Đề cương ôn tập ngữ văn 11 học kỳ I

A, Đề 01: Phân tích đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” (Trích: Thượng kinh kí sự- Lê Hữu Trác)

I, Mở bài

- Giới thiệu những nét chính về tác giả: Lê Hữu Trác là một danh y đồng thời là một nhà văn, nhà thơ. Sự nghiệp của ông được tập hợp trong công trình “Hải thượng y tông tâm lĩnh”. Tác phẩm gồm 66 quyển, biên soạn trong 40 năm, vừa mang giá trị y học - là công trình nghiên cứu y học xuất sắc nhất trong thời trung đại của Việt Nam, vừa mang giá trị văn học sâu sắc.

- Giới thiệu đoạn trích: “ Vào phủ chúa Trinh” là một đoạn trích trong tác phẩm Thương kinh ký sự của danh y Lê Hữu Trác. Đoạn trích là một bức tranh sinh động về quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ Chúa, đồng thời thấy được một nhân cách cao đẹp của danh y Hải Thượng lãn ông Lê Hữu Trác và nghệ thuật viết kí sự bậc thầy của ông.

II, Thân bài

1, Quang cảnh nơi phủ Chúa:

a, Phủ chúa là một chốn thâm nghiêm, kín cổng cao tường, vô cùng xa hoa, tráng lệ.

- Từ cửa sau để đến được nơi ở của chúa phải qua rất nhiều lần cửa, với “những dãy hành lang quanh co nối tiếp nhau”.

- Thiên nhiên: hài hòa, thơ mộng. Trong phủ chúa, khắp “đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”.

- Kiến trúc: xinh đẹp, lộng lẫy, tráng lệ

+ Phủ chúa có điếm “Hậu mã quân túc trực”, một công trình kiến trúc kiểu cách, biểu thị cho chốn tráng lệ, xa hoa. Điếm được làm bên hồ, có “những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ”, với những cái “cột và bao lơn lượn vòng”.

+ Nhưng không chỉ có vậy, qua “cửa lớn” sau điếm Hậu Mã, đi theo hành lang phía tây, người đọc còn thấy được hai công trình kiến trúc to lớn và uy nghi khác. Đó là nhà “Đại đường” (hay còn gọi là Quyền bồng) và Gác tía. Cả nhà “Đại đường” và “Gác tía” đều là những nơi xa hoa, lộng lẫy, “thật là cao và rộng” và ánh lên ánh sáng hào nhoáng của sơn son thếp vàng.

- Đồ vật: từ mâm vàng, chén bạc, đến những vật như kiệu của vua chúa, đồ nghi trượng, bàn ghế, sập, võng, cột,. hết thảy đều là những thứ nhân gian chưa từng thấy.

- Đồ ăn: toàn những của ngon, vật lạ cũng là “chưa tùng thấy trong nhân gian”.

- Lộng lẫy, xa hoa nhất trong phủ chúa phải kể đến nội cung, nơi ở của cha con thế tử.

+ Nội cung của thế tử là một chốn thâm cung.

 

