Đề cương ôn tập học kỳ II lớp 11

Trong lịch sử văn học cách mạng nước nhà, thật hiếm thấy nhà thơ nào lại có những tác phẩm mang đậm dấu ấn đặc trưng của mỗi giai đoạn lịch sử và đã đi vào lòng người như thơ Tố Hữu trong thế kỷ 20. Tình yêu quê hương, đất nước thiết tha, sâu nặng đã hóa thân vào những vần thơ trữ tình chính trị đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật thơ ca cách mạng

Đọc những vần thơ, những bài thơ của Tố Hữu, chúng ta như cảm nhận được một tâm hồn thơ dạt dào cảm xúc, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng trung trinh với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân và tình cảm gắn bó thân thiết keo sơn với đồng bào, đồng chí.

“Dù ai thay ngựa giữa dòng

Đời ta vẫn ngọn cờ hồng cứ đi

Vẫn là ta đó những khi

Đầu voi ra trận cứu nguy giống nòi

Bao trùm lên toàn bộ sáng tác thơ của Tố Hữu là vì lý tưởng cách mạng, vì cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì lương tâm, chính nghĩa, công lý và lẽ phải trên đời. Và một trong những giá trị tiêu biểu của thơ Tố Hữu là tính hướng thiện được biểu lộ vừa thầm kín, tinh tế, vừa sâu sắc, đậm đà qua 6 tập thơ nổi tiếng: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận, Gió lộng, Máu

Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của ông. Có thể nói “ Từ ấy” là tiếng hát của người thanh niên yêu nước Việt Nam giác ngộ lí tưởng Mác Lê Nin trong ngày hội lớn của cách mạng:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

“Từ ấy” là một thời điểm lịch sử đã trực tiếp tác động đến cuộc đời nhà thơ khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, một kỷ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng Cách mạng,Trong buổi ban đầu ấy, những người thanh niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết nhưng vấn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách thống trị của thực dân phong kiến “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”.Chính trong hoàn cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng hạ , như mặt trời xua tan đi những u ám, buồn đau, quét sạch mây mù và đen tối hướng đến cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì một tương lai tươi sáng của dân tộc.

Người thanh niên học sinh Tố Hữu đã đón nhận lí tưởng ấy không chỉ bằng khối óc mà bằng cả con tim, không chỉ bằng nhận thức lí trí mà xuất phát từ tình cảm:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim

Từ ấy đã làm cho tâm hồn Tố Hữu“ bừng nắng hạ” đó là một luồng ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ của nắng vàng chứa chan hạnh phúc ấm no.Soi tỏ vào những bài thơ sau này ta mới thấy hết được niềm vui sướng của Tố Hữu trước ánh sáng huy hoàng của chân lí.

Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng

Ta đi tới chỉ một đường cách mạng

Và đó mới là bản chất của lí tưởng cộng sản đã làm người thanh niên 18 tuổi ấy say mê, ngây ngất trước một điều kì diệu:

Mặt trời chân lí chói qua tim

Mặt trời chân lí là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lí tưởng của Đảng,của cách mạng , mặt trời của chủ nghĩa xã hội. Tố Hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tuởng cách mạng cao đẹp.Bởi lí tưởng đã “chói” vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi kết hợp hài hòa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi có lí tưởng cách mạng, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào.

 

