, Xiềng xích và Giải phóng. Từ ấy biểu hiện tấm lòng yêu thương xúc động của người chiến sĩ CM trước những cảnh đời cũ đầy ngang trái bất công (Đi đi em, Tiếng hát sông Hương) Từ ấy ghi lại niềm vui bắt gặp lý tưởng cách mạng của người thanh niên xứ Huế , sự hòa nhập với cuộc đời chung của dân tộc (Từ ấy, Trăng trối). Từ ấy còn là tiếng hát cất lên từ xiềng xích ngục tù thể hiện tinh thần đấu tranh kiên cường của người chiến sĩ cộng sản (Tâm tư trong tù, Nhớ đồng, con cá chột nưa, Tiếng hát đi đày..) Tập thơ khép lại bằng một niềm vui lớn, niềm vui giải phóng, niềm vui tung phá xiềng xích ngục tù, niềm vui bay lên với sông núi tự do (Huế tháng Tám, Xuân nhân loại, Vui bất tuyệt. ) Những bài thơ của Từ ấy giàu sức sống mới mẻ, hấp dẫn. Người ta nói, nếu như Máu lửa và Xiềng xích là phần TH tự thể hiện bản thân thì đến phần Giải phóng ông lại nép mình đi để thể hiện cuộc đời mới. Như vậy ông đã đi từ tự thể hiện đến thể hiện, nói khác là đi từ cái tôi đến cái ta.
b. Việt Bắc:
- Bao gồm những bài thơ TH viết trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp từ 1947 đến 1954. Nội dung chủ yếu của tập thơ này bao gồm 2 phần:
+ Tái hiện lại cuộc kháng chiến của những con người kháng chiến ở Việt Bắc và niềm tự hào về đất nước anh hùng. Tiêu biểu nhất là các bài Bầm ơi, Cá nước, Lên Tây Bắc, Phá đường.
+ Thể hiện những tình cảm lớn như lòng yêu nước, tình quân dân và đăc biệt nhất là tình cảm quần chúng với lãnh tụ. Bài Sáng tháng năm có thể xem là bài thơ tiêu biểu nhất không phải chỉ của TH mà là của thơ ca Việt Nam viết về lãnh tụ.Tập thơ này cũng dựng được bức chân dung của những con người tham gia kháng chiến khá rõ nét (anh vệ quốc, anh bộ đội, em liên lạc, bà bầm, bà bủ…). Đặc biệt tập thơ này được khép lại bằng hai bản trường ca mang tầm vóc của những sử thi anh hùng, đó là Việt Bắc và Ta đi tới.
c. Gió lộng:
Bao gồm những sáng tác của TH từ 1955 – 1961. Đậy là thời kỳ đất nước ta bị chia cắt làm hai miền. MBắc thì hàn gắn vết thương chiến tranh rồi tiến hành xây dựng cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa. Một nội dung rất lớn của tập thơ này là ngợi ca cuộc sống mới, con người mới trên miền Bắc (Trên miền Bắc mùa xuân, Mùa thu mới, Tiếng chổi tre, Bài ca xuân 61). Tiêu biểu nhất là bài Bài ca xuân 61. Trong khi đó nửa nước phía Nam chìm trong đau thương tang tóc. Vì thế một nội dung thứ 2 của tập thơ là thể hiện tấm lòng nhớ thương của người dân MBắc với đồng bào MNam (Mẹ Tơm).
d. Ra trận (62 – 71) và Máu và hoa (72 – 77)
Đây là 2 tập thơ TH viết trong khoảng từ 62 – 77. Đây là thời kỳ cả nước có chiến tranh . Bởi thế nội dung chủ yếu của 2 tập thơ này là ca ngợi chủ nghĩa anh hùng CM của cả dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Trong Ra trận TH đã dành hai bài thơ viết về Bác. Bài Bác ơi! được xem là một điếu văn bi hùng của thời đại, còn Theo chân Bác được xem là bả trường ca anh hùng tái hiện hình ảnh Bác Hồ trên những chặng đường lịch sử. Trong Máu và hoa chúng ta ghi nhận Nước non ngàn dặm
đ. Từ 1977 đến tận những ngày cuối đời: TH vẫn tiếp tục sáng tác và ông có thêm hai tập thơ nữa: “Một tiếng đờn” và “Ta với ta”. Khuynh hướng trữ tình chính trị với sự nhạy cảm trước những vấn đề thời sự tuy vẫn là nét khá ổn định, nhưng đã không còn là mạch cảm hứng duy nhất trong thơ ông.