doc50 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3319 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề cương ôn tập ngữ văn 11 học kỳ I, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VÀO PHỦ CHÚA TRỊNH A, Đề 01: Phân tích đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” (Trích: Thượng kinh kí sự- Lê Hữu Trác) I, Mở bài - Giới thiệu những nét chính về tác giả: Lê Hữu Trác là một danh y đồng thời là một nhà văn, nhà thơ. Sự nghiệp của ông được tập hợp trong công trình “Hải thượng y tông tâm lĩnh”. Tác phẩm gồm 66 quyển, biên soạn trong 40 năm, vừa mang giá trị y học - là công trình nghiên cứu y học xuất sắc nhất trong thời trung đại của Việt Nam, vừa mang giá trị văn học sâu sắc. - Giới thiệu đoạn trích: “ Vào phủ chúa Trinh” là một đoạn trích trong tác phẩm Thương kinh ký sự của danh y Lê Hữu Trác. Đoạn trích là một bức tranh sinh động về quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ Chúa, đồng thời thấy được một nhân cách cao đẹp của danh y Hải Thượng lãn ông Lê Hữu Trác và nghệ thuật viết kí sự bậc thầy của ông. II, Thân bài 1, Quang cảnh nơi phủ Chúa: a, Phủ chúa là một chốn thâm nghiêm, kín cổng cao tường, vô cùng xa hoa, tráng lệ. - Từ cửa sau để đến được nơi ở của chúa phải qua rất nhiều lần cửa, với “những dãy hành lang quanh co nối tiếp nhau”. - Thiên nhiên: hài hòa, thơ mộng. Trong phủ chúa, khắp “đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”. - Kiến trúc: xinh đẹp, lộng lẫy, tráng lệ… + Phủ chúa có điếm “Hậu mã quân túc trực”, một công trình kiến trúc kiểu cách, biểu thị cho chốn tráng lệ, xa hoa. Điếm được làm bên hồ, có “những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ”, với những cái “cột và bao lơn lượn vòng”. + Nhưng không chỉ có vậy, qua “cửa lớn” sau điếm Hậu Mã, đi theo hành lang phía tây, người đọc còn thấy được hai công trình kiến trúc to lớn và uy nghi khác. Đó là nhà “Đại đường” (hay còn gọi là Quyền bồng) và Gác tía. Cả nhà “Đại đường” và “Gác tía” đều là những nơi xa hoa, lộng lẫy, “thật là cao và rộng” và ánh lên ánh sáng hào nhoáng của sơn son thếp vàng. - Đồ vật: từ mâm vàng, chén bạc, đến những vật như kiệu của vua chúa, đồ nghi trượng, bàn ghế, sập, võng, cột,... hết thảy đều là những thứ nhân gian chưa từng thấy. - Đồ ăn: toàn những của ngon, vật lạ cũng là “chưa tùng thấy trong nhân gian”. - Lộng lẫy, xa hoa nhất trong phủ chúa phải kể đến nội cung, nơi ở của cha con thế tử. + Nội cung của thế tử là một chốn thâm cung. + Đường đi: từ ngoài đi qua năm, sáu lần trướng gấm, tối om, “không thấy cửa ngõ gì cả”. + Quang cảnh: “nệm gấm”, “màn là”, “đèn sáp” lấp lánh, “ghế rồng sơn son thếp vàng”, “xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”. - Sự giàu sang của phủ chúa khiến tác giả cũng phải ngỡ ngàng mà thốt lên: “Cả trời Nam sang nhất là đây”. Vốn sinh trưởng trong một gia đình quan lại... b, Phủ chúa là chốn uy quyền tối thượng. - Tất cả những gì thường thấy chỉ xuất hiện trong cung vua thì nay đều hiện diện ở phủ chúa. Trong phủ chúa, chúa được gọi là thánh thượng, lệnh chúa ban xuống được xem là thánh chỉ, ngọc thể của chúa được gọi là thánh thể,... Mọi đồ nghi trượng, các chức quan đều giống như ở chốn cung đình. - Muốn đến phủ chúa phải có thánh chỉ, có thẻ mới được vào. - Phủ chúa có cả một “guồng máy” phục vụ đông đúc, tấp nập... (giảng văn) - Lời nói: kính cẩn, lễ phép và không được phạm vào lệ “kị húy”. (Thánh thượng đang ngự ở đấy, chưa thể yết kiến, hầu mạch Đông cung thế tử, hầu trà,...) - Khám bệnh cho thế tử phải tuân theo một loạt những phép tắc: Bắt đầu là đứng ở xa chờ đợi, tiếp đó khi được thế tử cho phép trước khi xem bệnh, thầy thuốc phải quỳ lạy bốn lạy. Muốn được ngồi bắt mạch và