Đề cương ôn phụ đạo môn ngữ văn lớp 10

A. Tóm tắt kiến thức cơ bản:

I. Những nét chính về cuộc đời của Nguyễn Du:

- Nguyễn Du( 1765- 1820), tự là Tố Như, hiệu là Thanh hiên

- Quê: Làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh

- Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộccó nhiều đời làm quan dưới thời Lê- Trịnh( Cha kà Nguyễn Nghiễm từng làm Tể tướng, anh là Nguyễn Khản đỗ tiến sĩ làm đại quan trong phủ chúa được Trịnh Sâm trọng vọng)-> cuộc sống sung sướng.

- Đến năm 10 tuổi cha mất, năm 12 tuổi mẹ qua đời-> sống cùng anh trai và tiếp tục theo học.

- Năm 1783, ông thi Hương và đỗ tam trường được giữ chức quan nhỏ.

- Khi Tây Sơn ra Bắc, Nguyễn Du chạy loạn sống10 năm gió bụi.

- Năm 1802, Gia Long lên ngôi Nguyễn Du ra làm quan cho triều đình Nguyễn

- Năm 1813, cử làm chánh sứ đi Trung Quốc.

- Năm 1820, Minh Mệnh

 

 

doc7 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2449 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề cương ôn phụ đạo môn ngữ văn lớp 10, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề cương ôn phụ đạo môn ngữ văn lớp 10 STT Tên bài Số tiết theo PPCT Ghi Chú 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 Tác gia Nguyễn Du Trao duyên Nỗi thương mình Chí khí anh hùng Phú sông Bạch Đằng Nguyễn Trãi Đại cáo bình Ngô Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ Luyện tập phương pháp thuyết minh Luyện tập viết đoạn văn nghị luận Ôn tập phần Tiếng Việt Câu hỏi phụ Kiểm tra thử Chữa bài kiểm tra 1 - 2 3 - 4 5 - 6 7 - 8 9 - 10 11- 12 13 - 14 15 - 16 17 - 18 - 19 20 - 21 - 22 23 - 24 25 - 26 - 27 28 - 29 30 Giáo viên giảng dạy Dương Thị Thu Huyền BGH ký duyệt Tiết 1-2 : Tác gia Nguyễn Du A. Tóm tắt kiến thức cơ bản : I. Những nét chính về cuộc đời của Nguyễn Du : - Nguyễn Du( 1765- 1820), tự là Tố Như, hiệu là Thanh hiên - Quê : Làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh - Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộccó nhiều đời làm quan dưới thời Lê- Trịnh( Cha kà Nguyễn Nghiễm từng làm Tể tướng, anh là Nguyễn Khản đỗ tiến sĩ làm đại quan trong phủ chúa được Trịnh Sâm trọng vọng)-> cuộc sống sung sướng. - Đến năm 10 tuổi cha mất, năm 12 tuổi mẹ qua đời-> sống cùng anh trai và tiếp tục theo học. - Năm 1783, ông thi Hương và đỗ tam trường được giữ chức quan nhỏ. - Khi Tây Sơn ra Bắc, Nguyễn Du chạy loạn sống 10 năm gió bụi. - Năm 1802, Gia Long lên ngôi Nguyễn Du ra làm quan cho triều đình Nguyễn - Năm 1813, cử làm chánh sứ đi Trung Quốc. - Năm 1820, Minh Mệnh Tiết3- 4: Trao duyên I. Đề bài: Phân tích diễn biến tâm trạng của Thuý Kiều trong đoạn trích “ Trao duyên” ( trích trong “Truyện Kiều”) của Nguyễn Du. II. Định hướng làm bài: - Phân tích đoạn trích để làm nổi bật bi kịch tình yêu tan vỡ của Thuý Kiều được Nguyễn Du thể hiện rất tài tình qua diễn biến tâm trạng của Kiều khi nàng trao duyên cho Thuý Vân. - Khi phân tích chú ý khai thác nghệ thuật, sử dụng các điển tích, điển cố trong thơ. III. Yêu cầu về kiến thức: 1. Đặt vấn đề: - Giới thiệu khái quát vị trí đoạn trích( 723- 756),mở đầu cho cuộc đời lưu lạc đầy đau khổ của Thuý Kiều. - Đoạn thơ là lời dặn dò, tâm sựcủa Kiều với Vân. Nàng nhờ cậy em gái một việc thiêng liêng, hệ trọng .