Đề tài Dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1

Toán học ra đời do nhu cầu thực tiễn cuộc sống của con người, trong sinh hoạt cũng như trong lao động sản xuất và toán học ngày càng được nâng cao mở rộng cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Khả năng giáo dục toán học đối với con người rất to lớn, nó có nhiều khả năng để phát triển tư duy lô gíc, phát triển các thao tác trí tuệ, góp phần giáo dục con người về ý chí và các đức tính tốt đẹp. Do đó toán học đã được đưa vào trong chương trình giáo dục ngay từ bậc tiểu học.

 Môn Toán là môn học quan trọng trong trường tiểu học. Môn Toán không chỉ trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về toán học mà còn rèn kỹ năng cho học sinh, các kỹ năng cơ bản thiết thực với cuộc sống cộng động, phương pháp suy nghĩ, lòng tự tin, năng động và linh hoạt, ứng xử đúng mực, hợp lý với thiên nhiên, con người và xã hội.

 

doc18 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3848 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phần mở đầu I./ Lý do chọn đề tài: Toán học ra đời do nhu cầu thực tiễn cuộc sống của con người, trong sinh hoạt cũng như trong lao động sản xuất và toán học ngày càng được nâng cao mở rộng cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Khả năng giáo dục toán học đối với con người rất to lớn, nó có nhiều khả năng để phát triển tư duy lô gíc, phát triển các thao tác trí tuệ, góp phần giáo dục con người về ý chí và các đức tính tốt đẹp. Do đó toán học đã được đưa vào trong chương trình giáo dục ngay từ bậc tiểu học. Môn Toán là môn học quan trọng trong trường tiểu học. Môn Toán không chỉ trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về toán học mà còn rèn kỹ năng cho học sinh, các kỹ năng cơ bản thiết thực với cuộc sống cộng động, phương pháp suy nghĩ, lòng tự tin, năng động và linh hoạt, ứng xử đúng mực, hợp lý với thiên nhiên, con người và xã hội. Môn Toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề, nó góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt sáng tạo, nó đóng góp vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao động mới như niềm tin, tình cảm trách nhiệm, cần cù cẩn thận, có ý chí vượt khó khăn, lập luận sáng tạo, làm việc có kế hoạch, có nề nếp và tác phong khoa học, giúp học sinh có kỹ năng sử dụng toán học vào các môn học khác. Trong môn học thì môn Toán có vị trí rất quan trọng. Trong đó "Giải toán có lời văn" đứng vào vị trí hàng đầu trong chương trình toán học nói chung, trong chương trình toán lớp 1 nói riêng. Giải toán có lời văn học sinh phải tư duy một cách tích cực, linh hoạt... Vì vậy có thể coi giải toán ở lớp 1 là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ của học sinh. Dạy học giải toán có lời văn ở lớp 1 nhằm giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức thao tác, rèn luyện kỹ năng tính toán, đọc viết, sắp xếp từ ngữ, kỹ năng thực hành vận dụng vào thực tiễn học tập, đời