I. LÝ THUYẾT.
Nắm nội dung cơ bản của những bài sau:
1. Yêu cầu sử dụng tiếng Việt đúng chuẩn.
2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
3. Văn bản văn học.
4. Nội dung hình thức của văn bản văn học.
II. NGHỊ LUẬN XÃ HỘI.
8 trang |
Chia sẻ: shironeko | Lượt xem: 1713 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề cương ôn tập môn ngữ văn học kì II khối lớp 10. năm học 2010 - 2011, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sở GD&ĐT Lâm Đồng
Trường THPT Đạ Tông
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN NGỮ VĂN HỌC KÌ II
Khối lớp 10. Năm học 2010 - 2011
I. LÝ THUYẾT.
Nắm nội dung cơ bản của những bài sau:
1. Yêu cầu sử dụng tiếng Việt đúng chuẩn.
2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
3. Văn bản văn học.
4. Nội dung hình thức của văn bản văn học.
II. NGHỊ LUẬN XÃ HỘI.
Nêu suy nghĩ của bản thân về một câu tục ngữ:
“Có công mài sắt có ngày nên kim”.
“Gần mực thì đen gần đèn thì sáng”.
“Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”.
“Đói cho sạch, rách cho thơm”.
“Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
III. NGHỊ LUẬN VĂN HỌC.
Thuyết minh về một tác phẩm (đoạn trích), tác giả, nhân vật.
- Truyện Kiều (Nguyễn Du): Trao duyên; Nỗi thương mình.
ĐỊNH HƯỚNG NỘI DUNG ÔN TẬP MÔN NGỮ VĂN 10
Học kì II - Năm học 2010 -2011
I. LÝ THUYẾT.
1. Yêu cầu sử dụng tiếng Việt đúng chuẩn.
- Về ngữ âm và chữ viết, cần phát âm theo âm thanh chuẩn của tiếng Việt, cần viết đúng theo các quy tắc hiện hành về chính tả và về chữ viết nói chung.
- Về từ ngữ, cần dùng từ ngữ đúng với hình thức và cấu tạo, với ý nghĩa, với đặc điểm ngữ pháp của chúng trong tiếng Việt.
- Về ngữ pháp, cần cấu tạo theo đúng quy tắc ngữ pháp tiếng Việt, diễn đạt đúng các quan hệ ý nghĩa và sử dụng dấu câu thích hợp. Hơn nữa, các câu trong đoạn văn và văn bản cần được liên kết chặt chẽ, tạo nên một văn bản mạch lạc, thống nhất.
- Về phong cách ngôn ngữ, cần nói và viết phù hợp với các đặc trưng và chuẩn mực trong từng phong cách chức năng ngôn ngữ.
2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
- Ngôn ngữ nghệ thuật: là ngôn ngữ chủ yếu dùng trong các tác phẩm văn chương, không chỉ có chức năng thông tin mà còn thỏa mãm nhu cầu thẩm mĩ của con người. Nó là ngôn ngữ được tổ chức, xếp đặt, lựa chọn, tinh luyện từ ngôn ngữ thông thường và đạt được giá trị nghệ thuật- thẩm mĩ.
- Đặc trưng phong cách ngôn ngữ nghệ thuật:
+ Tính hình tượng.
+ Tính truyền cảm .
+ Tính cá thể hóa.
3. Văn bản văn học.
- Tiêu chí của văn bản văn học:
+ Là văn bản văn học phản ánh hiện thực khách quan và khám phá thế giới tình cảm và tư tưởng, thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người.
+ Được xây dựng bằng ngôn từ nghệ thuật, có hình tượng, có tính thẩm mỹ cao; sử dụng nhiều biện pháp tu từ, thường hàm súc, gợi liên tưởng, tưởng tượng.
+ Xây dựng theo phương thức riêng, theo đặc trưng một thể loại nhất định (kịch, thơ, truyện).
- Cấu trúc của văn bản văn học:
+ Tầng ngôn từ.
+ Tầng hình tượng.
+ Tầng hàm nghĩa.
4. Nội dung hình thức của văn bản văn học.
- Các khái niệm thuộc về nội dung của văn bản văn học.
+ Đề tài.
+ Chủ đề.
+ Tư tưởng.
+ Cảm hứng nghệ thuật.
- Các khái niệm thuộc về hình thức của văn bản văn học.
+ Ngôn từ.
+ Kết cấu.
+ Thể loại.
II. NGHỊ LUẬN XÃ HỘI.
Cách làm bài văn nghị luận:
* Mở bài:
Nêu vấn đề cần nghị luận.