xem thân hình bệnh nhân để chẩn đoán thì cần phải được sự cho phép của thế tử. Khi xem bệnh xong, trước khi đi ra còn phải lạy bốn lạy nữa. Tóm lại: Với việc chọn lọc được những chi tiết đặc sắc, gây ấn tượng mạnh mẽ, tác giả đã ghi lại trong đoạn trích một bức tranh phủ chúa chân thực, có “hồn” và sống động. Đó là một chốn cao sang, uy quyền tột đỉnh với cuộc sống hưởng lạc xa hoa. Bức tranh phủ chua cũng là bức tranh chân thực về cuộc sống của giai cấp trống trị VN trong những năm chế độ phong kiến đang suy tàn. 2. Vẻ đẹp con người LHT: Vẻ đẹp của một lương y giỏi, có kiến thức y học uyên thâm, giàu kinh nghiệm, có lương tâm và y đức cao quý; Vẻ đẹp của một nhân cách thanh cao, khinh thường danh lợi quyền quý, thủy chung với mong ước được bạn bạn cùng thiên nhiên, trọng nếp sống thanh đạm, giản dị nơi quê nhà. Thể hiện: * Thái độ, tâm trạng của tác giả trước cuộc sống nơi phủ chúa. Thấy rõ cảnh giàu sang, lộng lẫy nơi phủ chúa nhưng tỏ ra dửng dưng trước cuộc sống vương giả ở đây và không đồng tình với nó: một cuộc sống quá đầy đủ tiện nghi, xa hoa nhưng lại thiếu khí trời và không khí tự do. *Thái độ, tâm trạng của tác giả khi kê đơn cho thế tử. - Sự khác nhau trong cách chữa bệnh cho thế tử của các vị thầy thuốc khác và quan Chánh đường với LHT. + Cách chữa bệnh của các vị thầy thuốc khác và quan Chánh đường là “có bệnh thì trước hết phải đuổi bệnh. Khi đã đuổi cái tà đi rồi thì hãy bổ, thì mới là các phép đúng đắn nhất”. + LHT lí giải căn bệnh của thế tử là do “ở trong chốn màn che, trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên phủ tạng yếu đi (...) nguyên khí đã hao mòn, tồn thương quá mức. Đó là căn bệnh có nguồn gốc từ cái xa hoa, no đủ, hưởng lạc trong phủ chúa. Bệnh từ trong mà phát ra, do nguyên khí bên trong không vững mà âm hỏa đi càn. Cho nên cách chữa không phải là “công phạt” mà là “không bổ thì không được”. - Diễn biến tâm trạng: + Đưa ra những luận giải hợp lí và có thể chữa trị hiệu quả ngay căn bệnh của thế tử nhưng nếu chữa khỏi ngay bị danh lợi ràng buộc, không thể “về núi”. Để tránh được chuyện này, ông đã nghĩ đến “phương thuốc hòa hoãn”, chữa bệnh cầm chừng, vô thưởng vô phạt. Nhưng nếu làm thế thì lại trái với y đức, trái lương tâm, phụ lòng ông cha. Hai suy nghĩ này giằng co, xung đột nhau. Cuối cùng, lương tâm, phẩm chất trung thực của người thầy thuốc đã chiến thắng. Tác giả đã gạt sang một bên sở thích cấ nhân để làm tròn trách nhiệm và lương tâm người thầy thuốc. Khi đã quyết, ông dám nói thẳng và chữa thật căn bệnh của thế tử. Ông kiên quyết bảo vệ quan điểm của mình dù ý kiến đó không đồng thuận với ý kiến của các lương y và quan Chánh đường. ° Chân dung một nhân cách trong sạch giữa dòng đục của cuộc sống nơi phủ chúa. 3, Nghệ thuật. Nghệ thuật viết kí sự chân thực và sắc sảo: - Quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực. - Tả cảnh sinh động. - Đan xen tác phẩm thơ ca tạo cho tác phẩm đậm chất trữ tình. - Tạo nhiều chi tiết đặc sắc. Có thể nói tới Lê Hữu Trác, thể kí văn học đích thực ra đời. III, Kết luận - Khái quát lại nội dung. - Mở rộng vấn đề B, Một số đề văn khác. II, Đề bài 1, Đề 01: Từ hình tượng nhân vật “tôi” trong đoạn trích, anh (chị) có suy nghĩ gì về nhân cách, khí tiết của một số kẻ sĩ thời phong kiến. Theo anh (chị), nhân cách đó có thể giúp ích được gì cho con người trong cuộc sống hiện nay khi đất nước tiến lên hiện đại hoá, hội nhập cùng thế giới? 2, Đề 02 Từ hình tượng nhân vật “tôi” trong đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”, anh chị có suy nghĩ gì về người thầy thuốc hiện nay? 3, Đề 03 Trong đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”, theo anh (chị) chi tiết nào là đặc sắc nhất. Hãy