doc14 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2520 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề cương ôn tập học kỳ II lớp 11, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP TỪ ẤY – TỐ HỮU Trong lịch sử văn học cách mạng nước nhà, thật hiếm thấy nhà thơ nào lại có những tác phẩm mang đậm dấu ấn đặc trưng của mỗi giai đoạn lịch sử và đã đi vào lòng người như thơ Tố Hữu trong thế kỷ 20. Tình yêu quê hương, đất nước thiết tha, sâu nặng đã hóa thân vào những vần thơ trữ tình chính trị đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật thơ ca cách mạng Đọc những vần thơ, những bài thơ của Tố Hữu, chúng ta như cảm nhận được một tâm hồn thơ dạt dào cảm xúc, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng trung trinh với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân và tình cảm gắn bó thân thiết keo sơn với đồng bào, đồng chí. “Dù ai thay ngựa giữa dòng Đời ta vẫn ngọn cờ hồng cứ đi Vẫn là ta đó những khi Đầu voi ra trận cứu nguy giống nòi Bao trùm lên toàn bộ sáng tác thơ của Tố Hữu là vì lý tưởng cách mạng, vì cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì lương tâm, chính nghĩa, công lý và lẽ phải trên đời.. Và một trong những giá trị tiêu biểu của thơ Tố Hữu là tính hướng thiện được biểu lộ vừa thầm kín, tinh tế, vừa sâu sắc, đậm đà qua 6 tập thơ nổi tiếng: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận, Gió lộng, Máu Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của ông. Có thể nói “ Từ ấy” là tiếng hát của người thanh niên yêu nước Việt Nam giác ngộ lí tưởng Mác Lê Nin trong ngày hội lớn của cách mạng: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim “Từ ấy” là một thời điểm lịch sử đã trực tiếp tác động đến cuộc đời nhà thơ khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, một kỷ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng Cách mạng,Trong buổi ban đầu ấy, những người thanh niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết nhưng vấn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách thống trị của thực dân phong kiến “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”.Chính trong hoàn cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng hạ , như mặt trời xua tan đi những u ám, buồn đau, quét sạch mây mù và đen tối hướng đến cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì một tương lai tươi sáng của dân tộc. Người thanh niên học sinh Tố Hữu đã đón nhận lí tưởng ấy không chỉ bằng khối óc mà bằng cả con tim, không chỉ bằng nhận thức lí trí mà xuất phát từ tình cảm: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim Từ ấy đã làm cho tâm hồn Tố Hữu“ bừng nắng hạ” đó là một luồng ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ của nắng vàng chứa chan hạnh phúc ấm no.Soi tỏ vào những bài thơ sau này ta mới thấy hết được niềm vui sướng của Tố Hữu trước ánh sáng huy hoàng của chân lí. Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng Ta đi tới chỉ một đường cách mạng Và đó mới là bản chất của lí tưởng cộng sản đã làm người thanh niên 18 tuổi ấy say mê, ngây ngất trước một điều kì diệu: Mặt trời chân lí chói qua tim Mặt trời chân lí là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lí tưởng của Đảng,của cách mạng , mặt trời của chủ nghĩa xã hội. Tố Hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tuởng cách mạng cao đẹp.Bởi lí tưởng đã “chói” vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi kết hợp hài hòa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi có lí tưởng cách mạng, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào. Lý tưởng Cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng Cách mạng đem lại: Hồn tôi là một vườn hoa lá, Rất đậm hương và rộn tiếng chim. Cái giọng điệu rất tỉnh và rất say rạo rực và ngọt lịm hồn ta chủ yếu là cái say người và lịm ngọt của lí tưởng, của niềm hạnh phúc mà lí tưởng đem lại :“hồn” người đã trở thành “vườn hoa”, một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót.Ở đây hiện thưc và lãng mạn đã hòa quyện vào nhau tạo nên cái gợi cảm, cái sức sống cho câu thơ. Nếu khổ đầu là một tiếng reo vui phấn khởi thì khổ thứ hai và thứ ba là bản quyết tâm thư của người thanh niên cộng sản nguyện hòa cái tôi nhỏ bé của mình vào cái ta chung rộng lớn của quần chúng nhân dân cần lao.Người đọc thật sự cảm động bởi thái độ chân thành thiết tha đến vồ vập của một nhà thơ vốn xuất thân từ giai cấp tiểu tư sản tự giác và quyết tâm gắn bó vớI mọi người: Tôi buộc hồn tôi với mọi người Để tình trang trải với trăm nơi Để hồn tôi với bao hồn khổ Gần gũi bên nhau thêm mạnh khối đời. “Buộc” và “trang trải”là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau nhưng nó đều nằm trong nhận thức mới về lẽ sống của Tố Hữu. “Buộc” là đoàn kết gắn bó, tự nguyện gắn bó đời mình với nhân dân cần lao, với hết thảy nhân dân lao động Việt Nam Để tình trang trải với trăm nơi Xác định vị trí của mình là đứng trong hàng ngũ nhân dân lao động chưa đủ, Tố Hữu còn biểu hiện một tinh thần đoàn kết, tình cảm nồng thắm, chan hòa với nhân dân.Tình yêu người, yêu đời trong Tố Hữu đã nâng lên thành chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.Nhà thơ muốn được như Mác: “Vì lẽ sống, hy sinh cho cuộc sống - Đời với Mác là tình cao nghĩa rộng”., mong ước xây dựng một khối đời vững chắc làm nên sức mạnh quần chúng cách mạng.Từ đó Tố Hữu đã thể hiện niềm hãnh diện khi được là một thành viên ruột thịt trong đại gia đình những người nghèo khổ bất hạnh: Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm cù bấc cù bơ. Tố Hữu nguyện sẽ đứng vào hàng ngũ những người “than bụi, lầy bùn”là lực lượng tiếp nối của “vạn kiếp phôi pha”, là lực lượng ngày mai lớn mạnh của “vạn đầu em nhỏ”,để đấu tranh cho ngày mai tươi sáng.Điệp từ “là” được nhắc đi nhắc lại, nó vang lên một âm hưởng mạnh mẽ lắng đọng trong tâm hồn ta một niềm cảm phục, quý mến người trai trẻ yêu đời, yêu người này. Với một tình cảm cá nhân đằm thắm, trong sáng, “Từ ấy” đã nói một cách thật tự nhiên nhuần nhụy về lí tưởng, về chính trị và thật sự là tiếng hát của một thanh niên, một người cộng sản chân chính luôn tuôn trào trong mình mạch nguồn của lí tưởng cách mạng. Bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu là một bài thơ vừa có tính triết lý sâu sắc, vừa rất gần gũi, bình dị, thân thuộc. Sau mấy chục năm đọc lại, những vần thơ đó vẫn là một câu hỏi thấm thía mà những người cộng sản hôm nay không thể không suy ngẫm một cách nghiêm túc để tự mình tìm ra lời giải đáp thấu đáo. Giữa cái chung và cái riêng, giữa cộng đồng - tập thể và cá nhân, giữa vật chất tầm thường và tinh thần – tư tưởng của người cộng sản. Cả cuộc đời Tố Hữu đã hiến dâng cho tổ quốc, cho Đảng và nhân dân. Khi biết sắp phải đi xa, ông cũng chỉ nghĩ là về một nơi mà ta vẫn gọi là "cõi tạm". Ông mong muốn tiếp tục được hiến dâng: Tạm biệt đời ta yêu quý nhất Còn mấy vần thơ, một nắm tro. Thơ gửi bạn đường. Tro bón đất Sống là cho. Chết cũng là cho. Bởi thế, con người, cuộc đời, sự nghiệp cách mạng và thi ca của Tố Hữu luôn sống mãi trong niềm tin yêu, kính trọng của Đảng và nhân dân.. CHIỀU TỐI – HỒ CHÍ MINH Bài 1 Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ, Cô vân mạn mạn độ thiên không. Hai câu đầu vẽ nên một bức tranh nên thơ, yên bình của cuộc sống :chim bay về rừng tìm chốn trú ngụ, đám