sống. Qua việc dạy học giải toán từng bước phát triển năng lực tư duy, kỹ năng suy luận, khêu gợi khả năng quan sát phỏng đoán, tìm tòi, ý chí khắc phục khó khăn, thói quen xét đoán, tính cẩn thận chu đáo, làm việc có kế hoạch... Xuất phát từ nhu cầu nâng cao nghiệp vụ của bản thân góp phần vào việc dạy toán có hiệu quả. Do vậy tôi đã chọn đề tài: "Dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1". II./ Mục đích đề tài: - Tìm hiểu những khó khăn và thuận lợi của giáo viên và học sinh khi thực hiện dạy và học giải các bài toán có lời văn ở lớp 1. - Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học về giải các bài toán có lời văn. - Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán. III./ Phương pháp nghiên cứu: - Nghiên cứu SGK, SGV toán 1 để tìm hiểu nội dung, phương pháp dạy giải các bài toán có lời văn. - Đọc tài liệu và các chuyên san để biết được cơ sở lý luận dạy giải toán ở lớp 1. - Điều tra thực trạng, dự giờ thăm lớp. Phần nội dung I./ Trong chương trình toán 1 có nhiều nội dung, kiểu bài khác nhau, trong đó việc dạy giải các bài toán có vị trí hàng đầu trong việc dạy học toán. Bởi lẽ để giải các bài toán các em phải huy động, kết hợp nhiều kỹ năng, thao tác như: đọc hiểu, viết, sắp xếp từ, tính toán, tư duy, trình bày và đây là một loại toán tổng hợp rất khó đối với học sinh lớp 1. Việc dạy giải các bài toán có lời văn cho học sinh lớp 1 có tầm quan trọng đặc biệt. Vì tròn 6 tuổi tạm biệt ông, bà, cha mẹ bé đến trường phổ thông, đến với thầy cô giáo, đến với bạn bè đồng tuổi để tiếp thu nền văn minh nhân loại đã được tinh chế bằng phương pháp nhà trường. Vào lớp 1 trẻ chuyển sang một giai đoạn mới và phương pháp chiếm lĩnh tri thức của nhân loại cũng bằng phương pháp hoàn toàn khác trước. Và từ đây nhà trường có nhiệm vụ cao cả dạy cho các em "nhìn thấy" cái bản chất trong những cái quen thuộc mà trước đây trẻ có thể nhìn thấy nhưng "không thấy". Nhà trường có nhiệm vụ đưa đến cho trẻ cái nhìn mới chưa thể có trong vốn liếng 6 năm đầu trẻ tích luỹ được. Cách nhìn ấy của trẻ là cách nhìn khoa học chứ không phải nhìn kinh nghiệm. Giáo viên vừa truyền đạt có kết quả cái mà học sinh lĩnh hội, dạy học sinh cách học toán và cao hơn nữa là biết cách tự học toán. Đồng thời tạo cho học sinh tâm thế để ghi nhớ, hướng dẫn học sinh cách học, cách tư duy tránh để các em ghi nhớ máy móc, học vẹt. Đặc điểm tư duy của học sinh tiểu học là tư duy trực quan đến trừu tượng. Do đó phương pháp dạy học ở tiểu học là qúa trình kết hợp giữa cụ thể và tư duy lôgíc, từ mức độ thấp đến mức độ cao, từ cụ thể đến khái quát. Qua mỗi bài toán từ đơn giản đến phức tạp giúp học sinh hình thành được khả năng tư duy của mình, óc sáng tạo, tư duy lôgíc của nó đều được thể hiện bằng ngôn ngữ toán học và mối quan hệ chặt chẽ trong bài. Việc giải toán có lời văn ở lớp 1 thực tế đây là một vấn đề khó đối với các em, khả năng đọc hiểu cũng như khả năng khái quát hoá, phân tích tư