A. KIẾN THỨC CƠBẢN
1/ Chủ đềtác phẩm: Từ nỗi đau riêng của bản thân đến nỗi đau chung của xóm làng, dân
tộc đã khiến Tnú quật khởi và dân làng Xô-man đồng khởi diệt giặc đểtựcứu mình và
góp phần giải phóng dân tộc.
2/ Hình ảnh cây xà nu và rừng xà nu trong truyện có tác dụng tạo nền cho câu chuyện.
Bằng những hình tượng nghệthuật có giá trịtạo hình, có ý nghĩa tượng trưng và bằng thủ
pháp nhân hóa làm cho cây xà nu cũng nhưrừng xà nu hiện hình sống động trước mắt
người đọc: “Cảrừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bịthương. Có những
cây bịchặt đứt ngang nửa thân mình, đổào ào nhưmột trận bão”. Rồi “ nhựa ứa ra,
tràn trề rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn”.
Thếnhưng “Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành
nhưtrên một thân thểcường tráng”. Và có khi “cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có
bốn năm cây non mọc lên, ngọn xanh rợn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”.
Bức tranh phong cảnh sống động như được khắc, được chạm thành đường nét chắc khỏe,
những hình khối vững chãi với những màu sắc và mùi vị đặc biệt: “Ởchỗvết thương,
nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè, gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen
và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn ”.
5 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 1489 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Văn xuôi 1954 – 1975 - Vấn đề 3 Rừng xà nu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề: VĂN XUÔI 1954 – 1975
Vấn đề 3: RỪNG XÀ NU
“Một cây ngả cả rừng cây lại mọc
Người tiếp người đã mấy vạn mùa xuân…”
Nguyễn Trung Thành
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1/ Chủ đề tác phẩm: Từ nỗi đau riêng của bản thân đến nỗi đau chung của xóm làng, dân
tộc đã khiến Tnú quật khởi và dân làng Xô-man đồng khởi diệt giặc để tự cứu mình và
góp phần giải phóng dân tộc.
2/ Hình ảnh cây xà nu và rừng xà nu trong truyện có tác dụng tạo nền cho câu chuyện.
Bằng những hình tượng nghệ thuật có giá trị tạo hình, có ý nghĩa tượng trưng và bằng thủ
pháp nhân hóa làm cho cây xà nu cũng như rừng xà nu hiện hình sống động trước mắt
người đọc: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những
cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”. Rồi “… nhựa ứa ra,
tràn trề… rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn”.
Thế nhưng “Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành
như trên một thân thể cường tráng”. Và có khi “cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có
bốn năm cây non mọc lên, ngọn xanh rợn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”.
Bức tranh phong cảnh sống động như được khắc, được chạm thành đường nét chắc khỏe,
những hình khối vững chãi với những màu sắc và mùi vị đặc biệt: “Ở chỗ vết thương,
nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè, gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen
và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn…”.
Cây xà nu là một loại cây đặc biệt sinh trưởng nơi núi rừng Tây Nguyên, là loại cây “ham
ánh sáng mặt trời” như con người Tây Nguyên luôn vươn tới ánh sáng chân lí. Nó lại có
sực sống vững bền: Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên,
ngọn xanh rờn…” như con người Tây Nguyên luôn quật khởi kiên cường. Cây xà nu,
rừng xà nu đã gắn bó với con người Tây Nguyên tự bao đời nay, như một lẽ tự nhiên và
khi cần “rừng xà nu ưỡm tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng…”. Ở một tầng
nghĩa cao hơn, rừng xà nu tiêu biểu cho sức sống bất diệt, tinh thần đấu tranh kiên cường
bất khuất của nhân dân Tây Nguyên. Các thế hệ cây xà nu nối tiếp nhau lớn lên tượng
trưng cho các thế hệ dân làng Xô-man, nói rộng ra là các thế hệ nhân dân Việt Nam.
3/ Trong bối cảnh núi rừng hùng vĩ và trang nghiêm nổi lên bốn hình tượnng nhân vật:
Cụ Mết, Tnú, Dít, bé Heng. Mỗi nhân vật, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Trung
Thành, đều để lại trong lòng người đọc những ấn tượng đẹp và sâu sắc.
- Cụ Mết: là một “già làng” với hình dáng bên ngoài “quắc thước”, “râu đã dài tới ngực
và đen bóng, mắt vẫn sáng và xếch ngược; Ông ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn”
– “Ông không bao giờ khen “Tốt! Giỏi!” – Những khi vừa ý nhất ông chỉ nói “Được!”.