II. Phong cách nghệ thuật
- Như trên đã nói, đối với TH thì thơ ca và CM là một, do vậy sự nghiệp thơ ca của ông luôn thống nhất chặt chẽ đối với mỗi bước đi của CM. Vì thế có thể coi nhà thơ TH như là một nhà thơ trữ tình chính trị. Ông có khả năng thơ hoá những vẫn đề chính trị khô khan “Rất chân thật chia 3 phần tươi đỏ…” . Ông nói chuyện chính trị mà cứ đắm say như các nhà thơ khác nói chuyện tình yêu.
Nét PCách này của TH được thể hiện ở những điểm cụ thể dưới đây:
- TH là nhà thơ trữ tình chính trị kiểu mới:
+ Chính ông chứ không phải ai khác đã tạo nên sự kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật và tuyên truyền. Tác giả làm thơ để nói những vấn đề chính trị nhưng lại bằng cảm xúc cá nhân nên rất chân thành, tha thiết.
+ Có lẽ tất cả những vấn đề chính trị, những sự kiện lớn của đất nước, của lịch sử đều trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ TH. Thơ TH là thơ của tình cảm lớn, lẽ sống lớn, của CM, của cuộc sống CM.
+ Vấn đề bao trùm trong thơ TH là vấn đề lý tưởng cách mạng xuyên suốt từ tập thơ "Từ ấy" cho đến hầu hết các tập thơ sau này.
+ Với kiểu thơ trữ tình chính chị ấy, tác giả thường phát hiện và phản ánh vẻ đẹp con người từ phương diện lý tưởng cách mạng, nhiệm vụ CM. Chính yếu tố nhiệm vụ CM, lý tưởng CM là yếu tố phát sáng làm nên vẻ đẹp lấp lánh của con người trong thơ TH.
- Thơ Tố Hữu là thơ giàu chất sử thi:
Sự kết hợp các chủ đề chính trị với đề tài lịch sử – dân tộc làm cho thơ trữ tình Tố Hữu trở thành thơ chính trị sử thi. Bởi sử thi là sự nhìn nhận con người qua góc độ xã hội, dân tộc. Tác giả sử thi tư duy bằng dân tộc, xã hội, nhân loại, khác với các thể tài đời tư nhìn xã hội qua các nhân với tư cách là một con người các thể. Sử thi đòi hỏi các sự kiện lớn xâm chiếm toàn bộ cuộc sống đất nước, dân tộc. Sử thi đòi hỏi mỗi người phải đối xử với nhau như anh em, đồng bào, đồng chí bạn bè… Thơ Tố Hữu đã làm được tất cả những điều đó. Cảm hứng sử thi trong thơ Tố Hữu thể hiện rõ cả trong nội dung và hình thức. Nhà thơ hay hướng tới cái phi thường, cái lý tưởng. Trên cơ sở hiện thực mà LM hoá hiện thực. Chính vì hướng về lí tưởng nên hiện thực dù gian khổ khó khăn cũng được nhìn với hình ảnh của tương lai gợi lên niềm tin và hi vọng. Các hình hượng anh hùng trong thơ TH đã trở thành biểu tượng cao cả cho phẩm chất anh hùng cách mạng VN. Chị Trần Thị Lý, Bác Hồ kính yêu, Môrixơn, Anh Trỗi, Mẹ Suốt, Mẹ Tơm.