duy đối với các bài toán chưa cao, nên khi gặp bài toán có từ ngữ khác một chút là các em làm rất khó khăn, hoặc gặp bài toán có từ giống bài trước là các em lắp ngay cách giải đó. Phần nhiều các em đều có câu trả lời và viết phép tính ở dạng thông thường. Chính vì việc dạy học giải toán có lời văn có vị trí và vai trò quan trọng như vậy, nên giáo việc cần phải lựa chọn và tìm ra phương pháp giảng dạy phù hợp để đạt được mục đích như mong muốn. Giúp học sinh nắm chắc có hệ thống về kiến thức toán học, giúp các em nhận thức đúng theo quy luật phát triển từ trực quan cụ thể đến tư duy trừu tượng, trên cơ sở đó hình thành thói quen và kỹ năng giải toán như: - Giải các bài toán đơn về phép tính cộng. - Giải các bài toán đơn về phép tính trừ. Do hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ nhất ở học sinh lứa tuổi này tương đối chiếm ưu thế nên trí nhớ trực quan, hình tượng được phát triển hơn trí nhớ từ ngữ lôgíc. Ngôn ngữ cũng như vốn từ của học sinh lớp 1 còn bị hạn chế nên các bài toán đưa ra từ dễ đến khó dưới các kênh: - Kênh hình. - Kênh hình và kênh chữ. - Kênh chữ. Trong qúa trình học tập, tư duy của trẻ thay đổi rất nhiều, sự phát triển tư duy dẫn đến sự tổ chức lại một cách căn bản quá trình nhận thức. Cùng với đặc điểm của học sinh lớp 1 nên bài toán đưa ra mức độ từ thấp đến cao. - Nhìn hình vẽ nêu tình huống và điền phép tính thích hợp. - Nhận biết các thành phần của bài toán có lời văn. - Giải các bài toán có lời văn, các phần của bài giải. - Trình bày bài giải hoàn chỉnh. - Giải các bài toán về thêm và bớt có 1 phép tính. 1- Nhìn hình và viết phép tính ở giai đoạn đầu của học sinh lớp 1, việc đọc của các em chưa đạt yêu cầu vì các em mới được học 31 bài Tiếng Việt nên các em chưa đọc được nhiều nên các bài toán có lời văn được đưa ra ở dạng kênh hình. Các bài toán sử dụng bằng tranh, hình vừa hấp dẫn gây hứng thú học tập vừa đòi hỏi học sinh phải biết phát hiện và giải quyết linh hoạt các tình huống nêu trong hình, trong tranh. Các em nhìn hình vẽ, phân tích hình để đưa ra tình huống phù hợp với hình vẽ sau đó viết phép tính phù hợp với tình huống vừa đưa ra. Với kiểu bài này học sinh phải nắm được đặc điểm của hình vẽ (hình dáng, tư thế) từ đó nắm được đây là bài toán chỉ có 1 cách giải duy nhất là bài toán mở. Ví dụ: Bài 4/51-SGK: Viết phép tính thích hợp Đây là bài đầu tiên nên giáo viên cần giải thích về dấu hiệu mũi tên chỉ có 1 tình huống. Học sinh suy nghĩ nêu tình huống và viết phép tính. Hình vẽ này học sinh nêu được một tình huống (bài toán). Trong đĩa có 3 quả táo, thêm 2 quả táo. Hỏi trong đĩa có tất cả bao nhiêu quả táo? Viết phép tính tương ứng với tình huống: 3 + 2 = 5 Nhưng với bài toán 4/47 - SGK Khác với bài toán trên, đây là bài toán mở, giúp học sinh thực hành nhiều hứng thú và linh hoạt trong thực hành. Nhưng điều cơ bản là cả 3 đối tượng học sinh giỏi, khá, TB đều nắm được tình huống chung: Có 3 con chim đậu trên cành, có 1 