* Thân bài:
+ Giải thích khái niệm, vấn đề xã hội được đưa ra trong đề bài.
+ Bình luận.
+ Liên hệ bản thân.
* Kết bài:
Nêu suy nghĩ về vấn đề đã nghị luận và bài học cho bản thân..
1. “Có công mài sắt có ngày nên kim”
- Câu tục ngữ có hai vế: Vế đầu là điều kiện: Có công mài sắt, vế sau là kết quả đạt được: Có ngày nên kim .
- Giải thích: Cây kim bé nhỏ nhưng cũng thật hoàn hảo. Thân kim tròn và nhỏ, đầu kim nhọn, phần cuối có một lỗ bé xíu để luồn chỉ qua. Cây kim là một vật có ích được làm bằng sắt. Từ sắt nên kim là một quá trình tôi luyện mài dũa công phu. Ai có công mài sắt sẽ có ngày nên kim(Nghĩa đen). Đức kiên trì, bền bỉ chính là yếu tố quan trọng dẫn đến thành công(Nghĩa bóng).
- Lời khẳng định trên hoàn toàn có cơ sở:
+ Trong lịch sử chống ngoại xâm, dân tộc ta phải thực hiện chiến lược “Trường kỳ kháng chiến”. Từ cuộc kháng chiến chống quân Minh cho đến cuộc kháng chiến chống Pháp – chống Mỹ suốt mấy chục năm, tất cả đều thể hiện ý chí, nghị lực kiên cường, bất khuất của toàn dân tộc. Cuối cùng chúng ta đã thắng lợi vẻ vang, giữ vững chủ quyền độc lập, tự do của đất nước.
+ Trong đời sống lao động sản xuất: (Nêu dẫn chứng)
+ Trong học tập, đức kiên trì cũng cần thiết để giúp ta thành công.
è Câu tục ngữ ngắn gọn, xúc tích nhưng bao hàm ý chí sâu xa. Ông cha ta đã đúc kết kinh nghiệm từ cuộc sống chiến đấu và lao động nhằm khuyên nhủ mọi người phải kiên trì, nhẫn lại để có thể vượt qua những khó khăn thử thách, đi tới thành công.
- Trong hoàn cảnh hiện nay, ngoài đức tính kiên trì nhẫn nại còn cần phải vận dụng óc thông minh, sáng tạo để đạt được hiệu quả cao nhất trong học tập, lao động góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.
2. “Gần mực thì đen gần đèn thì sáng”
- Câu tục ngữ là sự đúc kết của nhân dân ta: Môi trường xã hội và đặc biệt là mối quan hệ bạn bè có ảnh hưởng rất lớn tới nhân cách đạo đức của mỗi người.
- Giải thích câu tục ngữ:
+ “Mực” có màu đen, nếu sơ ý bị mực dây vào chân tay, quần áo thì khó tẩy sạch. Vì vậy người xưa mượn “Mực” để ám chỉ những cái xấu xa.
+ “Đèn” là vật phát ra ánh sáng. Đến gần đèn ta sẽ được soi sáng. Cho nên đèn tượng trưng cho điều tốt đẹp, sáng sủa.
+ Mượn hai hình ảnh tương phản nhau là mực và đèn, câu tục ngữ nhằm nhắc nhở: Nếu giao du với hạng người xấu, ta sẽ bị tiêm nhiễm thói hư tật xấu; Nếu ta kết bạn với những người tốt thì ta sẽ học tập được nhiều điều hay, điều tốt.
è Ý nghĩa của câu tục ngữ trên là đúng.
- Trong gia đình, nếu cha mẹ hòa thuận và coi trọng việc giáo dục con cái, anh em yêu thương nhau thì đó là gia đình hạnh phúc, sẽ có được những đứa con ngoan ngoãn, hiếu thảo, giỏi giang. Ngược lại, nếu cha mẹ lục đục, anh em bất hòa thì chắc chắn con cái sẽ hư hỏng, khó nên người.
- Ngoài xã hội, nếu tiếp xúc thường xuyên với những đối tượng xấu xa, lừa đảo thì một ngày nào đó ta sẽ bị tiêm nhiễm thói hư tật xấu.
- Có ý kiến cho rằng: “Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng” ý kiến này có phần nào cũng có lí.
+ Ý kiến trên nhấn mạnh yếu tố con người là quan trọng. Nếu làm chủ được bản thân, có ý chí lập trường, quan điểm vững vàng thì chúng ta khó bị tha hóa bởi cái xấu.