- Thơ Tố Hữu là thơ giàu chất dân tộc:
- Vốn là một thuộc tính chung của văn học, nhưng ở Th tính dân tộc đậm đà đến mức trở thành một bản sắc riêng không thể lẫn với bất kỳ 1 bài thơ nào khác. Về mặt thể loại TH thường hay làm thơ bằng những thể thơ dân tộc nhất là thể thơ lục bát. Chính vì vậy mà thơ TH rất gần với ca dao, dân ca. Thậm chí nhiều câu thơ của TH nhiều người đọc cứ nghĩ là ca dao. TH cũng chịu nhiều ảnh hưởng bởi Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm. Điều này giải thích tại sao thơ TH dễ đọc dễ nhớ và nhờ thế thơ ông phổ cập rất sâu rộng.
III. Thi pháp thơ Tố Hữu
Quan niệm nghệ thuật về con người
a. Quan niệm thi pháp:
Văn học là nhân học, đối tượng thể hiện chủ yếu của nó là con người. Không thể lý giải một hệ thống văn, thơ mà bỏ qua con người được thể hiện ở trong đó. Bình luận về con người được thể hiện, miêu tả trong thơ là một nội dung của nghiên cứu thơ. Tuy nhiên đó chưa phải là tất cả. Phương diện quan trọng cơ bản hơn của việc bình thơ là tìm xem nhà thơ đã lý giải, quan niệm đối tượng đó như thế nào. Điều đó cho phép người nghiên cứu khẳng định tác giả đã phát hiện và thể hiện đối tượng ở một chiều sâu nào. Nhược điểm của nghiên cứu phê bình xã hội học là say sưa với chủ nghĩa đề tài, xem nhẹ vai trò của sáng tạo tư tưởng, nghệ thuật thẩm mĩ của tác giả.
Như vậy con người trong văn học không phải là con người có trong thực tế, mà là quan niệm về con người ấy một cách thẩm mĩ và nghệ thuật. Chẳng những đề tài của văn học không ngừng đổi thay, mà quan niệm nghệ thuật về nó cũng luôn luôn phát triển, làm cho đối tượng được nhìn từ góc độ mới.
Chính vì bỏ qua QNNT về con người cho nên đã dẫn đến những cách hiểu giản đơn, thô thiển về bản chất của văn nghệ. Hoặc đồng nhất tư tưởng sáng tác với thế giới quan. Hoặc rút gọn tiêu chuẩn của tính chân thực vòa một điểm là miêu tả giống hay không giống đối tượng và như vậy kết quả cũng xem nhẹ vai trò sáng tạo của nhà thơ.
b. Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ TH:
Thơ ca Vô sản VN không phải khởi đầu từ TH, nhưng phải đợi đến thơ TH mới hình thành một QNNT mới về con người, đủ khơi một nguồn cảm hứng nghệ thuật mới (đừng nhầm với quan điểm NT tức là chủ chương về NT).
Như đã nói trên, thơ TH là thơ trữ tình chính trị. Con người trong thơ ấy cơ bản là con người chính trị. Đó là hiện tượng có tính quy luật. Con người chính trị trong thơ TH đánh dấu một bước trưởng thành mới của con người VN trong thế giới hiện đại từ con người yêu nước trung quân sang con người duy tân dân chủ, qua con người “phi chính trị” trong thơ Mới đến con người chính trị kiểu mới dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản.
Trên cái nền thơ ca CM Vô sản, TH đã thể hiện nổi bật nhất quán một QNNT về con người chính trị VN trong thơ ông – con người giác ngộ quyền lợi giai cấp, dân tộc tự giác trên con đường đấu tranh.
ở Từ ấy lần đầu tiên trong thơ VN TH mang đến QNNT về một con người xã hội. Đó là một số đông tạo thành một lực lượng xã hội hùng hậu. Họ là những “vạn nhà”, “vạn kiếp”, “vạn đầu”. Họ là “muôn dân”, “trăm tay”, “muôn người”, “Muôn chiến sĩ”, “vạn trái tim”. Họ là “khối đời”, “loài cơ cực”, “đoàn quân nô lệ”….