Giọng nói của ông ồ ồ “dội vang trong ngực”.
Là một người giàu kinh nghiệm sống, lời nói của ông mang ý nghĩa chân lí: “Chúng nó
cầm súng, mình phải cầm giáo”. Mệnh lệnh chiến đấu ông phát ra đơn giản và chắc nịch:
“Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên…” Tính cách của ông tiêu biểu cho tính cách quật cường,
bất khuất của dân tộc ta, tượng trưng cho lịch sử, cho truyền thống của dân tộc.
- Tnú: Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, đi làm liên lạc cho cán bộ, anh vượt sông ở những quãng
nước chảy xiết nhất, những chỗ mà giặc không ngờ. Bị giặc phục kích bắt được, Tnú nuốt
thư vào bụng: Cộng sản ở đây nè! Bị giặc đốt mười ngón tay, Tnú không kêu. Anh căm
giặc đến “mất cảm giác đau đớn”. Nét gan góc đó chính là tinh thần dũng cảm, kiên
cường của dân tộc.
- Dít: Cô em vợ Tnú. Cô cũng gan góc không kém gì Tnú. Giặc bắt cô đứng giữa sân, lên
đạn bắn qua tai, qua tóc, cày đất quanh hai chân cô. Váy rách từng mảng, Dít khóc.
Nhưng đến viên thứ mười, cô đứng im, nhìn bọn địch bình thản. Khi chị của Dít là Mai bị
giặc giết, Dít không khóc, không ngủ. Ngồi cho tới gà gáy, Dít đi giã gạo, gần đủ 30 lon
gạo trắng cho Tnú mang đi.
Lớn lên, Dít làm công tác lãnh đạo, được quần chúng tin cậy vì cô bình tĩnh, gan dạ, giàu
tình cảm mà có tính nguyên tắc. Khi nghe tin Tnú về, câu hỏi đầu tiên của cô về Tnú với
giọng hơi lạnh lùng: “- Đồng chí về có giấy không?”. Nhưng xem giấy xong, đưa trả lại
cho Tnú rồi chị mới cười và đổi cách xưng hô:
- “… Sao anh về có một đêm thôi?”
Cả Tnú và Dít đều tượng trưng cho lực lượng chủ chốt trong cuộc đấu tranh cách mạng
hiện tại, là sự tiếp nối tự nhiên trong lịch sử đấu tranh của dân tộc.
- Bé Heng: là thế hệ đàn em, là hình ảnh hôm qua của Tnú. Bé Heng hồn nhiên, tươi mát,
sống động, đáng tin tưởng của tương lai. Hình tượng nhân vật này hứa hẹn một sự phát
triển không ngờ sau này. Đó là thành phần kế tục sự nghiệp cách mạng của cha ông.
B. LUYỆN TẬP
Đề 1: Phân tích nhân vật Tnú trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.
Đề 2: Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung
Thành.
* Gợi ý
Đề 1: Tnú là nhân vật trung tâm của truyện. Cuộc đời của Tnú tiêu biểu cho số phận và
con đường của các dân tộc Tây Nguyên, từ trong đau thương, phẫn uất quật khởi vùng
dậy chiến đấu.
- Tnú là một nhân vật có tính cách: gan góc, táo bạo, trung thực, dũng cảm (cùng với Mai
vào rừng tiếp tế cho anh Quyết). Đặc biệt, Tnú có lòng căm thù giặc sâu sắc, nhất mực
trung thành với cách mạng (khi địch tra hỏi cộng sản ở đâu, Tnú đặt tay lên bụng mà nói
“Ở đây này”).
- Xây dựng nhân vật Tnú, tác giả tập trung miêu tả hình ảnh đôi bàn tay. Bàn tay như một
chi tiết nghệ thuật thể hiện tính cách, qua bàn tay có thể thấy được cuộc đời, số phận và
tính cách nhân vật.
Khi còn lành, bàn tay Tnú cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho. Khi học hay quên chữ,
bàn tay đó dám cầm đá đập vào đầu mình để trừng phạt. Bàn tay đặt lên bụng mình mà
nói: “Cộng sản đây này!”. Khi địch tra khảo, sẵn sàng nhận thêm những vết dao chém
của kẻ thù lên lưng v.v…).
Hai bàn tay Tnú đã bị giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu rồi đốt. Mười ngón tay anh thành
mười ngọn đuốc. Nguyễn Trung Thành đã miêu tả thật cụ thể cái cảm giác đau đớn rùng
rợn ấy: “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong
lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”.