viết lời bình cho chi tiết này trong một đoạn văn ngắn. II, Hướng dẫn: 1, Đề 01: * Nhân cách, khí tiết của một số kẻ sĩ thời phong kiến qua hình tượng nhân vật “tôi” trong đoạn trích. - Khinh thường danh lợi, quyền quý, yêu thích tự do, trọng nếp sống thanh đạm, hoà mình cùng thiên nhiên. + Không mảy may dung động trước tiền tài lợi lộc dù cuộc sống giàu sang, hưởng thụ đang nằm trong tầm tay. + Không những thế còn tỏ thái độ khinh thường cảnh giàu sang, quyền quý. - Là những người có đức độ, lương tâm. Vì người khác sẵn sàng chịu khổ, sẵn sàng hi sinh sở thích của riêng mình. * Tác động của vẻ đẹp nhân cách ấy đối với con người ngày nay. - Giúp con người không vì tiền tài, danh vọng mà lãng quên tất cả. - Có tác dụng tích cực trong việc giáo dục tinh thần “tương thân tương ái” trong xã hội ngày nay. 2, Đề 02: * Vẻ đẹp của lương y Lê Hữu Trác. Có tài, có tâm, có y đức. * Người thầy thuốc trong xã hội hiện nay. - Những mặt tích cực: + Về tài năng + Về y đức - Những mặt tiêu cực. + Chạy theo đồng tiền mà lãng quên y đức. + Vô tâm, vô cảm,... 3, Đề 03 Chi tiết: Thế tử - một đứa bé ốm yếu, bệnh tật – ngồi chễm chệ trên sập vàng để cho thầy thuốc – một cụ già – quỳ dưới đất lạy bốn lạy, rồi cười và ban một lời khen “Ông này lạy khéo” là một trong những chi tiết đặc sắc nhất của đoạn trích. - Nó cho ta thấy quyền uy tối thượng nơi phủ Chúa. - Biến tất cả những lễ nghi trong phủ chúa thành một trò hề. TỰ TÌNH (II) Đề 01: Cảm nhận về bài thơ “Tự tình” I, Mở bài Trong lịch sử văn học Việt Nam, HXH là một hồn thơ độc đáo: nhà thơ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà đậm chất trữ tình, đậm đà bẳn sắc đân gian, tục mà thanh. Sáng tác của XH gồm cả chữ H và chữ N được tập hợp trong tập “Lưu hương kí”, ngoài ra có trên dưới 40 bài thơ Nôm nữa cũng được tương truyền là của bà. Nổi bật lên trong sáng tác của XH là tiếng nói thương cảm của nữ sĩ đối với người phụ nữ, là lời khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng hạnh phúc của họ trong xã hội xưa. Và trong thế giới nghệ thuật vô cùng độc đáo ấy, “Tự tình (II)” là bài thơ tiêu biểu nhất. Nằm trong chùm thơ tự tình gồm ba bài, được sáng tác khi nữ sĩ đã bước vào cuộc đời làm lẽ, bài thơ đã thể hiện tâm trạng vừa buồn tủi, vừa phẫn uất trước duyên phận éo le và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của nhà thơ. Đồng thời, tìm hiểu tác phẩm ta cũng thấy được tài năng nghệ thuật bậc thầy của nữ sĩ. II, 1, Hai câu đề: * Câu 01: Khung cảnh nhân vật trữ tình xuất hiện: +Thời gian: “đêm khuya”, khoảng thời gian tâm tư con người sâu lắng nhất. Trong cô đơn, đối diện với chính mình, NVTT cảm nhận được đầy đủ nhất, sâu sắc nhất, thấm thía nhất, cảnh cô đơn, nỗi bất hạnh của chính bản thân mình. +Không gian: mênh mông, vắng lặng càng làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của NVTT. - Cảm nhận của nhân vật trữ tình: nghe thấy tiếng trống cầm canh từ xa vọng lại văng vẳng nhưng lại dồn dập, liên hồi. “Trống canh dồn” không chỉ báo hiệu bước đi dồn dập, vội vã, gấp gáp của thời gian mà còn thể hiện tâm trạng rối bời, buồn bã của nhân vật trữ tình, một con người luôn khao khát tình yêu, hạnh phúc mà phải chịu cảnh sống cô đơn. Thời gian vật lí đã hòa cùng thời gian tâm lí. *Câu 02: nỗi đau đớn, xót xa, cay đắng, bẽ bàng của nhà thơ trước tình cảnh và duyên phận của mình. -Câu thơ có lẽ là độc đáo vào bậc nhất của thơ xưa khi viết về người phụ nữ sử dụng thơ Đường. -Nói về nhan sắc của mình mà dùng hai từ “hồng nhan”, có lẽ nhân vật trữ tình đã tự ý thức được mình là một người phụ nữ có tài năng, nhan sắc. Nhưng ý thức được không phải để sung sướng, tự hào mà trái lại, càng thêm ngậm ngùi cay đắng. Nhờ sự cách kết hợp