Tiếp nối “Từ ấy”, con người trong Việt Bắc vẫn là con người “dâng tất cả để tôn thơ chủ nghĩa” nhưng là trong hoàn cảnh mới “tất cả để kháng chiến”. Vẫn là những con người chung số phận, chung ước mơ, nhưng giờ họ không còn là số đông như trước mà đã là những con người cụ thể trong cái nnhìn gần gũi:em Lượm, bà Bầm, bà Bủ, anh bộ đội, vị lãnh tụ, người cán bộ… . Nhưng nếu con người chính trị trong Từ ấy chủ yếu được miêu tả trong quan hệ với lý tưởng, sắn sáng hi sinh tất cả vì lý tưởng thf con người trong VBắc lại được miêu tả trong tình quê hương bền bỉ đậm đà, bao gồm tình mẹ con, chồng vợ…
Nét mới nhất của Gió lộng là quan niệm nghệ thuật về con người tự do. (phân biệt tự do kiểu Từ Hải)
Nếu Gió lộng thể hiện con người trong khuôn khổ đất nước thì Ra trận thể hiện cuộc chiến đấu chống Mĩ qua tầm vóc lịch sử – Con người của bốn nghìn năm và của thời hiện đại…
Tâm tư trong tù
I. Giới thiệu chung về bài thơ.
Tâm tư trong tù là bài thơ thuộc tập thơ Từ ấy. Hãy nhớ lại TH được kết nạp vào đảng năm 1938, 1 thanh niên 18 tuổi vừa bắt gặp lí tưởng đang say xưa đến mức bồng bột với lí tưởng mà mình vừa tìm thấy thì đến năm 1939 ông bị bắt, bị tách khỏi phong trào. Có đặt trong hoàn cảnh sáng tác này chúng ta mới có thể thông cảm với những tâm tư của TH ở trong tù.
Cuối tháng tư năm 1939, trong một đợt thực dân Pháp khủng bố phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương ở Huế, TH bị bắt. Từ đây bắt đầu một chặng đường đầy gian lao thử thách với chàng thanh niên Cộng Sản 19 tuổi. Qua nhiều nhà tù, trại giam của giặc, TH đã sáng tác phần Xiềng xích của tập Từ ấy. Tâm tư trong tù là bài thơ mở đầu. ở dưới bài thơ có một dòng ghi địa điểm và thời gian sáng tác: “Xà lim số 1, lao Thừa Thiên, ngày 29 – 4 – 1939” . Dòng ghi chú ấy cho chúng ta biết về hoàn cảnh sáng tác bài thơ: nó được làm ngay trong những ngày đầu tác giả bị giam trong nhà tù thực dân Pháp.
Nhà thơ nhận ra việc mình bị giam hãm ở trong tù chẳng qua cũng giống như 1 con chim bị nhốt trong 1 cái lồng con và cái lồng con ấy đặt trong 1 cái lồng to hơn. Lúc trước vì bị cái cảm giá cô đơn đè nặng ông cứ tưởng cuộc sống ngoài kia là đẹp lắm. Còn bây giờ ông nhận ra nó là giả tưởng. Nỗi đau của riêng ông nằm trong nỗi dau chung của Đất nước và chính bước ngoặt này trong nhận thức đã giúp ông trở lại với niềm say mê lí tưởng. Cái mà người tù có thể cảm nhận được ở thế giới bên ngoài là âm thanh, nhưng ở đây âm thanh vô hình đã được khuếch đại để trở thành cái hữu hình trong thế giới hình tượng.
II. Bố cục bài thơ.
- Đúng với tựa đề Tâm tư trong tù, bài thơ là những dòng tâm tư của một người thanh niên cách mạng trong những ngày đầu bị giam cầm trong xà lim u tối. Vì thế bố cục của bài thơ được kết cấu đúng theo diễn biến tâm trạng của tác giả. Diễn biến tâm trạng này được thể hiện ở hai chặng rất rõ rệt.
+ Chặng 1 gồm 3 khổ thơ đầu (đều đặn mỗi khổ 8 dòng thơ) thể hiện tâm trạng cô đơn và nỗi niềm rạo rực khao khát hướng về cuộc sống tự do bên ngoài nhà tù.