Hai bàn tay Tnú, mỗi ngón chỉ còn hai đốt. Hai bàn tay cụt ngón đó là chứng tích đầy
căm hận, là mối thù mà suốt đời anh phải trả. Mười ngọn đuốc nơi mười ngón tay Tnú đã
châm bùng lên ngọn lửa đồng khởi của dân làng Xô-man. Và bàn tay của Tnu bị lửa thiêu
cháy, mỗi ngón tay còn hai đốt ấy vẫn cầm chắc ngọn dáo, cây súng đi tìm giặc để trả
thù. Đến cuối truyện, hình ảnh bàn tay Tnú đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc ngay trong
hầm ngầm cố thủ của nó.
- Hình tượng Tnú, với cuộc đời và số phận đầy bi tráng đã thể hiện cụ thể mâu thuẫn
không đội trời chung giữa những người dân cách mạng Tây Nguyên với lũ giặc độc ác,
man rợ, đã cắt nghĩa sâu sắc lí do tại sao người Tây Nguyên (và cả đất nước Việt Nam
trong thời đại chống Mĩ) lại vùng dậy như thác đổ bão lay quyết chiến đấu để bảo vệ
hạnh phúc riêng tư và hạnh phúc cộng đồng.
Đề 2: “Rừng xà nu” là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Trung Thành và của văn
học thời chống Mĩ. Trong tác phẩm, với hình tượng cây xà nu, Nguyễn Trung Thành đã
làm nổi rõ khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, một đặc điểm cơ bản của văn học
Việt Nam giai đoạn 1945-1975. Khuynh hướng này đã chi phối sự sáng tạo nghệ thuật
của các nhà văn trong giai đoạn văn học này.
Đọc “Rừng xà nu” những nhân vật như cụ Mết, Tnú, Dít, Mai… tạo nên ấn tượng sâu sắc
nơi độc giả. Nổi bật hình ảnh cây xà nu được lặp đi lặp lại gần hai mươi lần một hình
tượng đặc sắc bao trùm toàn bộ thiên truyện ngắn này. Hình tượng ấy đã tạo nên vẻ đẹp
hùng tráng, chất sử thi và lãng mạn cho câu chuyện về làng Xô-man bất khuất, kiên
cường. Qua tác phẩm, cây xà nu, rừng xà nu đã được Nguyễn Trung Thành miêu tả thật
cụ thể, thật chi tiết với ngôn ngữ giàu chất thơ, bằng những “lời văn có cánh” trong một
cảm xúc thật say mê và mãnh liệt. Cây xà nu trong truyện xuất hiện rất nhiều lần và
dường như rất quen thuộc với con người nơi núi rừng Tây Nguyên, nó tham dự vào tất cả
những sinh hoạt, những tâm tình, những buồn vui của người dân nơi đây trong cuộc chiến
đấu chống Mĩ thật anh dũng của họ.
Tác phẩm “Rừng xà nu” là một bản anh hùng ca về cuộc đời anh dũng, đau thương, bất
khuất của Tnú cũng như của tất cả dân làng Xô-man. Câu chuyện ấy được kể trên nền
tảng chính của hình tượng cây xà nu – một hình tượng hàm chứa rất nhiều ý nghĩa tượng
trưng và khái quát. Những cây xà nu, rừng xà nu như những con người, những tâm hồn
sống, vừa là nhân chứng, vừa tham gia bản anh hùng ca, cũng vừa chịu đựng mọi vất vả,
đau thương dưới tầm đạn kẻ thù. Nhưng bất chấp tất cả, rừng xà nu vẫn tràn đầy sức
sống, vẫn vươn mình lên cường tráng vượt lên mọi thương đau. Cây xà nu là một hình
ảnh mang tính chất tượng trưng cho khát vọng tự do, khát vọng giải phóng, cho phẩm
chất anh hùng và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của dân làng Xô-man.
Mở đầu câu chuyện là hình ảnh “cả rừng xà nu hàng vạn cây” và kết thúc vẫn là “những
rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Hình ảnh ấy như một nét nhạc trầm hùng, một
bản đàn dạo, là cái “phông” cho cả một câu chuyện khiến thiên truyện càng mang đậm
tính sử thi và lãng mạn hơn. Rừng cây xà nu được xem như là biểu tượng cho con người
Xô-man. Với hình ảnh nhân hóa, Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cây xà nu như những
con người, chúng cũng có “vết thương”, biết “ham ánh sáng” và “ưỡn tấm ngực lớn ra
che chở cho làng”. Cây xà nu còn là một hình ảnh so sánh với con người “ngực căng
bằng cây xà nu”. Rừng xà nu năm tháng đứng dưới tầm đại bác kẻ thù chịu đựng biết bao
tàn phá, cũng như những đau thương mà dân làng phải gánh chịu trước ách kìm kẹp của
giặc. “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”. “Cây bị chặt đứt
ngang nửa thân mình nhựa ứa ra, tràn trề”… rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành
từng cục máu lớn”. Hình ảnh đó gợi lên lòng căm thù và kết tụ một ý chí phản kháng.