con chim bay đến. Hỏi trên cành có tất cả mấy con chim? 3 + 1 = 4 Giáo viên khuyến khích động viên các em suy nghĩ các tình huống khác: + Có 1 con chim đang bay và 3 con chim đậu trên cành. Hỏi có tất cả bao nhiêu con chim? 1 + 3 = 4 + Có 4 con chim, trong đó có 3 con chim đậu trên cành. Hỏi có mấy con chim đang bay? 4 - 3 = 1 + Có 4 con chim, trong đó có 1 con đang bay. Hỏi trên cành có mấy con chim? 4 - 1 = 3 Ba tình huống này học sinh độc lập suy nghĩ nên khi kiểm tra việc làm bài giáo viên đặt câu hỏi: Vì sao em viết phép tính: 1 + 3 = 4; 4 - 3 = 1; 4 -1 = 3 Thì học sinh phải nêu tình huống phù hợp với phép tính. 2- Nhận biết các thành phần của bài toán: Phải nắm được và phân biệt một bài toán gồm có 2 phần: - phần cho - phần hỏi + Phần cho thường bắt đầu bằng chữ "có" các số (gắn với thông tin đã biết). Ví dụ: Bài 1/115-SGK Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán: Bài toán: Có...... bạn, có thêm..... bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn? Học sinh tự đọc, phân tích và quan sát hình vẽ để biết bài toán còn thiếu gì để bổ sung cho hoàn chỉnh bài toán. + Phần hỏi (câu hỏi) thường bắt đầu bằng chữ "hỏi" cuối câu hỏi có dấu chấm hỏi (?). Ví dụ: Bài 3/116- SGK: Viết tiếp câu hỏi để có bài toán. Bài toán: Có 1 gà mẹ và 7 con gà con. Hỏi....................................? Dựa vào hình vẽ, óc phân tích và gợi ý của giáo viên, học sinh biết bài toán đã có phần cho, phần tìm câu hỏi cho bài toán. Các bài toán ở đây được đưa ra dưới dạng kênh hình và kênh chữ, các từ ngữ trong bài toán đưa ra các từ gần gũi, quen thuộc như các từ: con gà, con thỏ, con mèo, con chim, bóng bay, con vịt, các bạn. 3- Các phần của bài giải, trình bày bài giải: Lúc này các em đã có một số vốn từ cùng với đọc, viết đã hoàn thiện kết hợp với tư duy, phân tích, quan sát hình vẽ, việc giải toán có lời văn được nâng lên một bước, học sinh nắm được các phần của bài giải theo trình tự: - Câu lời giải. - Viết phép tính. - Viết đáp số. Gặp bất cứ bài toán có lời văn nào đều phải tuân thủ và thực hiện theo trình tự sau: + Viết bài giải. + Viết câu lời giải: Cần dựa vào câu hỏi của bài toán, viết câu lời giải, là câu mở không nhất thiết phải tuân theo một mẫu. + Viết phép tính: Chỉ đưa đơn vị vào bên phải kết quả của phép tính và để trong ngoặc đơn. + Viết đáp số: Viết số kèm đơn vị không có ngoặc đơn. Ví dụ: Bài 3/118- SGK Đàn vịt có 5 con ở dưới ao và 4 con ở trên bờ. Hỏi đàn vịt có tất cả mấy con? + Câu lời giải của bài toán này thường các em dựa vào câu hỏi bằng cách bỏ chữ "hỏi" , "mấy con" sẽ có câu trả lời: Đàn vịt có tất cả? Đối với những học sinh có tư duy thì câu trả lời có sự sắp xếp lại các từ để có nhiều câu trả lời khác nhau như: Số vịt ở dưới ao và trên bờ, số con vịt trong đàn. + Viết phép tính của bài toán: 5 + 4 = 9 (con vịt) tên đơn vị có thể viết là "con"; 5 + 4 = 9 (con). Trình bày bài giải với các dòng của câu trả lời, phép tính, đáp số sao cho cân với