+ Chặng thứ 2: khổ thơ thứ 4 là một bước ngoặt ngoặt hết sức quan trọng trong tâm trạng người chiến sĩ cộng sản. Lý trí như bừng tỉnh, người tù nhận ra số phận của mình nằm trong số phận chung của giai cấp, của dân tộc.
+ Chặng 3: khổ 5 và câu thơ kết là lời thề, lời tự dặn lòng, giữa vững ý chí chiến đấu và phẩm giá của người cách mạng trên con ngường tù đày đầy gian lao.
Như vậy kết cấu bài thơ đi theo diễn biến tăng tiến của tâm trạng: từ cảm xúc, tình cảm đến nhận thức và ý chí. Bài thơ tuy liền mạch nhưng cũng dễ nhận ra giọng điệu đặc trưng ở mỗi phần. ở phần đầu là giọng bộc bạch trực tiếp , tình cảm và cảm xúc tràn đầy, tuôn trào tự nhiên trong mạch cảm hứng lãng mạn. Đoạn giữa là giọng biện luận, phân tích, lý giải bằng nhận thức cách mạng, lý trí sáng suốt điều chỉnh, chế ngự, uốn nắn những tình cảm, xúc cảm tự nhiên ở phần trên. Đến phần kết thúc có giọng trang trọng và thiết tha của lời thề, lời hứa. ở đây lý trí và tình cảm đã đạt được sự thống nhất hòa hợp, chuyển hóa thành ý chí cách mạng, nên dù có vẻ cao giọng và nhiều lời nhưng vẫn có được sự chân thành trong trẻo. Đó là lời tự hứa, tự dặn lòng của một người thanh niên cách mạng.
II. Phân tích bài thơ.
1.Phân tích chặng 1 (3 khổ thơ đầu)
a. Nhận xét tổng quát:
Trong phần đầu của bài thơ (3 khổ đầu) chủ thể trữ tình để cho xúc cảm, tình cảm của mình tuôn trào, bộc bạch tự nhiên và sôi nổi, tha thiết dường như chưa hề có sự can thiệp của lý trí.
- Phân tích 4 câu đầu khổ 1:
Cô đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!
Toàn bộ cảm xúc ở phần này được khơi gợi từ một tác động duy nhất, đó là những âm thanh từ bên ngoài vọng vào nhà tù. Nói đúng hơn đó là sự lắng nghe, sự đón nhận bằng đôi tai. Đây là điều dễ hiều vì khi đang ở tù thì thính giác là phương tiện duy nhất để người tù giao lưu với đời sống bên ngoài, nên nó càng trở nên bén nhạy.
Như vậy bài thơ được bắt đầu bằng cái tâm trạng cô đơn đè nặng đến nỗi không kìm nén được phải bật thành lời “Cô đơn thay là cảnh thân tù”. Câu thơ thứ nhất được viết bằng giọng cảm thán, nó chứa tất cả nỗi đắng cay, chứa tất cả cái cô đơn hiu quạnh của người tù.
Và để thoát ra khỏi cái cô đơn ấy, người tù hướng giác quan của mình ra bên ngoài với tất cả nỗi háo hức “Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực”.Tất nhiên nếu xét cho kỹ đây không chỉ là sự nhạy cảm của thính giác mà chủ yếu là sự nhạy cảm của tâm hồn – một tâm hồn yêu tha thiết cuộc sống và giàu tưởng tượng – Một tâm hồn thi sĩ thực sự.
Nhưng có lẽ câu hay nhất vẫn là câu thứ 3 “Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức”. Bằng lối chuyển đổi cảm giác, cái nghe thấy lại được diễn tả như cái nhìn thấy. Nhà thơ đã khiến cho tiếng đời ngoài kia vọng tới có hình khối, có chuyển động, có cả sắc thái náo nức.
Câu thứ 4 như là sự xác nhận đầy vẻ nuối tiếc “ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu”. Một câu thơ gói trong đó vừa là cảm giác bị giam hãm, cảm giác bị tước đoạt tự do, cảm giác phải xa lìa cuộc sống đang tràn đầy ỹ nghĩa, vừa là nỗi nhớ da diết – nhớ đồng chí nhớ Huế thân yêu.