èCâu tục ngữ là một lời khuyên thiết thực và bổ ích.
- Bài học rút ra cho bản thân: không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, tác phong để có được một quan điểm sống lành mạnh, đúng đắn. Tránh xa bóng tối, của những cám dỗ xấu xa: chọn bạn tốt mà chơi để học tập và phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi. Gần “đèn” để được “soi sáng” nhưng ngọn đèn sáng nhất vẫn là ngọn đèn tỏa chiếu từ chính tâm hồn mình.
3. “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”
- Câu tục ngữ nêu lên kinh nghiệm đánh giá, nhìn nhận con người thông qua cách nhìn nhận, đánh giá một sự vật, đồ vật cụ thể.
- Câu tục ngữ đúng về cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
+ Nó nêu lên một kinh nghiệm để nhìn nhận về chất lượng một đồ vật bằng gỗ mà ta dùng hằng ngày. Nước sơn tạo nên sự hấp dẫn về hình thức nhưng nước sơn cũng có thể che dấu chất gỗ tạo nên bên trong. Gỗ là nguyên liệu làm nên đồ vật, nếu gỗ không tốt thì đồ vật ta dùng cũng chóng hư.
+ Con người cũng vậy, cái quyết định không phải là hình thức bên ngoài mà là phẩm chất, tư tưởng, đạo đức của người đó.
- Câu tục ngữ không hề xem nhẹ hình thức mà chủ yếu so sánh giữa nội dung và hình thức để thấy nội dung quan trọng hơn. Điều đó là đúng. Nhưng hình thức cũng hết sức quan trọng, hình thức góp phần làm tăng thêm vẻ đẹp của nội dung.
èNội dung và hình thức, cái bên ngoài và cái bên trong thống nhất, có quan hệ chặt chẽ và liên hệ với nhau. Nội dung quyết định giá trị, hình thức góp phần nâng cao giá trị nội dung.
Câu tục ngữ là một lời khuyên luôn đúng cho mọi thế hệ.
4. “Đói cho sạch, rách cho thơm”
- Câu tục ngữ thể hiện quan điểm sống trong sáng, lành mạnh.
- Quan niệm về giữ gìn danh dự, phẩm giá của người lao động:
+ Dù đói cũng phải ăn miếng ăn sạch sẽ, dù rách chũng phải giữ quần áo thơm tho.
+ Sống trong sạch, lành mạnh là nền tảng đạo đức của nhân dân ta.
- Đói và rách tượng trưng cho cuộc sống nghèo nàn, vất vả. Trong hoàn cảnh khốn cùng con người dễ bị tha hóa, vì vậy con người cần phải giữ gìn phẩm giá, đạo đức, bản chất lương thiện của mình.
- Câu tục ngữ thể hiện quan niệm sống lành mạnh, lương thiện của người lao động trong mọi hoàn cảnh. Đó cũng là sự tự khẳng định và đề cao phẩm giá của người lao động.
à Câu tục ngữ nêu lên một quan điểm sống đúng đắn và đẹp đẽ mà chúng ta nên học tập, kế thừa và phát huy để duy trì và bảo vệ đạo lí dân tộc.
5. “Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
- Lời nói là phương tiện giao tiếp quan trọng và cần thiết. Ông cha ta đã khuyên bảo con cháu về cách sử dụng lời nói sao cho có hiệu quả cao nhất.
- Lời nói phản ánh trình độ hiểu biết, tư cách đạo đức, tính tình của mỗi con người cụ thể.
- Để đạt được hiệu quả giao tiếp, tùy vào từng đối tượng, hoàn cảnh mà vận dụng lời nói cho phù hợp.
- Muốn có khả năng dùng lời nói đẹp, lời nói hay cần có quá trình học tập, rèn luyện thường xuyên, lâu dài.
- Mỗi người phải biết nói lời đúng, nói lời hay.
III. NGHỊ LUẬN VĂN HỌC.
1. Các bước để làm bài văn thuyết mình về tác phẩm văn học:
a. Mở bài: Giới thiệu tác phẩm, tác giả, hoàn cảnh ra đời.
b. Thân bài:
+ Nêu giá trị về nội dung rồi làm đến ảnh hưởng của tác phẩm đó.
+ Nêu giá trị nghệ thuật, giới thiệu một số điểm nổi bật (không cần nêu đầy đủ).
c. Kết bài: nêu lên quan điểm của mình về tác phẩm đó.