mây trôi lững lờ trên bầu trời chiều… Chỉ vài nét chấm phá, những bức hoạ phong cảnh đã thể hiện rõ. Đấy là lối viết “thi trung hữu hoạ” ( trong bài thơ có hoạ ) của thơ xưa. Song, phong vị cổ thi ấy do sự gần gũi về bút pháp .Còn thực ra, đây vẫn là buổi chiều nay, với cảnh thật, mà người người thật ( người tù –nhà thơ ) đang tận mắt nhìn ngắm . Bức tranh phong cảnh kia tuy đẹp và nên thơ nhưng vẫn có nét buồn.Quyện, nguyên nghĩa là mỏi, chán ; mỏi mệt .Tầm là tìm kiếm .Cánh chim sau một ngày rong đuổi, trong cái giờ khắc của ngày tàn, mỏi mệt, phải trở về rừng đặng tìm kiếm chỗ trú.Cô là lẻ loi, một mình. Mạn mạn là dài và rộng, không là trên bầu trời dài, rộng mênh mông .Bản thân bầu trời vẫn dài rộng như là triệu năm qua, nhưng đám mây đơn lẻ kia dã khiến nó càng trở nên mênh mang hơn .Hai câu thơ, theo đúng nghĩa đen cũng đã chỉ ra một cảnh buồn .Với người bình thường, thậm chí đang vui, trước cảnh ấy, lòng hẳn không sao tránh một cảm xúc man mác, bâng khuâng. Câu thơ khiến nguời ta liên tưởng đến một buổi chiều khác, trong thơ cổ : Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn, Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn. Gác mái ngư ông về viễn phố, Gõ sừng mục tử lại cô thôn. Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi, Dặm liễu sương sa khách bước dồn. Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ, Lây ai mà kể nỗi hàn ôn. (Cảnh chiều hôm –Bà Huyện Thanh Quan ) Buổi chiều xưa không vắng lặng, nhưng lòng người đã tím ngát nỗi buồn .Còn cảnh ở đây, vốn là đơn chiếc .Cảnh ấy nói hộ lòng người, hẳn đang buồn. Đúng thôi, ngay đến cánh chim kia, khi chiều tắt, đã vội vã trở về .Thế mà, giờ này, người tù mắt mờ, chân yếu, lại bị gông cùm, vẫn đang le buớc trên đường dài. Người đó không than vãn, do nhân cách vĩ đại, song ai không cảm được nỗi đau rất thật từ cảnh tình ấy Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc, Bao túc ma hoàn, lỗ dĩ hồng. Hai câu kết chuyển hướng vận động của hình tượng thơ. Ở trên, cảnh vật mênh mông, vắng lặng, ánh nắng ngày đang dần tắt, nhường chỗ cho bóng đêm ập xuống .Còn ở đây, dù không tả, nhưng ai cũng biết, đất trời đã vào đêm, bóng tối ken dày muôn nơi .Vậy, điều gì đã khiền người ta có thể cảm nhận được từng bước đi của thời gian, cảm nhận thấy được ánh sáng và bóng tối ? Đó là cánh chim đơn lẻ bay về chốn cũ. Đặc biệt, đó là ánh rực hồng của lò than nơi xóm núi . Đây cũng là lối chấm phá, lấy ánh sáng tả bóng tối. Nhưng sự chuyển hướng đích thực của hình tượng thơ không chỉ có vậy .Nếu cảnh ở trên mang nét buồn của sự lẻ loi, hoang vắng, thì cảnh ở đây, dù là đêm tối nhưng ấm áp, giàu sức sống. Đôi, mắt của người nghệ sĩ ở cảnh truớc khi phóng nhìn ra xa và lên cao, càng nhìn càng mất hút và trống trải .Khi đôi mắt ấy nhìn gần, đã bắt gặp một hình ảnh không ngờ : Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc Vóc dsáng của người thôn nữ cùng với cônlg việc lao động dường như là thường ngày ấy đã xua di sự cô quạnh giữa miền sơn cước .Và, đến lúc công việc đã xong, thì ánh sáng tràn ngập: Bao túc ma hoàn, lỗ dĩ hồng. Trong bóng đêm, ánh sáng ấy càng có sức lan toả .Lòng người từng man mác buồn đã ấm lại cùng với ánh lửa đơ kia . Đến đây thì sự vận động của hình tượng thơ tới đọ trọn vẹn. 4. Mộ là bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Hồ Chí Minh Khi sử dụng thể thơ luật Đường, tác giả đã vận dụng khá nhuần nhuyễn bút pháp chấm phá để tả cảnh, lấy động tả tĩnh, đặc biệt là lấy cảnh tả tình. Trong bài thơ, không có từ hay chi tiết nói về chủ thể trữ tình, nhưng người đọc vẫn nhận ra đội mắt, tấm lòng của con người ấy .Tuy nhiên, dù mang phong vị cổ điển, đây