- Phân tích 4 câu cuối khổ 1:
Đây âm u đôi ánh lạt ban chiều
Len nhẹ nhẹ qua rào ô cửa nhỏ
Đây lạnh lẽo bốn tường vôi khắc khổ
Đây sàn lim, manh ván ghép sầm u…
Sau khi đã hướng ra cuộc sống bên ngoài với tâm trạng cô đơn, buồn nhớ, người tù buộc phải quay trở lại với thế giới thực tại. Bốn câu cuối của khổ 1 dựng lại cái không khí của nhà tù. Đó là một không gian u tối được giới hạn bởi 4 bức tường vôi trắng lạnh lẽo, mấy mảnh ván ghép sàn và một ô cửa sổ nhỏ. Tuy chỉ vài chi tiết thôi nhưng nếu để ý ta sẽ thấy chi tiết nào cũng có hồn, cũng chứa đầy cảm giác và có sức gợi cảm rất cao.
- Phân tích 4 câu đầu khổ 2:
Cô đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!
Có 1 điều mà người đọc rễ ràng nhận thấy là ở khổ 1 và khổ 2, 4 câu đầu hoàn toàn giống nhau, chỉ khác nhau 4 câu cuối thôi. Chính sự lặp lại của 4 câu đầu này cho ta thấy nhà thơ đang bị cái cảm giác cô đơn đè nặng. Và sự trở đi trở lại của cảm giác cô đơn này làm cho người đọc nhận thấy rõ hơn cái tôi tâm trạng của Tố Hữu.
Sự khác nhau của khổ 1 và khổ hai là ở hai câu cuối.
- Phân tích 4 câu cuối khổ 2:
Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều
Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh
Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh
Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về…
Người tù như hình dung được tất cả sức sống mạnh mẽ của cuộc sống bên ngoài.
Câu 1: ở đây tiếng chim không kêu mà “reo”; còn gió vì được miêu tả như Triều dâng nên được hình dung như cả một biển gió. Biên gió ấy không chỉ đang dâng lên trong buổi chiều tà mà còn đang dâng lên trong lòng nhà thơ.
Câu 2: Tiếng dơi chiều đập cánh cũng trở nên vội vã (không tịch mịch như câu: “Dơi động hoàng hôn thấp thoáng bay” của Huy Cận).
Câu 3: Nhưng đặc sắc hơn cả là giữa những âm thanh xao động ấy, TH vẫn nghe được những thanh âm rất bình thường, dễ bị chìm lấp đi trong muôn ngàn tiếng động của buổi chiều nơi thành phố, đó là tiếng “lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh”. Tiếng “lạc ngựa” đó là sự tinh tế của cảm giác và sức mạnh của trí tưởng tượng. Một câu thơ vừa có âm thanh (tiếng lục buộc ở cổ ngựa) vừa có hình ảnh (ngựa rùng chân bên giếng), lại vừa có cảm giác (cái lạnh của buổi chiều thấm vào cả dòng thơ).
Câu cuối cùng của khổ 2 lại có cái hay đặc biệt của một câu thơ hết sức bình dị. Hình như không có một chút dụng công nghệ thuật nào. Nhưng đọc lên, đây lại là câu thơ có sức lay động sâu sắc nhất. Cái hay ở đây trước hết là sự đột ngột của câu thơ. Nếu ở những câu trên, sự lắng nghe của người tù đang hướng đến những âm thanh của thiên nhiên (chim reo, gió thổi, dơi đập cánh) thì câu thơ cuối bỗng vang lên tiếng guốc – tiếng guốc ấy là âm thanh của cuộc sống con người, của cuộc đời bình dị. Cảm xúc dường như đang bay bổng ở những câu trên bỗng hạ xuống một gam trầm với tiếng guốc xao xác. Thêm hai chữ “đi về”, tiếng guốc vang mãi như một ám ảnh trong tâm trí người đọc. Một câu thơ bật ra như không hề định trước. Nói như Hoài thanh là “một câu thơ ghi vội” mà lại có sức vang mãi không thôi trong bao lòng người.