2. Các bước để làm bài văn thuyết mình về tác giả:
a. Mở bài: giới thiệu chung về cuộc đời và sự nghiệp của tác giả.
b. Thân bài:
- Cuộc đời:
+ Nêu năm sinh, năm mất, quê quán,…
+ Những mốc thời gian liên quan đến cuộc đời của tác giả.
- Sự nghiệp thơ văn của tác giả:
+ Tác phẩm chính.
+ Nội dung chính trong sáng tác.
+ Giá trị nghệ thuật trong sáng tác.
+ Vị trí của tác giả trong nền văn học dân tộc.
c. Kết bài: Nhấn mạnh nội dung chính và mở rộng ý.
Đề 4: Anh (chị) hãy thuyết minh đoạn thơ:
“Cậy em em có chịu lời
………………………………………………………
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”.
Để làm rõ sự thông minh, tế nhị cũng như tâm hồn cao quý của Thúy Kiều khi phải đối mặt với bi kịch tình yêu.
v Thuyết minh:
* Kiều nhờ cậy Vân:
- Cậy: tin tưởng mà nhờ.
- Chịu lời: nhận lời bằng sự cảm thông.
- Lạy, thưa: thể hiện sự khẩn khoản, tha thiết, hạ mình hết mức khi nhờ – báo hiệu tính hệ trọng của việc sắp nhờ.
àCách dùng từ chuẩn xác, tinh tế => Đó là lời thỉnh cầu tha thiết của Kiều vì đây là “tình chị duyên em”.
* Kiều nhắc nhở mối tình của mình với Kim Trọng:
- “Kề từ…. chén thề” mối tình đằm thắm, thề nguyền sâu nặng, vì hoàn cảnh gia đình nên Kiều đã hi sinh chữ tình cho chữ Hiều -> thể hiện sự tan vỡ, mỏng manh của tình yêu.
àĐó chính là mối tình thắm thiết nhưng mong manh, nhanh tan vỡ.
- Kiều thuyết phục Vân: “Ngày xuân . … thơm lây” ->Tác giả sử0 dụng nhiều thành ngữ:
+Tình máu mủ : tình chị em ruột thịt.
+ Lời nước non : nghĩa vợ chồng.
+Thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối: cõi chết
d. Khẳng định giá trị đoạn thơ và tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du.
àTác giả thật tinh tế, khéo léo để Kiều thuyết phục Vân bằng lý lẽ và tình cảm, bó buộc Vân bằng tình ruột thịt -> buộc Vân phải chấp nhận - mục đích trao duyên đã đạt.
* Tâm trạng của Kiều khi trao duyên cho em.
- Trao cho Vân: chiếc vành, bức tờ mây, mảnh hương nguyền, phím đàn … -> kỷ vật gắn bó mối tình đẹp của Kim – Kiều.
- Dặn dò Vân: duyên này thì giữ > Tâm trạng Kiều đầy mâu thuẩn:
+ Khẩn khoản van nài Vân thay mình lấy Kim Trọng.
+ Trao kỷ vật thì lại thấy mình cũng có phần trong đó -> Kiều cố níu giữ kỷ vật như một sự an ủi về tinh thần.
àThể hiện đúng trạng thái tâm lý của Kiều lúc này: trong Kiều có sự xung đột, mâu thuẩn gay gắt. Tiếng nói lý trí đã bị đẩy lùi khi Thuý Kiều ý thức nỗi đau của chính mình. Kiều chỉ có thể trao duyên nhưng tình yêu thì không thể trao.
v Nhận xét nhân vật Thúy Kiều:
- Đoạn trích thể hiện sự thông minh tinh tế của Thúy Kiều bởi vì: Trao duyên là một việc khó nói khiến người được trao duyên khó chấp nhận, nhưng bằng cách nói khiêm nhường, thông minh Kiều đã đặt Vân vào thế không thể chối từ đồng thời làm cho Vân thấy việc chấp nhận mối tơ duyên của chị là một trách nhiệm.
- Qua đoạn trích ta thấy được tâm hồn cao quý của nhân vật, Kiều đã hy hạnh phúc tình yêu của mình vì chữ hiếu. Kiều đã trao duyên cho em để thể hiện trách nhiệm của lời thề nguyền với Kim Trọng.
Đề 5: Anh (chị) hãy thuyết minh đoạn trích “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh… ai tri ân đó mặn mà với ai” và nhận xét về tâm trạng và nhân cách của nhân vật.
v Thuyết minh:
Hai câu đầu: “Khi tỉnh rượu…………… xót xa” Kiều bàng hoàng, hốt hoảng, xót xa thương thân mình bị vùi dập.