từ độc đáo của XH, ta thấy được nhan sắc con người thật mỉa mai, rẻ rúng biết bao. Thật là mỉa mai khi từ “hồng nhan”, từ dùng để chỉ nhan sắc của người phụ nữ lại được kết hợp với từ “cái”, từ dùng chỉ đồ vật tầm thường. Cụm từ “cái hồng nhan” gợi cho ta một nỗi đau khi người phụ nữ cùng với nhan sắc của mình đã bị “đồ vật hoá”, coi thường, bị người ta khinh thường, vứt bỏ. Nhưng đâu chỉ có thế, khi hạ bút đặt một chữ “trơ” trước “cái hồng nhan”, nữ sĩ còn nhân lên gấp bội nỗi đau đớn, tủi nhục ấy. Bởi “trơ” là lẻ loi, trơ trọi, mà “trơ” cũng là phơi ra, bày ra. Phơi ra, bày ra “cái hồng nhan”, thật là bẽ bàng, tủi hổ. Câu thơ sử dụng nghệ thuật: đảo ngữ, đặt từ “trơ” lên đầu câu, kết hợp với cách ngắt nhịp độc đáo 1/3/3 hiếm thấy trong thơ Đường, càng khiến nỗi đau thêm thấm thía, bi kịch thêm cay đắng, xót xa. Phải đau, phải tủi hổ, bẽ bàng đến thế nào mới viết nên được một câu thơ như vậy. Bốn chữ “Trơ cái hồng nhan” đã nén chặt nỗi đau ghê gớm của người phụ nữ về duyên phận, làm nên cái nét riêng dường như chỉ có ở XH. -Nhưng câu thơ không chỉ cho ta thấy nỗi đau mà còn cho ta thấy bản lĩnh XH. Dù duyên phận éo le, dù tâm trạng có tủi hổ, bẽ bàng nhưng XH vẫn vững vàng, thách thức với nó. Bởi “trơ” không chỉ là tủi hổ, bẽ bàng mà còn là thách thức. “Trơ... nước non” là trơ ra, thách thức với cả nước non, với một không gian rộng lớn. Chữ “trơ” trong trường hợp này đồng nghĩa với chữ “trơ” trong bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ” của Bà Huyện Thanh Quan. 2. Hai câu thực: Bi kịch được nhấn mạnh và khắc hoạ sâu hơn làm cho nhân vật trữ tình càng thấm thía hơn nỗi đau duyên phận. * Câu 03: - Trong đêm khuya, sống trong sự cô đơn, trong tâm trạng bẽ bàng, tủi hổ, XH tìm tới rượu với mong muốn lãng quên hiện thực đau buồn. - Kết quả: hiện thực đau buồn không những không được lãng quên, mối sầu trong long không những không được tiêu tan, giải tỏa mà trái lại càng lúc càng trào dâng mạnh mẽ. Bởi say rồi lại tỉnh, hiện thực chỉ được láng quên trong chốc lát, khi tỉnh lại nỗi đau ấy lại càng thấm thía hơn. - Cụm từ “Say lại tỉnh”: một lần nữa cho ta thấy tài năng sử dụng và kết hợp từ ngữ của Bà chúa thơ Nôm (“lại”: quay lại, lặp ,lại) → cum từ được cấu tạo theo lối khép kín, gợi lên cái vòng luẩn quẩn, trở đi trở lại, bế tắc trong tâm trạng và số phận XH. Nữ sĩ tìm đến hương rượu mong muốn được say để quên đi hiện thực nhưng càng say lại càng tỉnh, càng cảm nhận nỗi đau thân phận rõ ràng hơn. * Câu 04: - XH tìm tới trăng nhưng trăng cũng không giúp đem lại niềm vui cho nữ sĩ. Thậm chí, còn khiến nhà thơ thêm buồn khi soi chiếu vào cuộc đời mình. → Câu thơ là ngoại cảnh nhưng cũng là tâm cảnh. Trăng và người đồng nhất. Đối diện với đêm khuya, với vầng trăng lạnh, nữ sĩ như chìm ngập trong cô đơn của nỗi đau duyên phận. Hai câu thơ đa nói rõ hơn thực cảnh và cũng là thực tình của XH. 3. Hai câu luận: ngoại cảnh hòa cùng tâm cảnh. Hình ảnh thiên nhiên cũng chính là hình ảnh con người. - Thiên nhiên: + Rêu là sinh vật nhở bé, hèn mọn, yếu mềm và chỉ có từng đám nhỏ nhưng cũng không chịu mềm yếu mà nó phải mọc xiên, lại còn “xiên ngang mặt đất”. + Đá chỉ có mấy hòn nhưng không cam chịu sự nhỏ bé mà phải vùng lên vén trời “đâm toạc chân mây” để hờ, để oán. → Thiên nhiên: sức sống mạnh mẽ, không cam chịu số phận mà phẫn uất vùng lên phản kháng. Sự phẫn uất, phản kháng đó của đá, của rêu cũng chính là sự phẫn uất, phản kháng trong tâm trạng con người. Nếu như đá kia, rêu kia không cam chịu thân phận hèn kém, yếu mềm, vươn lên vạch đất, vạch trời mà oán thì nữ sĩ cũng đâu cam chịu một duyên phận ngán ngẩm trớ trêu, nữ sĩ cũng mạnh mẽ vươn lên phản kháng lại số phận để tìm cho mình hạnh