vẫn là bài thơ hiện đại .Chất hiện đại đó bộc lộ ở sự vận động của hình tượng thơ, nhất là ở tấm lòng và tư tưởng cua thi nhân .Dù bị gông cùm, xiềng xích, con người đó vẫn hết sức ung dung tự tại, luôn quên mình để nhìn ngắm cuộc sống và rung động với từng biểu hiện, dù chỉ nhỏ nhoi, tinh tế. Bài 2: Thơ Bác có những bài đọc hiểu ngay không phải phân tích, bình phẩm gì thêm, đó là trường hợp Bác viết để tuyên truyền, kiểu như: "Năm qua thắng lợi vẻ vang…". Nhưng có bài phải đọc hai ba lần mới hiểu hết cái hay của nó, đó là trường hợp bài: "Mộ" (Chiều tối) mà tôi đề cập đến trong bài viết này. Mới đọc lần đầu bài thơ "Mộ" tưởng như không có gì. Đây chỉ là một bài thơ tả cảnh bình thường. Bác tả cảnh chiều tối ở một vùng quê miền núi nơi Bác vừa đi qua. Buổi chiều tối có mây trôi, chim bay, có một cô gái đang xay ngô và có một ngọn lửa vừa rực hồng trong lò than… Chỉ thế thôi. Nhưng không lẽ chỉ chừng ấy ? Tôi đọc đi, đọc lại, cố tìm điều ẩn chứa đằng sau những câu thơ hết sức bình dị kia và bắt gặp niềm cảm thông kín đáo của Bác thấm đẫm trong từng câu, từng chữ. Bác cảm thông với cánh chim, với làn mây với cô gái miền núi xay ngô trong xóm vắng. Nhìn chim bay, Bác hiểu chim đang mỏi cánh tìm về rừng. Ta vẫn ngắm cánh chim bay trong buổi chiều tà nhưng đã mấy ai hiểu được nó đang mỏi cánh? Phải thực sự giao cảm mới hạ được chữ "quyện" ấy. Người bình thường chỉ có thể viết: chim bay về rừng tìm chốn ngủ. Thêm một từ "mỏi" vào đã thay đổi hẳn ý tưởng của câu thơ. Và người bình thường cũng chỉ viết như bản dịch: "Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không". Ở nguyên tác, Bác không viết là chòm mây, làn mây hay đám mây mà là "cô vân" nghĩa là chỉ một mình nó cô độc, lẻ loi, nhỏ bé trên bầu trời mênh mông vô định. Người dịch cũng hiểu điều đó nhưng bất lực không thể dịch nổi đành tạm dùng "chòm mây" vậy. Nhưng từ "cô vân" đổi sang "chòm mây" đã đánh mất hết vẻ đẹp của câu thơ. "Chòm mây" không biểu hiện được niềm cảm thông sâu sắc của Bác, phải là "cô vân" mới thể hiện nỗi lòng của Bác gửi vào trong đó. Ta vẫn ngắm mây chiều trôi chầm chậm nhưng đã mấy ai thấu hiểu nỗi niềm cô đơn, lẻ loi, bơ vơ của nó? Và cũng phải thực sự giao cảm và đồng cảm mới hạ được chữ "cô" ấy. Mộ Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ Cô vân mạn mạn độ thiên không Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng. Dịch thơ: Chiều tối Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không Cô em xóm núi xay ngô tối Xay hết lò than đã rực hồng… Tôi chợt nhớ đến một câu thơ rất hay của Lý Bạch khi tiễn Mạnh Hạo Nhiên: "Cô phàm viễn ảnh bích không tận". Ngô Tất Tố phải chọn mãi mới tìm được chữ "bóng buồm" để dịch "cô phàm": "Bóng buồm đã cách bầu không…". Có lẽ khi viết "Cô vân mạn mạn độ thiên không…" trong tâm hồn Bác đã in dấu câu thơ nổi tiếng kia của Lý Bạch? Bác không chỉ thương một "quyện điểu quy lâm "một "cô vân mạn mạn" mà còn cảm thương cả cô gái xay ngô. Cô gái miệt mài xay, xay một cách kiên nhẫn, âm thầm. Xay, xay mãi. Vòng cối xay cứ trở đi, trở lại: "Ma bao túc…" rồi "bao túc ma"… đều đều như thế, nhẫn nại như thế cho đến khi xay xong ngô thì trời đã tối lắm rồi: lửa đã rực hồng lên. Nguyễn Khuyến ngày trước lấy động để tả tĩnh: "Cá đâu đớp động dưới chân bèo!". Nghe được tiếng cá đớp mồi, xung quanh phải vô cùng tĩnh lặng. Ở đây Bác lấy sáng để tả tối. Phải tối đến mức nào mới thấy ngọn lửa rực lên như vậy. Bài thơ diễn tả một cách tài tình bước đi của thời gian. Tất cả đều chuyển động, cánh chim đang bay, mây đang trôi và cối xay cũng đang xoay vòng. Chim về rừng, mây mất hút giữa khoảng không và cô gái xay ngô dừng tay khi đã xay