- Tâm trạng:
+ Tỉnh dậy khi đêm tàn canh, “giật mình” đối diện với chính mình, nàng tự dày vò xót xa cho thân phận, và ý thức về nhân phẩm bị giày xéo, chà đạp .
+ Điệp từ: “mình” ->nhấn mạnh vào nỗi đau đến cùng cực.
+ Khi sao phong gấm >< Giờ sao tan tác.
quá khứ (hạnh phúc) >< hiện tại (chà đạp)
-> Hình thức tiểu đối, điệp từ “sao” và cách dùng cụm từ đan xen, hình ảnh so sánh, hỏi dồn dập càng nhấn mạnh, khắc sâu thân phận bị chà đạp, vùi dập phũ phàng.
+ “Mặc người …… là gì”-> Kiều tự tách mình ra khỏi cuộc sống lầu xanh – tự thấy cô độc, thương tiếc thân phận – cuộc sống không ý nghĩa, không niềm vui.
à Sự tiếc thương thân mình bị vùi dập và nỗi đau về sự thay thân đổi phận.
- Nỗi cô đơn, đau khổ đến tuyệt đỉnh của Kiều.
+ Cuộc sống thanh lâu: có phong, hoa, tuyết, nguyệt (vẻ đẹp nên thơ bốn mùa); thú vui cầm, kì, thi, họa ->cảnh vật đối với Kiều là sự giả tạo, Kiều không tìm được tri âm, nàng thờ ơ với tất cả cảnh vật xung quanh.
+ “Cảnh nào …… bao giờ?”: Sống trong chốn thanh lâu dập dìu, Kiều tự thương tự đau xót xa cho thân phận phũ phàng của mình (tả cảnh ngụ tình)
- Điệp từ: vui, ai….và câu hỏi tu từ: là tiếng kêu đến xé lòng của con người “tài sắc mà bạc mệnh”
àNguyễn Du đề cao giá trị nhân văn, cảm thông sâu sắc với số phận của Kiều và lên án xã hội gay gắt.
v Nhận xét tâm trạng và nhân cách của nhân vật.
- Đoạn trích thể hiện tâm trạng ngỗn ngang, rối bời, xót xa cay đắng của nhân vật trước cuộc sống hiện tại.
- Kiều là một cô gái có nhân phẩm cao đẹp, có ý thức về nhân cách sống trong cảnh trụy lạc nhưng nàng không buông thả vào cuộc sống ấyà đó là nét đẹp tâm hồn của Kiều.
2.phan tich hinh tuong nguoi anh hung tu hai trong doan trich chi khi anh hung
Học sinh có thể trình bày linh hoạt theo nhiều cách khác nhau , nhưng bài văn cần đảm bảo các ý cơ bản sau : a.Giới thiệu chung:- Giới thiệu đoạn trích Chí khí anh hùng.- Khái quát về nhân vật Từ Hải (trong đoạn trích, với cuộc đời Kiều)b. Từ Hải là người anh hùng có lí tưởng làm nên sự nghiệp lớn:- Hình ảnh người anh hùng hiện lên kì vĩ, lớn lao với hình ảnh "thanh gươm yên ngựa" và được so sánh với chim bằng (loại chim huyền thoại được dùng để so sánh với chí lớn của nam nhi)...- Khát vọng, chí khí lớn lao của người anh hùng được thể hiện qua bút pháp ước lệ và cảm hứng vũ trụ: "động lòng bốn phương", "trời bể mênh mang","bốn bể"... Sự nghiệp lớn mà Từ Hải khao khát là: “Bao giờ m*êi vạn tinh binh /Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường” (Câu thơ có cả âm thanh, hình ảnh, sắc màu cụ thể hóa uớc vọng lớn lao của Từ Hải). c. Không chỉ ý thức rõ ràng về tài năng, lí tưởng của mình mà Từ Hải còn quyết tâm thực hiện lí tưởng đó.- Từ đã vượt qua những níu kéo của tình cảm cá nhân riêng tư, không vì tình yêu mà quên đi lí tưởng cao cả. - Từ Hải tin vào tài năng, sức mạnh của bản thân, tin vào tương lai tươi sáng: "Bằng nay bốn bể không nhà" nhưng sẽ có ngày nắm trong tay "mười vạn tinh binh", và ngày đó sẽ không xa "Đành lòng chờ đó ít lâu/ Chầy chăng là một năm sau vội gì"* Tóm lại: Với khuynh hướng lí tưởng hóa, Nguyễn Du đã xây dựng nên hình tượng người anh hùng Từ Hải với phẩm chất và chí khí phi thường. Từ Hải chính là ước mơ công lí trong Truyện Kiều.* kieu trong trao duyen