Nhưng hơn hết vẫn là sức sống mãnh liệt đầy sức trẻ của rừng xà nu bạt ngàn. “Cạnh một
cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi
tên lao thẳng lên bầu trời”, “có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắc như những
mũi lê” “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng”. Thế mới biết sức trẻ của cây xà nu
mãnh liệt đến dường nào! Sức trẻ ấy còn mang tính tượng trưng cho thế hệ trẻ của làng
Xô-man. Đó là những Mai, Dít, Tnú, Heng, những con người luôn gắn bó với cách mạng,
bất khuất từ tuổi thơ, lớn lên trong lửa đạn, trưởng thành trong đau thương và sẵn sàng
chiến đấu hi sinh vì tự do của dân tộc.
Bên cạnh đó, sức sống bất khuất kiên cường của cây xà nu còn được tạo bởi hàng vạn cây
ở những đồi xà nu nối tiếp nhau tới chân trời ở tấm ngực lớn của rừng ưỡn ra che chở cho
làng. Đó là những cây xà nu thật vững chắc, xanh tốt đã vượt lên được cao hơn đầu
người, cành lá sum suê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không
giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường
tráng chúng vượt lên rất nhanh thay thế những cây đã ngã”, một cây ngã xuống tức thì
bốn năm cây con lại mọc lên cứ thế trở thành cả một rừng cây xà nu nối tiếp đến chân
trời. Những cây xà nu, rừng xà nu ấy là hình ảnh của dân làng Xô-man kiên cường chống
giặc, bất chấp mọi hi sinh, một lòng đi theo Đảng, đi theo kháng chiến hết thế hệ này đến
thế hệ khác. Đó là những cụ Mết, anh Xút, Tnú, Mai, Dít, anh Brơi… mà tiêu biểu là hình
ảnh cụ Mết. Nhà văn đã ví cụ “như một cây xà nu lớn”. Hơn ai hết, cụ là người hiểu rất rõ
sự gắn bó của cây xà nu và mảnh đất đang sống, hiểu được sức mạnh tiềm tàng bất khuất
của rừng xà nu cũng như của dân làng Xô-man. Chính cụ Mết đã nói với Tnú “không có
cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”, “cây mẹ chết cây con lại mọc lên”.
Cây xà nu còn là người chứng kiến sự giác ngộ, sự hi sinh thầm lặng, lòng dũng cảm và ý
chí quật khởi của dân làng Xô-man. “Đứng trên đồi cây xà nu gần con nước lớn, cả vùng
Xô-man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng”. Ánh lửa xà nu soi sáng lời căn dặn
của anh Quyết: “Người còn sống phải chuẩn bị dao, mác, vụ, rựa, tên, ná… Sẽ có ngày
dùng tới”. Lửa xà nu thử thách ý chí cũng như lòng can đảm của Tnú: “Không có gì
đượm bằng nhựa cây xà nu… Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc… máu anh mặn
chát ở đầu lưỡi…”.
Giọng điệu sử thi của “Rừng xà nu” bắt đầu từ câu chuyện kể của cụ Mết dưới ánh lửa xà
nu, một câu chuyện phảng phất phong vị anh hùng ca. Và cây xà nu không chỉ gắn với
quá khứ, hiện tại anh hùng mà còn gắn bó với mọi sinh hoạt, phong tục và đời sống văn
hóa của người Xô-man, của các dân tộc Tây Nguyên.
Hình tượng cây xà nu thật sự là một sáng tạo nghệ thuật đáng kể của Nguyễn Trung
Thành. Nhà văn đã lựa chọn hình ảnh cây xà nu và đem lại cho nó những ý nghĩa mới
những lớp ý nghĩa rất khác nhau qua cách viết vừa gợi vừa tả của tác giả. Qua hình tượng
này người đọc không chỉ thấy rõ sức sống kiên cường, mãnh liệt của dân làng Xô-man,
của con người Tây Nguyên nói riêng mà còn là của dân tộc Việt Nam nói chung trong
những tháng năm chống Mĩ.
* * *
File đính kèm:
- vantap6-RungXaNu.pdf