Cũng có thể chú ý thêm đến sự lặp lại liên tục của từ nghe. Một khổ thơ 4 câu thì có 4 chữ “nghe” (nếu tính cả 24 câu đầu thì có 9 chữ nghe). Sự liên tục sử dựng thính giác chính là nỗ lực của tinh thần tạo nên hai tầng cao thấp của cảm xúc. Đặc biệt tất cả những âm thanh nhà thơ nghe thấy đều thật bình dị, thật đời thường, nhưng nhà thơ đã nghe nó một cách say mê khao khát. Điều đó cho thấy âm thanh chính là nỗi lòng. Bởi trong cuộc sống thường nhật có biết bao hiện tượng nhỏ nhặt tồn tại ở quanh ta mà ta không để ý, không quan tâm, ấy thế mà khi xa rời nó, ta mới thấy nó đáng quý biết bao, cần thiết biết bao. Chính nó đã tạo nên sự sống này, nó cần như không khí ta thở hàng ngày đó. ở đây cái ngẫu nhiên thoáng qua của hoàn cảnh đã bắt gặp cái sâu sa và tất yếu của nội tâm để tạo nên chiều sâu nhân bản của tâm hồn.
Có thể nói khổ thơ, hình ảnh thơ ta cảm thấy hay chủ yếu không phải ở chỗ nó tả cái gì mà ở chỗ nó gợi cái gì về cuộc sống này. Một thành phố vắng vẻ lại được lắng nghe bằng tâm hồn người tù nên có một cái gì buồn nhớ mênh mang làm xao động lòng người.
- Phân tích khổ 3:
Ôi! hôm nay sao nhựa sống tràn trề
Trong những tiếng nghe chừng quen thuộc quá!
Nghe gió xối trên cành cây ngọn lá
Nghe mênh mang sức khỏe của trăm loài
Tôi mơ hồ nghe tất cả bên ngoài
Đang ríu rít giữa một trời rộng rãi
Đang hút mật của đời xây hoa trái
Hương tự do thơm ngát cả ngàn ngày…
Có 1 điều mà chúng ta cần lưu ý là ở 2 khổ đầu, cuộc sống bên ngoài mới chỉ được hình dung qua những chi tiết cụ thể, thì ở khổ 3 này, cuộc sống ngoài kia lại hiện lên trong cái nhìn toàn cảnh. Với mọi sắc thái cảnh qua trí tưởng tượng của người tù hình như đều được khuếch đại lên, cho nên từ chuyển động cho đến sắc hương tất cả đều ở mức tột cùng, gió thì xối trên cành cây ngọn lá. Hương thơm thì ngào ngạt và người tù không chỉ cảm nhận được cái hữu hình của cuộc sống bên ngoài mà còn cảm nhận được cái vô hình nữa. Người tù như nhận thấy rất rõ, nghe mênh mang sức mạnh của trăm loài.
Đặc biệt nếu như 2 khổ đầu, hình ảnh về cuộc sống bên ngoài còn dựa vào những tín hiệu âm thanh trực tiếp thì đến đây dường như nhà thơ đã huy động những ký ức còn tươi nguyên với lòng khát khao tự do và niềm tha thiết với đời để hình dung ra cuộc cuộc sống bên ngoài.
Bởi trong cuộc sống thường nhật có biết bao hiện tượng nhỏ nhặt tồn tại ở quanh ta mà ta không để ý, không quan tâm, ấy thế mà khi xa rời nó, ta mới thấy nó đáng quý biết bao, cần thiết biết bao. Chính nó đã tạo nên sự sống này, nó cần như không khí ta thở hàng ngày đó. ở đây cái ngẫu nhiên thoáng qua của hoàn cảnh đã bắt gặp cái sâu sa và tất yếu của nội tâm để tạo nên chiều sâu nhân bản của tâm hồn.