Trao duyên, em hỏi, chị thưa... “Lạy thưa”, “gửi lạy”...tình chưa đoạn tình! Sao đã “trao”, đã “gửi” mà “tình chưa đoạn tình”?Cảm xúc này có thể lý giải qua việc phân tích tâm trạng bi kịch của Kiều trong đêm “trao duyên”. Trước tiên, hãy hiểu Vân đôi chút, bởi lẽ Vân trực tiếp đối thoại, khơi gợi và chuẩn bị cho Kiều bộc lộ tâm sự của mình. Người ta hay nói rằng nàng Vân “vô tư”(?) có lẽ là ở chỗ này: cả nhà vừa mắc oan, mới “thong dong” một chút, trong khi chị Kiều một mình một ngọn đèn khuya: “Dầu chong thấm đĩa, lệ tràn thấm khăn” thì em Vân hình như không chống nổi các quy luật sinh lý cho nên đã có một “giấc xuân” êm đềm!Song đến cuộc trao duyên, bắt đầu ta nghe Vân “ân cần hỏi han” chị, ta lại nghĩ Vân chưa hẳn vô tình, những điều cô hỏi chứng tỏ cô hiểu đời, cái đời “dâu bể đa đoan”, biến động khôn lường...Cô biết nỗi oan của mình, oan “một nhà” mà cô nghĩ “để chị riêng oan”, cô ngủ mà cô vẫn biết chị “ngồi nhẫn tàn canh, nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây?”.Nguyễn Du quả đã khéo sắp đặt: để cho Vân hỏi chị trước, hỏi vừa đủ mà “trúng đích”, hỏi thể tất “nhân tình”!Và trong suốt cuộc trao duyên, Vân chỉ hỏi mỗi một lần, rồi lẳng lặng mà nghe... Vậy ra Vân cũng hay đấy chứ, cô đã tỏ ra “biết chuyện” và đã khơi gợi, tạo cơ hội cho chị Kiều bày tỏ, nhưng bày tỏ sao đây trong khi chị Kiều: Hở môi ra cũng thẹn thùng Chị buộc phải trao duyên – cái duyên vợ chồng với Kim Trọng cho em! Chuyện ấy, “hở môi ra” đã thẹn.Biết thẹn mà phải nói, nói để mà trao, sự tình đã đến thế thì chị phải thổ lộ thật, thổ lộ hết cùng em.Thật lòng là chị “đương thổn thức đầy”, “còn vương vấn mối này chưa xong”, thật lòng là chị ngượng, vì vậy mà điều băn khoăn day dứt trắng đêm nay, chị gửi trong mấy lời thành thật: Để lòng thì phụ tấm lòng với ai Ấy chính là cái gút của tâm trạng bi kịch trao duyên vừa là vấn đề “ức xúc” đặt ra cho chị, và cho cả em giải quyết.Vân thương chị, hẳn là cảm nhận được cái tâm, cái tình trong đó, và hẳn cô đã lờ mờ thấy chị đang có yêu cầu gì với mình đây...Thúy Kiều thật khó nói, mà lại khó nói hơn khi phải nói một chuyện mà mình không muốn nói – mà vẫn “phải” nói cho em nghe, thật rối rắm, thật khó xử, thật là “đau đầu” cho cả em lẫn chị...Đến nước này thì chị phải nhờ vả em thôi, em có hiểu không Vân?Tâm trạng Kiều thật sự bối rối, cách giải quyết của Kiều là sự họat động về tình cảm chị em mà thôi, chứ không phải là lí trí: Cậy em, em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa Đến nước này thì chị phải cậy em thôi, chị tin rằng em sẽ bằng lòng giúp chị mà, “em có chịu lời” của chị không?Câu thơ như van xin, như cầu khẩn, câu thơ đặt ra vấn đề cho Vân, và Kiều thăm dò ý của em mình, ở đây Kiều không ép, mà Vân cũng chẳng phật lòng, càng dễ cảm thông cùng chị, Kiều mới yêu cầu em: Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa Sao lại thế nhỉ?Theo tôi, có lẽ Vân cảm thấy đột ngột trước yêu cầu này.Người đọc thì cảm thấy như có sự “thay bậc đổi ngôi”, có sự “hóan vị”, em bỗng như là chị, chị bỗng như là em (cúi mình “lạy”).Thì ra chính cái yêu cầu