trang vở. 4- Giải bài toán về thêm bớt có một phép tính: Khi gặp các bài toán có từ "thêm" hoặc yêu cầu của bài toán gộp lại các đồ vật, con vật.... thì học sinh sẽ hiểu là phải làm phép tính cộng. Đối với các bài toán có từ bớt (cho, bay đi, cắt đi, bán, chuyển, đi)... hoặc bài toán dạng: Có 7 quả bóng, trong đó có 2 quả bóng xanh. Hỏi có mấy quả bóng đỏ. Đều thực hiện bằng phép tính trừ. Ví dụ: Bài 2/118-SGK Lúc đầu tổ em có 6 bạn, sau đó có thêm 3 bạn nữa. Hỏi tổ em có tất cả mấy bạn? Bài giải Tổ em có tất cả: 6 + 3 = 9 (bạn) Đáp số: 9 bạn Ví dụ: Bài 1/150- SGK Cửa hàng có 15 búp bê, đã bán đi 2 búp bê. Hỏi cửa hàng còn lại bao nhiêu búp bê? Bài giải Số búp bê cửa hàng còn lại: 15 - 2 = 13 (búp bê) II./ Phân tích thực trạng việc dạy và học "giải các bài toán có lời văn ở lớp 1" ở trường tiểu học hiện nay: - Đối với giáo viên: Do nội dung, chương trình sách giáo khoa mới phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh lớp 1, các bài toán đưa ra ở dạng kênh hình và kênh chữ, các bài toán đơn giản và dễ hiểu nên giáo viên không phải gợi ý, hướng dẫn nhiều mà học sinh tự đọc, quan sát hình vẽ để làm bài. Bên cạnh đó trong việc giảng dạy giáo viên cũng gặp một số khó khăn đối với các loại bài nhìn hình vẽ nêu tình huống rồi viết phép tính. Do tư duy và ngôn từ của học sinh lớp 1 chưa phát triển nhiều nên việc hướng dẫn học sinh làm các bài tình huống câu lời giải mở rộng còn gặp khó khăn. - Đối với học sinh: Các bài toán ở dạng kênh hình và kênh chữ thì học sinh độc lập suy nghĩ, các em thực hành luyện tập được nhiều, học sinh nắm một cách chắc chắn hai phần của bài toán và trình bày bài giải. Tuy nhiên các em vẫn còn gặp một số khó khăn như bài toán mở các em chỉ nêu được tình huống và phép tính ở dạng thông thường, số ít học sinh làm được ở tình huống mở. Trong chương trình toán các em học các số trong phạm vi 100 nên khi gặp bài toán có 2 chữ số học sinh nhẩm kết quả của phép tính hay sai. Câu lời giải của học sinh chỉ dựa vào câu hỏi để viết ra chứ chưa có sự suy nghĩ để tìm ra câu lời giải mở rộng. Qua thực trạng trên tôi thấy cần phải có phương pháp dạy, đặc biệt là hình thành kỹ năng giải toán, rèn tư duy và khả năng ghi nhớ cho học sinh là rất cần thiết, để học sinh phát huy tính tích cực, độc lập trong giải toán, khơi dậy lòng ham học để kết quả dạy học cao hơn. Để nâng cao chất lượng học tập cho học sinh, chúng ta những người giáo viên cần trang bị cho học sinh những kiến thức, kỹ năng giải toán. Muốn vậy giáo viên là người phải có phương pháp giảng dạy phù hợp với từng nội dung bài học và từng đối tượng học sinh mình dạy. III./ Các phương pháp dạy giải các bài toán có lời văn cho học sinh lớp 1: a) Phương pháp quan sát: Quan sát hình vẽ trong giải toán là quan sát hình vẽ, tranh, phân tích đặc điểm của hình vẽ, từ đó biết được bài toán ở dạng nào (thêm hay bớt). b) Phương pháp tổng hợp: Phương pháp tổng hợp là đường lối suy nghĩ đi xuôi từ cái đã