- Tiểu kết chặng 1:
Hai khổ thơ đầu của tâm tư trong tù thể hiện được cảm giác cô đơn đang đè nặng trong tâm trạng người tù. Có lúc tâm trang cô đơn ấy được thể hiện bằng sự đối lập giữa 2 cảnh sống, bên trong và bên ngoài nhà tù. Có lúc nó lại được bày tỏ bằng nỗi háo hức hướng ra cuộc sống bên ngoài. Như vậy cả phần 1 của bài thơ, người chiến sĩ cộng sản vẫn còn luẩn quẩn trong nỗi đau của riêng mình.
- Phân tích chặng 2 :
Ôi! Bao nhiêu ảo tưởng của hồn ngây
Tôi phút bỗng như quên đời thê thảm
ở ngoài kia… biết bao thân tù hãm
Đọa đày trong những hố thẳm không cùng!
Tôi chiều nay giam cấm hận trong lòng
Chỉ là một giữa loài người đau khổ
Tôi chỉ một con chim non bé nhỏ
Vứt trong lồng con giữa một lồng to
Chuyển đời quay theo tiếng gọi tự do
Tôi chỉ một giữa muôn người chiến đấu
Vẫn đứng thẳng trên đường đầy lửa máu
Chân kiêu căng không thoái bộ bao giờ!
- Sang phần 2 của bài thơ, có một sự chuyển đổi trong dòng tâm tư của tác giả. 12 câu thơ có dáng vẻ của một bản tự kiểm điểm chân thành. Xúc cảm đang lên đến cao trào bỗng được thức tỉnh bởi ý thức tỉnh táo, được chế ngự bằng nhận thức CM. Giọng thơ chuyển sang biện luận, lý giải. Nhưng không phải là thứ thuyết lý trừu tượng hay chính luận khô khan, mà là một sự tự phê phán để thức tỉnh một chân lý đời sống theo quan điểm cách mạnh, nó đáng yêu ở giọng sôi nổi, chân thành, nhiệt tình tự phê phán và niềm tin trong trẻo vào lý tưởng và cuộc đấu tranh cách mạng. Hình tượng thơ cũng chuyển đổi theo nhịp tâm trạng. Nếu cái nghe vốn say thì cái nghĩ lại rất tỉnh. ở chặng 1 và chặng 2 có hai câu thơ mới đọc nghe nhịp điệu có vẻ rất giống nhau:
Chặng 1: ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu
Chặng 2 : ở ngoài kia biết bao thân tù hãm
Nhưng đọc kỹ thì 2 câu lại khác nhau một trời một vực. Câu thứ 2 phủ định câu thứ nhất như một sự ngộ nhận. Sau khi đã bị đè nặng bởi cảm giác đơn độc, người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi mới chợt nhận ra ảo tưởng ngay trong cách suy nghĩ của mình. Có lẽ vì cảm giác cô đơn bị giam hãm, bị cách biệt đã khiến người chiến sĩ cộng sản này tưởng như cuộc sống ở ngoài kia thật là tươi đẹp. Bây giờ tác giả mới nhận thấy: “ở ngoài kia biết bao thân tù hãm - Đoạ đầy trong hố thẳm không cùng.”. Hoá ra khi đất nước còn đang trong vòng nô lệ thì làm gì có sự vui sướng ở bất kỳ đâu. Cả đất nước trở thành một nhà tù lớn. Nỗi đau không phải của riêng ai, nỗi đau của người chiến sĩ cộng sản đang bị giam hãm nằm trong nỗi đau chung của cả dân tộc, cả đất nước. ý nghĩa ấy đã khiến người chiến sĩ này liên tưởng mình giống như 1 con chim bị giam trong 1 cái lồng con và cái lồng con đặt trong cái lồng to. Trong này hay ngoài kia thì có gì khác nhau.
Chính bước phát triển đột biến này trong nhận thức người tù đã giúp cho người cộng sản trẻ tuổi này thoát ra khỏi cái tôi cá nhân để tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời mình trong cái ta chung. Bước chuyển biế
File đính kèm:
- Tam tu trong tu.doc