Điều này được thể hiện trong tâm trạng đau đớn, tuyệt vọng đầy mâu thuẫn, giằng xé. 2. Giải quyết vấn đề: Quyết định bán mình cứu cha, trong đêm cuối cùng trước khi theo Mã Giám Sinh, Kiều vẫn canh cánh món nợ tình với chàng Kim: “Nỗi riêng riêng những bàn hoàng Dỗuchong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn” Kiều đối diện với chính mìnhtrong sự quẩn quanh, bế tắcKiều chỉ còn biết trông cậy, khẩn khoản tha thiết mong Vân: “ Cậy em, em có chịu lời Ngồi lên cho chị lậy rồi sẽ thưa” Vừa như đặt cả niềm tin, vừa như hi vọng vào Vân “ cậy em” mong em “ chịu lời”rồi Kiều tự hạ mình xuống tư thế của người luỵ phiền, van lơn. Nàng khẩn cầu em gái thay mình nối duyên với Kim Trọng . Kiều coi Vân như ân nhân của mình để thuyết phục em không chỉ nói lời nhờ em mà Kiều còn giãi bày với em chuyện tình duyên của mình: “ Giữa đường đứt gáng tương tư… Xót tình máu mủ thay lời nước non” Tám câu thơ là lời Kiều nói với Vân về nối bất hạnh của mình, về sự thấu hểu hoàn cảnh khó xử của em. Vì thế mà Kiều đã tiếp tục thuyết phục Vân bằng tình máu mủ, khẩn cầu em cho mình chút vui, chút ơn, chút thơm lây vì đức hi sinh cao đẹp của: “ Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây ằ Khi đã thuyết phục được Vân, Kiều trao cho em kỉ vật tình yêu :chiếc thoa, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền nhưng Kiều lại coi đó là của chung( có phần kiều). Nàng muốn níu giữ, níu kéo kỷ niệm, kỷ vật và tình yêu, nàng không đành lòng trao lại cho em tất cả. Điều đó chứng tỏ tình yêu của kiều với Kim Trọnglà rất nồng nàn, sâu sắc. Tuy nhiên Kiều vẫn trao duyên cho em, chứng tỏ trong tình yêu và vì tình yêu Kiều đã dặt hạnh phúc của người yêu lên trên hết. Khi đã trao duyên và những kỷ vật tình yêu cho Vân, tức là đã mất Kim Trọng nàng đau đớn thấy rằng c/s của mình đến đây đã chấm dứt, lời nàng chuyển hẳn sang giọng thương mình, coi mình là người mệnh bạc. Kiều như sống trong chiêm bao nửa tỉnh, nửa mê-> nàng nghĩ về tương lai : Mai sau dù có bao giờ... Rưới xin chén nước cho người thác oan Kiều ý thức sâu sắc mình bị oan uổng, mất tình yêumất tình yêu Kiều coi mình là người đã chết nhưng tâm hồn vẫn mang nặng lời thề nguyền đính ước. đau đớn, xót xa trước tình yêu tan vỡ, nàng quên hết xung quanh chỉ còn biết khóc cho mình,cho mối tình của mình dày công vun đắp mà sao ngắn ngủi: Bây giờ tram gãy, gương tan Kể làm sao xiết môun vàn ái ân Hạnh phúc, tình yêu tan vỡ không thể hàn gắn. Kiều nhận thức rõ thực tại, đau đớn, tuyệt vọng, kiều cất tiếng gọi người yêu rồi ngất đi : “Ôi Kim Lang, hỡi Kim Lang ! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây !” Lời Kiều như oán trách, chất vấn số phận vô lí nhưng buộc nàng phải chấp nhận “ đã đành”. Nỗi đau lên đến tột cùng, nuối tiếc vô hạn. Bi kịch tình yêu lên đến đỉnh điểm trào dâng thành tiếng kêu thê thiết, tuyệt vọng, đau đớn kết thúc lời trao duyên. 3. Kết luận: Trao duên cho em để rồi ra đi mặc cho số phận “ nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Kiều ngỡ rằng trả được nghĩa cho chàng Kim sẽ bớt phần đau khổ. Trái lại, trao duyên cho em rồi, kiều klại càng vô cùng đau khổ. Nguyễn Du với trái tim nhân đạo mênh mông, ông đã ghi lại những biến thái tinh tế trong tâm hồn Kiều, những đau đớn ứa máu của người con gái khi mối tình đầu tan vỡ. Ta cảm thấy Nguyễn Du chính là người chứng kiến lễ trao duyên. Đây là một trong những đoạn thơ xúc động nhất trong “Truyện Kiều” gồm những “câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình” Tiết 5- 6: Nỗi thương mình I. Đề bài: Phân tích đoạn trích “ Nỗi thương mình” để thấy được thân phận bị chà đạp và ý thức nhân phẩm của nàng Kiều. II. Định hướng làm bài: Phân tích làm nổi bật cảnh sống thực của