phúc. - Nghệ thuật: + Sử dụng động từ mạnh “xiên”, “đâm” kết hợp với bổ ngữ “ngang”, “toạc” thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh. + Đảo ngữ + Đối → Nhấn mạnh hình ảnh thiên nhiên và tâm trạng con người. - Thể hiện phong cách và tạo nên nét đặc sắc trong thơ XH: + Hai câu thơ cho ta thấy đặc điểm cá tính con người XH: bản lĩnh, mạnh mẽ, không chấp nhận số phận, hoàn cảnh. + Từ ngữ được sử dụng trong hai câu thơ thể hiện rõ nét những nét riêng trong phong cách nghệ thuật của bà chúa thơ Nôm. “Xiên ngang”, “đâm toạc” là cách dùng từ “rất XH”. Nữ sĩ đặc biệt thành công trong việc sử dụng các từ làm phụ ngữ “mỏi mắt dòm”, “rơi lõm bõm”, “chín mõ mòm”, “khua lắc cắc”, “vỗ long bong”,... những phụ ngữ này góp phần làm cảnh vật trong thơ XH bao giờ cũng sinh động và căng tràn sức sống, một sức sống mãnh liệt ngay cả trong những tình huống bi thảm nhất. 4. Hai câu kết: Như vậy, hai câu luận đã thể hiện sâu sắc bản lĩnh, cá tính của XH. Nhưng dù có gắng gượng vươn lên thì cuối cùng vẫn là rơi vào bi kịch. Bài thơ khép lại bằng một lời than cho duyên phận của mình của nhân vật trữ tình trong tâm trạng chán trường, buồn tủi. * Câu 07: -Câu thơ bộc lộ rõ tâm trạng chán chường, ngán ngẩm của XH khi ý thức rõ sự trôi chảy của thời gian, đời người với bao xót xa, nuối tiếc. Trong câu thơ XH đã sử dụng hai từ “xuân” và hai từ “lại” với các tầng ý nghĩa khác nhau (...) góp phần quan trọng trong việc thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình. -XH ngán lắm rồi “Xuân đi, xuân lại lại”, ngán lắm rồi sự trở lại của mùa xuân, bởi sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Với nhịp điệu đều đều, dàn trải câu thơ là một tiếng thở dài ngao ngán, một nỗi chua chát khôn nguôi. Hình ảnh “Xuân đi, xuân lại lại” gợi cho người đọc về sự ra đi của biết bao mùa xuân, tuổi trẻ tàn phai thế mà tình yêu vẫn không đến. -Cô thiếu nữ XH khao khát tình yêu, náo nức đón chờ tình yêu là thế mà cuối cùng cái nhận được thật là ít ỏi, chẳng đáng là bao. Chỉ là một mảnh tình (vốn đã nhỏ bé)→ (bị) san sẻ → (trở thành) tí con con (có mà như không). Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến được sử dụng trong câu thơ có tác dụng nhấn mạnh sự nhỏ bé dần, làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn, hoàn cảnh càng xót xa hơn. Câu thơ là tiếng thở dài buông xuôi trước dòng đời của nữ sĩ. Hai câu thơ được viết ra từ tâm trạng của một con người khi đã mang thân đi làm lẽ nhưng tầm khái quát lại lớn hơn một hoàn cảnh lấy chồng chung. Nó là nỗi lòng của người phụ nữ xưa khi hạnh phúc với họ là một chiếc chăn quá hẹp. Họ càng khao khát hạnh phúc thì càng thất vọng, ước mơ càng lớn thì thực tại càng mỏng manh. - Nghệ thuật: + Thơ Đường luật nhưng mang đậm nét dân tộc, dân gian. + Từ ngữ giản dị mà đa nghĩa, giàu sức gợi. + Các biện pháp đảo ngữ, đối,... được sử dụng thành công → in đậm cá tính mà mang phong cách riêng độc đáo của XH. Bài thơ mang một ý nghĩa nhân văn sâu sắc khi khẳng định quyết tâm vượt lên trên số phận và khao khát tha thiết, mãnh liệt của người phụ nữ được sống trong hạnh phúc, tình yêu dù rơi vào hoàn cảnh bi kịch nhất. 2, Hình ảnh người phụ nữ xưa trong bài thơ tự tình (II) của HXH. a, Số phận bất hạnh. - Tuy có chồng mà phải sống trong cảnh cô đơn. Một mình xuất hiện giữa đêm khuya để dãi bày tâm trạng. - Có nhan sắc nhưng không được trân trọng mà bị khinh thường, mỉa mai , rẻ rúng. -Hạnh phúc mà họ nhận được quá nhỏ bé, mỏng manh. b, Là những con người giàu bản lĩnh. - Vững vàng, thách thức trước duyên phận. - Phẫn uất, phản kháng trước số phận của mình. c, Có gắng gượng vươn lên thì cuối cùng vẫn rơi vào bi kịch. Bài thơ mang một ý nghĩa nhân văn sâu sắc khi khẳng định quyết tâm vượt lên trên số phận và khao khát tha thiết, mãnh liệt của người phụ nữ được sống trong hạnh phúc, tình yêu dù rơi vào hoàn cảnh bi kịch nhất. CÂU CÁ MÙA THU A, Kiến thức trọng tâm. 1, Nội dung - Bức tranh phong cảnh mùa thu: + Mang vẻ đẹp cổ điển của mùa thu ngàn đời. + Điển hình cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam. - Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Khuyến: + Tình yêu thiên nhiên tha thiết. + Tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng không kếm phần sâu sắc. 2, Nghệ thuật - Nghệ thuật sử dụng từ ngữ. - Nghệ thuật gieo vần. B, Các đề luyện tập và gợi ý. Đề 01: Cảm nhận về bài thơ “Câu cá mùa thu”. I, Mở bài 1, Cách 1: giới thiệu từ tác giả rồi thu gọn lại đến bài thơ. - Giới thiệu Nguyễn Khuyến: là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam thời trung đại. Sáng tác của ông gồm cả chữ Hán và chữ Nôm với số lượng còn lại khoảng trên 800 bài gồm cả thơ, văn, câu đối, nhưng chủ yếu là thơ. Thơ Nguyễn Khuyến nói lên tình yêu quê hương đất nước, gia đình, bạn bè; phản ánh cuộc sống của những con người cực khổ, thuần hậu, chất khác; châm biếm, đả kích bọn thực dân phong kiến, đồng thời bộc lộ tấm lòng ưu ái với dân, với nước. Và bài thơ “Câu cá mùa thu” (Thu điếu) được trích từ chùm thơ viết về mùa thu gồm ba bài:... là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất trong thế giới nghệ thuật phong phú ấy của nhà thơ. -Được sáng tác sau khi nhà thơ đã cáo quan về ở ẩn, bài thơ đã vẽ lên trước mắt người đọc một bức tranh điển hình cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam, thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước tha thiết, tâm trạng thời thế của thi nhân. Đồng thời, qua tác phẩm ta cũng thấy được nghệ thuật tả cảnh, tả tình và khả năng sử dụng tiếng Việt tài tình của Nguyễn Khuyến. 2, Cách 2: Không biết tự bao giờ, mùa thu đã trở thành đề tài muôn thuở, gần gũi và quen thuộc của thơ ca. Mùa thu huyền diệu, mùa thu chan chứa yêu thương đã được thể hiện ở tất cả các góc cạnh khác nhau qua ngòi bút thi nhân. Có khi mùa thu xuất hiện như một cô gái đáng yêu nhu mì và nhút nhát “Em không nghe mùa thu – Lá thu rơi xào xạc – Con nai vàng ngo ngác – Đạp trên lá vàng khô”, có khi lại xuất hiện trong tình yêu rộn rã, vui sướng, vồ vập của nhân vật trữ tình “Đây mùa thu tới, mùa thu tới – Với áo mơ phai dệt lá vàng”,... để rồi khi bước vào thơ Nguyễn Khuyến, bước vào thơ của “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”, mùa thu kiều diễm, hoa lệ ấy đã trở thành một cô thôn nữ dân dã mà say đắm lòng người. Chỉ bằng một chùm thơ viết về mùa thu gồm ba bài, Nguyễn Khuyến đã thâu tóm được tất cả những gì là đặc trưng nhất của vẻ đẹp mùa thu vùng ĐBBB.Và trong chùm thơ thu nức danh ấy, “Câu cá mùa thu” (Thu điếu) là “tiêu biểu hơn cả” và “điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh VN”. Khám phá thế giới nghệ thuật của bài thơ, người đọc không chỉ được đắm chìm vào không gian thu rất riêng của vùng ĐBBB mà còn thấy được tình yêu thiên nhiên, đất nước tha thiết, tâm trạng thời thế, thấy được nghệ thuật tả cảnh, tả tình và khả năng sử dụng tiếng Việt tài tình của thi nhân. II, Thân bài 1, Bức tranh phong cảnh mùa thu trong Câu cá mùa thu mang vẻ đẹp cổ điển cổ điển của thơ thu muôn đời. - Với thi đề, thi liệu: quen thuộc. Đó là vẻ đẹp của thu thủy (nước thu), thu thiên (trời thu). Chúng ta tưởng chừng gặp lại ý thơ của người xưa “thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”. Đó còn là các thi liệu thu diệp (lá thu), ngư ông (người câu cá). - Câu cá mùa thu cũng sử dụng đắc địa bút pháp của thơ cổ điển, lấy cái động để thức dậy cái tĩnh. Phải là một không gian tĩnh