cho đến các phải tìm (tìm hiểu bài toán). c) Phương pháp phân tích: Là phương pháp dạy học không trực tiếp đưa ra kiến thức mới đã hoàn chỉnh mà sử dụng hệ thống câu hỏi để hướng dẫn học sinh suy nghĩ và lần lượt trả lời từng câu hỏi, từng bước dẫn đến kết luận cần thiết giúp các em tự tìm ra kiến thức mới. Đây là phương pháp tạo điều kiện cho học sinh phải tích cực, chủ động và độc lập suy nghĩ trong học tập. Nó góp phần làm cho hoạt động dạy học toán của lớp sôi nổi, sinh động, gây hứng thú học tập, tạo niềm tin và khả năng học tập của từng học sinh, rèn luyện cho các em suy nghĩ, cách diễn đạt bằng lời rõ ràng, rành mạch, và như vậy kết quả học tập sẽ vững chắc. Tuy nhiên khi vận dụng phương pháp này phải chú ý đến hệ thống câu hỏi gợi mở sao cho phù hợp với đối tượng học sinh, tránh câu hỏi quá khó, hoặc quá dễ gây chán nản cho học sinh. d) Phương pháp giải thích: Với học sinh lớp 1 vốn từ ngữ còn nghèo nàn nên việc hiểu từ của các em còn sơ sài, sai lệch nên phương pháp giải thích giúp các em hiểu đúng đắn, sâu sắc hơn những từ ngữ mà các em ít được gặp. Song khi sử dụng phương pháp này giáo viên cần giải thích ngắn gọn, dễ hiểu. đ) Phương pháp luyện tập, thực hành: Là phương pháp có liên quan đến hoạt động thực hành, luyện tập các kỹ năng, kiến thức của môn học. Qua luyện tập, thực hành học sinh càng hiểu và nắm chắc kiến thức hơn, vận dụng tốt hơn vào giải quyết các bài tập. Trong dạy giải toán cần kết hợp nhiều phương pháp dạy học thích hợp trong một tiết dạy. Tạo không khí học tập sôi nổi, thoải mái phù hợp với tâm lý của trẻ. Để tiết dạy đạt hiệu quả cao, giúp học sinh nắm chắc cách giải toán, giáo viên cho học sinh luyện tập thực hành nhiều, vận dụng tốt hơn phương pháp quan sát, phân tích và tổng hợp, khi giải toán từ đơn giản đến phức tạp, tạo nhiều hình thức luyện tập, giáo viên có thể tổ chức để học sinh tiến hành được các hoạt động "bằng tay". Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh giải bài toán, sau khi học sinh đọc xong bài toán, giáo viên thường đàm thoại bằng các câu hỏi: - Bài toán cho biết gì? - Bài toán hỏi gì? Đó là cách đàm thoại cũ, chỉ được số ít học sinh trả lời, không phát huy tính tích cực trong học tập. Ta có thể chuyển đàm thoại bằng hình thức khác. Giáo viên nêu câu hỏi dưới dạng một lệnh làm việc: "Hãy gạch một gạch dưới những cái đã cho". Tất cả mọi học sinh đều phải đọc và suy nghĩ tìm ra xem đâu là cái đã cho để dùng bút gạch chân. "Hãy gạch hai gạch dưới câu hỏi của bài toán". Mọi học sinh đều phải tìm câu hỏi để gạch cho đúng. Như vậy học sinh cả lớp đều được làm việc và các em có thể tự giải, trình bày bài giải, hiệu quả giờ học sẽ cao hơn. IV./ Thực nghiệm 1- Tôi đã vận dụng dạy học sinh qua 2 tiết sau: * Bài giảng 1: Tiết 85: Giải toán có lời văn A./ Mục tiêu: - Giúp học sinh bước đầu nhận biết các việc thường làm khi giải toán có lời văn. Tìm hiểu bài toán - giải bài tóan. - Bước đầu tập cho học sinh tự giải bài