xong. Ánh lửa bùng lên sưởi ấm cả không gian vắng lặng. Chỉ còn Bác là đang "cất bước trên đường thẳm". Bác quên mình "tay bị trói giật cánh khỉ, cổ mang xiềng, có những người lính mang súng theo". Ta chỉ thấy chim mỏi cánh, mây cô lẻ bay chầm chậm mà không thấy Bác cũng đang lê bước trên đường. Một người bị trói, bị giải đi như vậy vẫn còn ngắm một cánh chim, một làn mây, một cô gái xay ngô đã là khác thường rồi, huống hồ Bác còn quên Cảnh ngộ mình để cảm thông cho cảnh vật và con người xung quanh. Cái hay, cái sâu sắc của bài thơ chính là ở chỗ đó. Nhưng điều này đọc lướt qua không thể cảm nhận ngay được. Bởi vậy, những bài thơ như "Chiều tối" buộc ta đọc thật kỹ vừa đọc vừa suy ngẫm mới thấm thía cái dư vị đặc biệt của nó. Bài 3 “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh được viết từ 29-8-1942 đến 10-9-1944, khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ, đầy đoạ khắp các nhà lao tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trong số 133 bài thơ “Nhật ký trong tù” có một bài ghi lại những thời khắc đáng nhớ trong ngày: buổi sớm, Buổi trưa, Quá trưa, Chiều hôm, Chiều tối, Hoàng hôn, Nửa đêm… Mỗi bài là một nỗi niềm trong những tháng ngày “ác mộng”.           “Chiều tối” (Mộ) là bài thất ngôn tứ tuyệt số 31 trong “Nhật ký trong tù”. Bài thơ số 32 là bài “Đêm ngủ ở Long Tuyền”. Vậy, bài “Chiều tối” ghi lại cảnh xóm núi lúc ngày tàn trên con đường từ Thiên Bảo đến Long Tuyền vào tháng 10-1942.           Đây là nguyên tác bài thơ:           “Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,           Cô vân mạn mạn độ thiên không.           Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,           Bao túc mà hoàn lô dĩ hông”.           Một cái nhìn man mác, một thoáng ước mơ thầm kín về một mái ấm, một chỗ dừng chân… của nhà thơ trên con đường lưu đày khổ ải muôn dặm, được hé lộ qua bài thơ, đọc qua tưởng như chỉ tả cảnh chiều tối nơi xóm núi xa lạ.           Hai câu đầu tả bầu trời lúc ngày tàn. Hai nét vẽ “động”: cánh chim mỏi mệt (quyện điểu) bay về rừng xa, tìm cây trú ẩn, một áng mây cô đơn, lẻ loi (cô vân) đang lửng lơ trôi (mạn mạn). Cấu trúc 2 câu đăng đối, âm điệu nhf nhẹ, thoáng buồn. Người chiến sĩ bị lưu đày ngước mắt nhìn bầu trời, dõi theo cánh chim bay và áng mây trôi nhẹ mà lòng man mác. Rất tinh tế, nét vẽ ngoại cảnh này đã thoáng hiện tâm cảnh. Câu thơ dịhc của Nam Tran tuy chưa thực hiện được chữ “cô” trong “cô vân” nhưng khá hay:           “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,           Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không”.           Hai cau thơ 1, 2 mang vẻ đẹp cổ điển: tả ít mà gợi nhiều, chỉ 2 nét phác hoạ (chim bay, mây trôi) mà gợi lên cái hồn cảnh vật, ngày tan, màn đêm buông xuống dần, tạo vật như đang chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi, mệt mỏi. Nghệ thuật lấy điểm vẽ diện, lấy động tả tĩnh được vận dụng sáng tạo. Nhìn chim bay, mây trôi mà cảm thấy bầu trời bao la hơn, cảnh chiều tối êm ả, tĩnh lặng hơn. Cảnh chiều tối ở xóm núi này còn mang tính ước lệ, nó mở rộng liên tưởng và cảm xúc thẩm mỹ trong tâm hồn mỗi chúng ta,… Nhớ về một cánh chim chiều trong “Truyện Kiều”: “Chim hôm thoi thót về rừng”; nhớ đến một cánh chim bay mỏi và hình ảnh người lữ thứ trong chiều sương lạnh nhớ nhà:           “Ngày mai gió cuốn, chim bay mỏi           Dặm liễu sướnga, khách bước dồn”. (Chiều hôm nhớ nhà)           Trở lại bài “Chiều tối”, áng mây cô đơn le loi đang lơ lửng, trôi nhẹ trên bầu trời là hình ảnh ẩn dụ về người lưu đày trên con đường khổ ải xa lắc? Ngôn ngữ thơ hàm súc, biểu cmr, vừa tả cảnh vừa tả tình, thoáng nhẹ mà đầy ấn tượng, dư ba.           