kia là xuất phát từ tình thế, tâm trạng chị: vì chuyện tình riêng, chị phải “lạy thưa” em, “cậy” nhờ em, đương nhiên em sẽ là ân nhân của chị!Thúy Kiều lạy thưa là tỏ trước tấm lòng biết ơn của mình, và cũng là xuất phát từ sự trân trọng của mình trước chuyện “trao duyên” thiêng liêng, hệ trọng này.Câu thơ trên gợi ý có tình, câu thơ dưới cầu khiến có tình, quả nhiên hai câu thơ có sức thuyết phục đặc biệt! Kiều bắt đầu kể cho em nghe chuyện tình của mình với Kim Trọng: Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề Phải rồi, kể từ đó – từ khi gặp chàng Kim, chị đã có tình yêu và tình yêu đó ngày càng sâu đậm hơn.Kiểu thổ lộ với em thật thà, không giấu giếm, thật trong sáng, tình yêu của Kiều là do thiên tính – là do trời chỉ định, Kiều “quan niệm” tình yêu của mình khác với “quan niệm” phong kiến, đó là sự cảm nhận yêu thương từ trong trái tim chứ không là sự thức ép.Phải chăng, Nguyễn Du đã cho Kiều ít nhiều nói lên sự tự do yêu thương của con người trong xã hội lúc đó? Sau mấy câu kể vắn tắt chuyện tình riêng của Kim Trọng, Kiều tiếp tục thuyết phục em bằng cả lí, cả tình: Sự đâu sóng gió bất kì Hiếu tình khôn lẽ hai bề vạn hai? Từ tình cảm của mình, Kiều nói đến cái lí, cái lí phải chọn một trong hai điều để trọn vẹn một điều nào, hi sinh điều nào.Kiều nghĩ Vân sẽ ắt hiểu và hiểu thêm tâm trạng bi kịch của mình nữa. Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non Em còn trẻ, em hãy thương chị mà thay chị lấy chàng Kim.Ấy chính là tình.Chỉ cần nói mấy tiếng “xót tình máu mủ” là đủ xóay tận vào đáy lòng em rồi.Mà em đã “xót tình máu mủ” thì làm sao có thể từ chối “thay lời nước non”?Câu thơ nghe não lòng, nghe như có tiếng kêu thương thống thiết khiến Vân phải nghĩ đến bổn phận mình phải làm thế nào cho phải... Kiều mới nói tiếp: Cho dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây Đó là những lời gan ruột của Kiều – một người chị bất hạnh.Lí, tình mà Kiều giãi bày thật tình như vậy, Thúy Vân chỉ còn biết lẳng lặng mà nghe, lẳng lặng mà chấp nhận! Đây là nỗi đau lớn nhất và đầu tiên trong suốt cuộc đời của Kiều, cho nên khi nhắc đến chàng Kim, Kiều vô tình chạm vào nỗi đau sâu thẳm nhất của mình, khiến cô tỏ ra bần thần, rối trí, không điều khiển được mình: Chiếc thoa với bức tờ mây Duyên này thì giữ vật này của chung Đọc câu thơ, ta nghe như có một giọng khang khác.Phải chăng, nội tâm của Kiều lúc này phức tạp hơn, nên ngôn ngữ trở nên “bất bình thường”? Ở đoạn trên ta thấy, dù thuyết phục em bằng lí, bằng tình hay bằng cả hai, thì vẫn là ngôn ngữ lí trí, giọng thơ đều đều, trầm trầm.Đến đâu thì lời thơ như nấc như nghẹn, cái “gút” tâm trạng trên kia đã mở ra dường như được thắt lại ở chỗ này!Tại sao lại có sự khác lạ trong lời nói vậy? Bởi do “chiếc thoa với bức tờ mây” đó thôi, nó là hiện diện của tình yêu! Cầm kỷ vật cụ thể ở tay, trao cho em, Kiều bỗng thấy vụt lên hình ảnh Kim Trọng cùng bao kỷ niệm, thề nguyền...và Kiều chợt nghĩ: vật này là của ta, chàng là của ta, sao lại thành của Vân? Có thể nào như vậy được? Tâm lí Kiều lúc này cần một lời thỏa đáng, ít ra là để tự an ủi mình.Cho nên câu thơ “Duyên này thì giữ vật này của chung” là cả bao