lặng tới mức gần như tuyệt đối mới có thể thấy rõ cái hơi gợn tí của sóng biếc mặt ao và chút khẽ đưa của là lá vàng. Tĩnh đến độ cả con người và thiên nhiên cùng như giật mình bởi âm thanh cá đâu đớp động dưới chân bèo. 2, Nhưng cảnh trong câu cá mùa thu đâu chỉ có vậy, nhắc đến cảnh thu trong tác phẩm còn là nhắc đến một mùa thu “điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh VN”. Hồn quê xứ sở đã thấm vào hồn thơ để tạo nên một ấn tượng đặc biệt, giống như ta thấy Huế khi nghe điệu mái nhì, mái đẩy, thấy sông nước Nam Bộ mênh mông khi nghe câu lí, câu hò. Đọc Câu cá mùa thu, ta thấy ngay trước mắt mình mùa thu nơi ĐBBB với những nét riêng tiêu biểu mà mùa thu ở những vùng miền khác không có được. Với cách đón nhận cảnh thu độc đáo: từ gần đến cao xa, rồi từ cao xa trở lại gần, (...) Nguyễn Khuyến đã tạo nên một bức tranh mùa thu với những đặc điểm nổi bật nhất của cảnh thu vùng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam. a, Một bức tranh mùa thu đẹp, trong trẻo, bình dị, quen thuộc, thanh sơ, dịu nhẹ nhưng cũng rất đỗi nên thơ. - Cảnh vật: ao thu, lá vàng, thuyền câu, ngõ trúc, bầu trời, tầng mây,... → những cảnh vật bình dị, gần gũi, quen thuộc ở làng quê. Cái tài của NK là từ những vật bình dị ấy nhà thơ đã khám phá ra những vẻ đẹp hết sức nên thơ: cái ao làng bình thường → ao thu nước trong veo (“Ao thu”, sáng tạo rất mới của Nguyễn Khuyến tạo một cảm giác thơ mộng ngay từ đầu bài thơ, Cảm nhận từ “trong veo”); sóng trong ao → sóng biếc; lá rụng → lá vàng khẽ đưa trước gió,...) - Màu sắc: + Màu sắc chủ đạo làm nền cho bức tranh thu ấy là màu xanh: xanh trong của nước, xanh biếc của sóng, xanh lục của bèo, xanh rợp của trúc,... + Và giữa các “điệu xanh” ấy, Nguyễn Khuyến đã điểm xuyết vào một chấm vàng nhỏ của chiếc lá vàng khẽ bay trước gió và màu trắng của đám mây lơ lửng giữa bầu trời xanh ngắt làm cho bức tranh thu càng thêm đa dạng. Sự hòa phối về màu sắc của bức tranh đã đạt đến sự “thú vị” tạo nên một không gian thu xanh mang sắc thu quê. - Đường nét: Đường nét được miêu tả trong bức tranh thơ cũng là những đường nét rất riêng, mang vẻ đẹp nên thơ của mùa thu vùng đồng bằng BB. Đó là những đường gợn của làn sóng ao thu, những nét uốn lượn của chiếc lá vàng rơi, đó cũng là những đường bao thanh mảnh, quanh co của rặng trúc và sự lơ lửng của những đám mây giữ bầu trời. b, Bức tranh phong cảnh mùa thu ấy thật đệp nhưng tĩnh lặng và đượm buồn. - Không gian tĩnh lặng, vắng người, vắng tiếng. + “Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo” + Các chuyển động: sóng hơi gợn, mây lơ lửng, lá khẽ đưa → những chuyển động rất nhẹ, rất khẽ, không đủ tạo âm thanh. + Tiếng cá đớp mồi → càng làm tăng sự yên ắng, tĩnh mịch của cảnh vật. - Sử dụng nhiều gam màu lạnh với độ xanh trong của nước, độ xanh biếc của sóng, xanh ngắt của trời,... → gợi buồn da diết. 2, Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Khuyến (tình thu): * Một tâm hồn thanh cao, gắn bó, yêu tha thiết cảnh vật quê hương, đất nước. Đi câu thực chất chỉ là cái cớ để nhà thơ đón nhận cảnh thu, trời thu vào cõi lòng. Không có tình yêu thiên nhiên tha thiết làm sao nhà thơ có thể viết được về mùa thu hay như thế? * Một tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng không kém phần sâu sắc. - Không gian: tĩnh lặng và đượm buồn → một tâm trạng không yên, một tâm sự đau buồn trước hiện tình đất nước của nhà thơ. + Những gam màu lạnh: cái buồn hắt hiu của cảnh vật, cái lạnh trong tâm trạng con người. (Vậy, cái lạnh của trời thu, nước thu đã thấm vào tâm hồn nhà thơ hay chính cái lạnh từ ... cảnh vật?) + Khi tìm hiểu bài thơ, có ng

File đính kèm:

  • docde cuong on tap ngu van 11 hoc ky I(1).doc