Tiếp theo hai câu cuối 3,4 - từ cảnh bầu trời tác giả nói về cuộc sống con người nơi xóm núi. Thiếu nữ và lò than hồng là trung tâm của bức tranh này:           “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,           Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”.           Một nét vẽ trẻ trung, bình dị, đáng yêu: Thiếu nữ xóm núi đang xay ngô. Ba chữ “ma bao túc” ở cuối câu 3 được láy lại “bao túc ma hoàn…” ở đầu câu 4, vừa tả động tác nhịp nhàng xay ngô, vừa diễn tả sự chuyển động vòng tròn của cái cối đá xay ngò thủ công. Đức tính cần mẫn của thiếu nữ xóm núi được cảm nhận và trân trọng. Nghệ thuật diệp ngữ đa làm cho thơ liền mạch và giàu có về nạhc điệu. Câu thơ dịch: “Cô em xóm núi xay ngô tối”, với 2 chữ “cô em” đã làm lạc phong cách Hồ Chí Minh; chữ “tối” thêm vào đã làm cho ý thơ bị lộ; còn đâu nữa ý tại ngôn ngoại trong bài thơ chữ Hán này?J           Sự vật như nối tiếp theo dòng chảy thời gian mà xuất hiện: Khi ngô xay xong thì lò than đã rực hồng, sáng bừng lên, vô cùng ấm áp. Khi màn đêm đã bao phủ mịt mùng, lò than đỏ rực lên, cảnh vật ấy thu hút tâm trí người tù đang bị giải đi. Buồn biết bao cảnh bếp lạnh tro tàn? Ấm áp biết bao một ngọ đèn, một bếp hồng trong đêm lạnh. Hình ảnh thiếu nữ xóm núi xay ngô và lò than rực hồng tượng trưng cho một mái ấm đoàn tụ gia đình, nó đã làm vợi đi bao nỗi cô đơn, tĩnh mịch. Hướng về một cảnh sinh hoạt dân dã bình dị: thiếu nữ xay ngô, dõi nhìn bếp lửa, lò than rực hồng, khi chân tay mang nặng xích xiềng, bị giải đi trong chiều tối, Bác đã tìm thấy nơi nương tựa tâm hồn mình. Hình như nỗi cô đơn, lẻ loi, lạnh lẽo bị xua tan. Một thoáng ước mơ thầm kín về một mái ấm gia đình đã đến với nhà thơ trên con đường đi đày xa xứ khi màn đêm buông xuống. Hai nét vẽ về thiếu nữ xay ngô và lò than rực hồng là hai nét vẽ bình dị, ấm áp, khoẻ và trẻ trung, làm cho thơ Bác có sự hoà hợp giữa màu sắc cổ điển và chất hiện đại, trẻ trung bình dị.           Nhiều bài thơ khác cho thấy trên con đường khổ ải, lưu đày, người chiến sĩ cách mạng trong “Nhật ký trong tù” hầu như ít cảm thấy cô đơn, tâm hồn luôn luôn gắn bó với nhịp sống, làm chủ hoàn cảnh và lạc quan yêu đời. Trong cảnh “Hoàng hôn” gió rét căm căm, vượt lên gian khó. Người xúc động hướng tới một tiếng chuông chùa, một tiếng sáo mục đồng mà mạnh bước:           “Gió sắc tựa gươm mài đá núi,           Rét như dùi nhọn chích cành cây;           Chùa xa chuông giục người nhanh bước,           Trẻ dẫn trâu về tiếng sao bay”.           Có lúc trong cảnh bị cùm trói “Thừa cơ rét rệp xông vào đánh” mà Người vẫn “thoát ngục” tìm được một chút niềm vui nâng đỡ tâm hồn mình: “Oanh sớm, mừng nghe hót xóm gần” (Đêm ngủ ở Long Tuyền). Điều đó cho thấy, sự sống và tự do là khát vọng của Người. Thiên nhiên và con người hiện diện trong thơ Bác bằng những nét vẽ đẹp bình dị, đáng yêu, đó là sự sống mà Bác gắn bó, mến yêu suốt đời.           “Chiều tối” - một bài thơ đáng yêu: màu sắc cổ điển hàm súc kết hợp với tính chất trẻ trung, hiện đại, bình dị. Tứ thơ vận động từ cảnh đến tình, từ trong bóng tối đến sự sống, đến ánh sáng và tương lai. Nét vẽ tinh tế, thể hiện một hồn thơ “bát ngát tình”. Bài thơ thấm đượm một tình yêu mênh mông đối với tạo vật và con người. Trong đoạ đầy gian khổ, tâm hồn Bác vẫn dào dạt sự sống. ĐÂY THÔN VĨ DẠ - HÀN MẶC TỬ Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt, Khép phòng đốt nến, nến rơi châu…” Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? “Trăng sõng soài trêncành liễu - Đợi gió đông về để lả lơi…” (“Bẽn lẽn”) – Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng, sông trăng, sóng trăng… Cả một trời trăng mộng ảo, huyền diệu. Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện tâm hồn “say trăng” với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mói (1932-1941). Với 28 tuổi đời (1912-1940), ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ. Thơ của ông như trào ra máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết thơ hay về mùa xuân và thiếu nữ (“Mùa xuân chín”), về Huế đẹp và thơ(“Đây thôn Vĩ Giạ”) như Hàn Mặc Tử. “Đây thôn Vĩ Giạ” rút trong tập “Thơ điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. và con người Vĩ Giạ. Câu đầu “dịu ngọt” như một lời chào mời, vừa Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu – tình yêu thơ mộng say đắm, lung linh trong ánh sáng huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khao khát về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh mừng vui hội, vừa nhẹ nhàng trách móc người thương biết bao nhớ đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Có mấy xa xôi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỷ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ: “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặtchu điền?” Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp. Nhìn từ xa, say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên màu nắng mới, “nắng mới lên” rực rỡ. Hàng cau như đón chào người thân thương sau bao ngày xa cách. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc thôn Vĩ Giạ từ bao đời nay. Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược thôn Vĩ Giạ: “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Sương đêm ướt đẫm cây cỏ hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông “mượt quá” một màu xanh như ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hoà, con người cần cù chăm bón mới có “màu xanh như ngọc” ấy. Thiên nhiên rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống. Cũng nói về màu xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã từng viết: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá…” (“Thơ duyên). Hai chữ “vườn ai” đã gợi ra nhiều ngạc nhiên và man mác. Câu thứ tư tả thiếu nữ với khóm trúc vườn đầy đặn, phúc hậu. “Lá trúc che ngang” là một nét vẽ thần tình đã tô đậm nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mặc Tử hơn một lần nói về trcs và thiếu nữ. Khóm trúc như toả bóng xanh mát che chở cho một mối tình đẹp đang nảy nơ: “Thầm thì với ai ngôì dưới trúc Nghe ra ý nhị và thơ ngây” (“Mùa xuân chín”) Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả trúc và thiếu nữ với một gam màu nhẹ thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ. (xanh như ngọc… mặt chữ điền) Cảnh và người nơi Vĩ Giạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu. Vĩ Giạ - một làng quê nằm bên bờ Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Giạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đây thường dìu dặt câu Nam ai, Nam bình qua tiếng đàn tranh, đàn thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Giạ đẹp nênthơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Giạ vần thơ đẹp nhất với tất cả lòng tha thiết mến thương. Khổ thơ thứ hai nói về cảnh trời mây, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây, dòng sông và hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồn. Nghệ thuật đối tạo nên bốn phiên cảnh hài hoà, cân xứng và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời, cách trở. Dòng Hương Giang êm trôi lờ lững, trong tâm tưởng thi nhân trở nên “buồn thiu”, nhiều bâng khuâng, man mác. Hoa bắp lay nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp điệu kho

File đính kèm:

  • docOn tap hoc ki II.doc