nhiêu sự giằng xé, níu kéo khủng khiếp trong tâm hồn, con tim của Kiều, Nguyễn Du quả thật tinh tế và cũng thật nhân bản trong ý thơ của mình. Đến đoạn cuối cảnh trao duyên, nội tâm Kiều lại phức tạp hơn nữa.Ta hãy nhớ lại: Trước cuộc trao duyên Kiều đã tự cho mình có lỗi với Kim Trọng. Nàng vốn là người giàu tình, đa cảm, dễ ứng mộng...Nàng cũng đã tự gọi mình là người “mệnh bạc”.Bây giờ đang trong nỗi đau mất mát khủng khiếp, bỗng nhiên nàng thấy mình đáng thương nhất, đau đớn nhất, u uất nhất, cay cực nhất.Rồi như người mất hồn, vẫn ngồi đây, mà hồn thi bay xa xăm tận mai sau...Miệng đang nói với em mà như hồn nói với hồn những điều hình dung, dự báo về “mai sau”! Mai sau dù có bao giờ Đốt lò hương ấy, so tơ phím này Trôn ra ngọn cỏ lá cây Thấy hiu hiu gió thì hay chị về Hồn còn mang nặng lời thề Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai... Thì ra, cái hồn vẫn chưa dứt nổi Kim Trọng! Hồn Kiều còn múon về để “đền nghì trúc mai” để được “rảy xin chén nước” tẩy oan cho hồn! Câu thơ nghe mới não lòng làm sao! Và dễ sợ làm sao! Nguyễn Du thương con người thác oan, bạc mệnh hay Nguyễn Du nhạy cảm với nỗi đau nhân tình mà đã đi xa hơn Thanh Tâm Tài Nhân? Nguyễn Du cho ta thấy cái “hồn” Kiều đang vừa nói với mình, vừa nhớ thương Kim Trọng vụt trở thành cố nhân...Trong giây phút ấy, Thúy Vân bỗng bị “hồn” Kiều quên đi, phải chăng là một điều rất hợp lí? Kiều đang còn sống mà thấy mình đã chếtm đang nói với em của mình mà không biết đang nói với ai, lúc này Kiều bị rơi vào trạng thái độc thoại nội tâm, và trước mắt Kiều, Thúy Vân trở thành Kim Trọng, cho nên bao nhiêu tình thương nhớ, nỗi thương yêu ấp ủ khi hồn đã lìa xác bỗng như được tuôn tràn ra: Bây giờ trâm gãy bình tan Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân! Trăm nghìn gửi lạy tình quân... Trên kia, Kiều lạy em vì Kim Trọng, đến đây, hồn Kiều lạy chính Kim Trọng.Nhưng đâu phải vậy, tất cà đều là gửi lạy qua Vân, gửi những trăm nghìn lạy – lạy thương, lạy nhớ, lạy đau...thay vì lạy Kim Trọng, bởi vì Kim Trọng lúc này không có mặt ở đây...Nhưng hồn Kiều vẫn chưa nguôi nỗi niềm thương nhớ, cho nên hồn đã kêu khóc dầm dề: Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây! Nghẹn ngào, cay đắng, xót xa...bấy nhiêu tâm trạng dồn dập xuất hiện trước mắt Kiều – vậy hóa ra hồn lại mâu thuẫn với người sao?Trên kia người nói: Để lòng thì phụ tấm lòng với ai Trao duyên rồi, ngỡ như khỏi phụ và “nợ tình” đành là trả được ít nhiều...Thế mà mãn cuộc trao duyên lại khóc “phụ chàng từ đây” là nghĩa làm sao? Thế mới thật sự là giằng xé, thật sự là bi kịch. Và con mắt tinh đời của Nguyễn Du mới đúng là “nhìn thấu sáu cõi”, lòng đau của Nguyễn Du mới đúng là “nghĩ suốt ngàn đời”.Quả như Chế Lan Viên đã nói: “ Đây chính là những vần thơ siêu thực” bởi vì lần đầu tiên trong lịch sử văn chương dân tộc, cái nghịch lí trong tâm trạng được phát hiện và sử dụng để phân tích nội tâm nhân vật tiểu thuyết, phải chăng đó chính là nét độc đáo, là lí do vì sao Truyện Kiều trở thành bất hủ!
Bai 2:
Nguyễn Du có nghệ thuật miêu tả với tâm trạng nhân vật thật độc đáo. Ông luôn đồng cảm v
File đính kèm:
- on tap hoc ki II van 10.doc