Kiều ở lầu xanh. Tâm trạng đau đớn, tủi nhục ê chề của Kiều khi nhận ra nhân phẩm đã bị vấy bẩn. ý thức sâu sắc về nhân phẩm của mình, vượt lên hoàn cảnh ->Thái độ đồng cảm của Nguyễn Du. III. Yêu cầu về kiến thức: 1. Đặt vấn đề: - Sau khi mắc lận Sở Khanh,bị Tú bà hành hạ đến mức “ Uốn lưng thịt đổ, dập đầu máu sa”, Kiều đâu đớn kêu lên: “ Thân lươn bao quản lấm đầu- Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”. Tú Bà đã đẩy Kiều vào chốn lầu xanh từ đó. - Đoạn trích được lấy từ câu 1229- >1248 đã nói về những tháng ngày Kiều sống chốn lầu xanh. Đoạn thơ đã thể hiện một cách xúc động về nỗi đau đớn, tủi nhục thương thân xót phận và ý thức cao về nhân phẩm cảu Thuý Kiều bị ép , bị đẩy vào vũng bùn tanh hôi. 2. Giải quyết vấn đề: - Mở đầu đoạn trích là cảnh Kiều phải nếm trải trong chốn lầu xanh của mụ Tú Bà: “ Biết bao bướm lả ong lơi… Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh” “ Biết bao” là không đếm được, tính được, không nhớ hết. Kiều phải tiếp khách làng chơi triền miên: “ đầy tháng”, “ suốt đêm”, “ sớm đưa”, “ tối tìm”.Nguyễn Du đã sử dụng tài tình các ẩn dụ: “ bướm lả ong lơi”, “ cuộc say”, “ trận cười” , các thi liệu, điển tích “lá gió cành chim”, Tống Ngọc, Trường Khanh vừa diễn tả được cuộc sống hiện thực chốn lầu xanh của Kiều –làm kĩ nữ ở lầu xanh vừa giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật mà ông hết lòng yêu quý, trân trọng. Mười hai câu thơ tiếp theo nói về tâm trạng Thuý Kiều trong những tháng ngày tuỉ nhục : “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh Giật mình, mình lại thương mình xót xa…” Vào lúc nửa đêm- lúc tàn canh Kiều đã ngồi đối diện với chính lòng mình “ giật mình” nhận ra nhân phẩm của mình đã bị chà đạp, vấy bẩn, Kiều thảng thốt, đau đớn, xót xa, tủi hổ đến ê chề. Kiều đã nghĩ về những ngày còn ở bên cha mẹ “ phong gấm rủ là”, Kiều càng đau đớn, thương cho thân phận mìnhphải đem nhan sắc làm món hàngcho khách làng chơi. Các điệp từ, so sánh, ẩn dụ và nghệ thuật tương phản đã nói lên nỗi xót xa, đau đớncủa Kiều sau những ngày bướm lả ong lơi ấy. Hàng loạt những câu hỏi tu từ: “ Khi sao?”, “Giờ sao ?”, “Mặt sao?”, “Thân sao”cất lên như những nhát dao cứa sâu vào tim gan tê buốt của người con gái khi bị đẩy vào vũng bùn hôi tanh, nhơ nhớp. Hoàn cảnh đầy trớ trêu nhưng lúc nào Kiều cũng luôn tự ý thức về nhân phẩm của mình: “ Mặc người mưa Sở mây Tần Riêng mình nào biết có xuân là gì.” Đối với khách làng chơi, những người phong lưu “ quen thói bốc rời” như Thúc Sinh thì chốn lầu xanh, cõi yên hoa là cảnh thần tiên, là cảnh mộng truỵ lạc: “ Đòi phen gió tựa hoa kề… Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa” Không chỉ có phong, hoa, tuyết, nguyệt mà còn có cả cầm, kì, thi, hoạ nhưng Kiều vẫn dửng dưng. Nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật tâm trạng đau khổ, tủi nhục, cô đơn của người con gái tài sắc đang vùng vẫy chống chọi lại cảnh đời truỵ lạc.Cuộc đời của kẻ nữ bề ngoài cũng mang vẻ tao nhã nhưng bên trong là sự nhơ nhớp hôi tanh. Kiều luôn sống trong tâm trạng thờ ơ, lạnh nguộivì giữa chốn lầu xanh tìm đâu ra kẻ “tri âm” nên lúc nào nàng cũng “vui gượng” để chiều lòng khách: “ Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn ảnh có vui đâu bao giờ” Lời thơ là lời đồng cảm, chia sẻ của nhà thơ giàng cho nhân vật. Từ sự đồng cảm ấy nhà thơ đã khái quát được mối quan hệ giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, tình và cảnh. 3. Kết luận: Những vần thơ đẹp đã tôn lên giá trị nhân bản đoạn trích “ Nỗi thương mình”. Giữa chốn thanh lâu mà Kiều vẫn vượt qua mọi cám dỗ, cố vượt lên cảnh ngộ để giữ lấy nhân phẩm. Đoạn trích mang giá trị nhân văn cao đẹp thể hiện tấm lòng cảm thương của Nguyễn Du trước bi kịch của Kiều, thái độ trân trọng về sự tự ý thức nhân phẩm của Kiều. Tiết 7- 8: chí khí anh hùng I. Đề bài: Phân tích vẻ đẹp của người anh hùng Từ Hải trong đaon trích: “ Chí khí anh hùng” trích trong “ Truyện Kiều” của Nguyễn Du. II. Định hướng làm bài: III. Yêu cầu về kiến thức: 1. Đặt vấn đề: - Giới thiệu vị trí đoạn trích( 2213- 2230). - Từ Hải là nhân vật mà Nguyễn Du đã gửi gắmgiấc mộng anh hùng, trả ân báo oán. Nhân vật mà nguyễn Du thể hiện thái độ trân trọng, ngợi ca, khẳng định qua bút phpá lí tưởng, lãng mạn hoá. 2. Giải quyết vấn đề: - H/ả Từ Hải trong 4 câu thơ đầu:Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Con người luôn khát khao được vùng vẫy giữa trời đất cao rộng, dường như không gì có thể kìm chế nổi. “Nửa năm hương lửa đang nồng… Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” Kiều và Từ Hải đang sống trong cảnh êm đềm hạnh phúc “ hương lửa đương nồng”chợt người anh hùng ấy nhận thấy chí lớn chưa thànhđã thoắt “động lòng bốn phương”, dứt khoát, kiên quyết, mau lẹ, toàn bộ tâm tư hướng về “ trời bể mênh mang” và lập tức ở vào tư thế một mình với “ thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”để thực hiện cái chí tung hoành bốn phương. Trong cảnh chia tay, h/ả Từ Hải hiện lên là con người có chí khí, con người của sự nghiệp anh hùng chứ không phải của những đam mê thường tình. Nhưng không chỉ ở tư thế trong cuộc chia tay mà vẻ đẹp của nhân vật anh hùng này còn được thể hiện trong lời chia biệt với người tri kỉ. - Vẻ đẹp con người Từ Hải trong lời chia tay. + Con người có chí khí phi thường, không thể đắm chìm trong chốn buồng khuê. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, Từ Hải thoắt đã động lòng bốn phương. Tiếng gọi của sự nghiệp đã thức tỉnh chàng từ bên trong, giờ đây sự nghiệp đối với chàng là trên hết. đối với Từ Hải nó chẳng những là ý nghĩa của sự sống mà còn là điều kiện để thực hiện ước mơ mà Kiều- người tri kỉ gửi gắm, trông cậy: “ Từ rằng: tâm phúc tương tri Sao chưa thoát khỏi nữ ni thường tình ằ Coi Kiều là tri kỉ, tâm phúc vậy mà trong cuộc chia tayTừ Hải không một chút bịn rịn. Chàng trách Kiều “ chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”, mong Kiều vượt lên le thường để làm vợ người anh hùng và Từ ước hẹn với Kiều: “ Bao giờ mười vạn tinh binh Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường” Lời hứa hẹn thể hiện nét đẹp của con người rất mực tin tưởng vào tương lai. + Con người rất mực tin tưởng vào tương lai. Trước đây ngay trong cảnh tri ai, Từ Hải đã ngang nhiên xem mình là người anh hùng, tất cả sự nghiệp sau này như đã nắm chắc trong tay. Giờ đây xuất phát với thanh gươm yên ngựa, Từ Hải khẳng định muộn thì không quá một nămchàng sẽ trở về với cơ đồlớn đem lại cho Kiều danh vị và sẽ rước Kiều nghi gia-> Từ quyết tâm lên đường không chút chần chừ do dự, rất mạnh mẽ. 3. Kết luận : - Từ Hải hiện lên là người anh hùng có chí khí phi thường, mưu cầu nghiệp lớn, rất mực tin tưởng vào tài năng bản lĩnh của mình.H/ả Từ Hải là h/ả thể hiện mạnh mẽ ước mơ vẫn âm itrong cảnh đời tù túng của xã hội cũ. Chàng là nhân vật mà Nguyễn Du đã gửi gắm giấc mộng anh hùng, thực hiện giấc mộng công lí.

File đính kèm:

  • docon phu dao lop 10.doc