toán. B./ Đồ dùng dạy học: - Giáo viên - học sinh: Sử dụng tranh trong SGK. C./ Các hoạt động dạy học 1- Hoạt động 1: Kiểm tra (3 - 5 phút) * Bảng con: Viết phép tính thích hợp: 2- Hoạt động 2: Bài mới (13 - 15 phút) + Giới thiệu cách giải và trình bày bài giải - Giáo viên treo bảng phụ: + Bài toán: Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà. a- Hướng dẫn tìm hiểu bài toán: - Học sinh đọc thầm bài toán 1: 2 em đọc - Bài toán cho biết gì? - Có 5 con gà, thêm 4 con gà - Bài toán hỏi gì? - Nhà An có tất cả mấy con gà? -> GV ghi tóm tắt: Có: 5 con gà Thêm: 4 con gà Có tất cả.... con gà? -> GV giải thích tóm tắt là cách ghi ngắn gọn bài toán. - Vài HS đọc lại tóm tắt. b- Hướng dẫn giải bài toán - Bài toán hỏi gì? - Nhà An có tất cả mấy con gà? - Muốn biết nhà An có tất cả bao nhiêu con gà em làm như thế nào? - Viết phép tính bảng con: 5 + 4 = 9 - Nhà An có tất cả mấy con gà? - Nhà An có 9 con gà c- Hướng dẫn trình bày bài giải: + Viết "bài giải" + Viết câu lời giải dựa vào câu hỏi (bỏ chữ hỏi mấy) thêm dấu: vào sau câu lời giải. - GV cho HS nêu câu trả lời khác. - HS nêu: + Nhà An có tất cả? + Nhà An có: + Số con gà nhà An có tất cả: - GV chọn câu trả lời thích hợp ghi lên bảng: . Nhà An có tất cả: + Viết phép tính: 5 + 4 = 9 (con gà) ở đây 9 chỉ 9 con gà nên viết (con gà ) trong ngoặc đơn. + Viết đáp số: 9 con gà Bây giờ từ " con gà " không viết trong ngoặc đơn. - HS đọc lại bài giải. - GV chỉ từng phần nhấn mạnh khi giải và trình bày 1 bài giải toán có lời văn có: "Bài giải - câu trả lời - phép tính - đáp số" + Lưu ý: hướng dẫn viết từng dòng sao cho cân đối với trang vở. Chữ đầu câu viết hoa. 3- Hoạt động 3: Thực hành (15 - 17 phút) + Bài 1: GV yêu cầu HS quan sát hình vẽ SGK và đọc bài toán. - Phần tóm tắt còn thiếu gì? - Thiếu số - Phần bài giải còn thiếu gì? - Phép tính, kết quả, số trong phần đáp số. - HS hoàn thiện tóm tắt - giải. - Đọc phần bài giải. Bài giải Cả hai bạn có: 4 + 3 = 7 (quả bóng) Đáp số: 7 quả bóng - Vì sao lấy 4 + 3 = - Vì bài toán yêu cầu tìm số bóng của 2 bạn. + Bài 2: - GV chấm - HS đọc bài toán, hoàn thiện tóm tắt, giải SGK. - Chữa bảng phụ. Bài giải Tổ em có tất cả: 6 + 3 = 9 (bạn) Đáp số: 9 bạn. - Nêu câu trả lời khác? - Số bạn tổ em có: => Chốt: Cách trình bày một bài giải toán có lời văn. + Bài 3: - HS làm tóm tắt bài 2. 4- Hoạt động 4: Củng cố (3 - 5 phút) - Bảng con: Giải bài toán theo tóm tắt sau: Có: 4 quả cam Thêm: 5 quả cam Có tất cả: quả cam Trình bày 1 bài giải toán thường có những gì? * Bài giảng 2: Tiết 112: Luyện tập chung A./ Mục tiêu: - Giúp học sinh rèn kỹ năng lập đề bài toán rồi tự giải và viết bài giải của bài toán. B./ Đồ dùng dạy học: Sử dụng tranh trong SGK. C./ Các hoạt động dạy học Giáo viên Học sinh Bài 1: a. Trên bến có........ ô tô, có thêm..... ô tô vào bến? Hỏi..........? - Bài 1 yêu cầu gì? - HS đọc thầm yêu cầu bài toán. - Nhìn tranh vẽ, viết tiếp vào chỗ chấm để có bài toán rồi giải bài toán đó. - Yêu cầu HS đọc bài toán và quan sát hình vẽ (đọc thầm.) - Bài toán đã hoàn chỉnh chưa? - Bài toán chưa hoàn chỉnh. - Bài toán còn thiếu gì? - Bài toán còn thiếu số và câu hỏi. - HS điền số và viết câu hỏi còn thiếu vào sách. - Gọi 1 số học sinh đọc bài toán. - Bài toán cho biết đã có........ thêm..... thì trong câu hỏi thường có từ gì? - Thường có từ "tất cả" - HS tự giải bài toán vào bảng con. - HS đọc bài giải: Bài giải Trên bến có tất cả: 5 + 2 = 7 (ô tô) Đáp số: 7 ô tô - Khuyến khích học sinh có câu trả lời khác. (Số ô tô có tất cả:) => Chốt: Đối với bài toán về thêm trong câu hỏi thường có chữ "tất cả" làm phép tính cộng. b. Bài toán: Lúc đầu trên cành có 6 con chim, có..... con bay đi. Hỏi........? - HS tự đọc bài toán, tự quan sát và làm vào sách. - GV kiểm tra chấm, chữa. - HS đọc bài toán hoàn chỉnh. - Vì sao trong câu hỏi lại có chữ "còn" - Vì bài toán cho biết có 2 con bay đi - Hướng dẫn học sinh trình bày bài vào vở. - GV kiểm tra - HS tự giải bài toán - HS chữa bảng phụ - đọc lại. => Chốt: Bài toán về bớt trong câu hỏi thường có chữ "còn". Làm phép tính trừ. Bài 2: Nhìn tranh vẽ nêu tóm tắt bài toán, rồi giải bài toán đó. - HS tự đọc yêu cầu. - Cho 1 - 2 em đọc lại yêu cầu. - HS quan sát hình vẽ rồi tự nêu tóm tắt bài toán. - Gọi 1 số em nêu tóm tắt Có: 8 con thỏ Chạy đi: 3 con thỏ Còn lại.... con thỏ? - Giáo viên cho học sinh nêu tóm tắt khác (mở rộng cho học sinh khá, giỏi) Đang chơi: 5 con thỏ Chạy đi: 3 con thỏ Có tất cả..... con thỏ? Có:..... - HS tự giải vào vở theo tóm tắt của mình - GV khuyến khích học sinh làm theo kiểu mở rộng. IV./ Củng cố (2 - 3 phút) - Nêu cách trình bày một bài giải toán có lời văn. - Nhận xét giờ học. Hai tiết thực nghiệm ở trên tôi tổ chức dạy học bằng sự kết hợp một số phương pháp như: phương pháp quan sát, phân tích, tổng hợp, gợi mở vấn đáp, luyện tập thực hành. 2- Kết quả thực nghiệm: Tiết 1: Giải toán có lời văn Dạy lớp 1A1 - Lớp đối chứng 1A2 Lớp Sĩ số Điểm 0 -> 4 5 -> 6 7 -> 8 9 -> 10 1A1 27 4 = 15% 8 = 30% 15 = 55% 1A2 27 1 = 3,7% 8 = 29,6% 8 = 29,6% 10 = 37% Tiết 2: Luyện tập chung Dạy lớp 1A1 - Lớp đối chứng 1A3 Lớp Sĩ số Điểm 0 -> 4 5 -> 6 7 -> 8 9 -> 10 1A1 27 2 = 8% 10 = 37% 15 = 55% 1A2 27 9 = 33% 8 = 30% 10 = 37% 3- Kết luận thực nghiệm: Qua thực nghiệm trên cho ta thấy những phương pháp dạy ở các tiết trên là phù hợp. Nội dung kiến thức đã nâng cao sự tư duy cho học sinh lớp 1 là vừa sức, hợp lý. V./ Bài học kinh nghiệm: Để đạt được kết quả như trên tôi đã rút ra một số kinh nghiệm sau: Mỗi giáo viên cần tự học hỏi, nghiên cứu để đổi mới cũng như phát huy tính sáng tạo khi dạy giải toán. Giáo viên hướng dẫn học sinh làm quen với tình huống mở ngay từ những bài đầu và cho học sinh luyện tập nhiều. Các em học sinh khi giải toán phải đọc kỹ bài, phân tích, tổng hợp để giải, thực hành luyện tập rèn luyện kỹ năng giải toán nhiều. Tự đặt ra nhiều bài toán dựa vào hình vẽ và nhiều câu lời giải khác nhau. Việc dạy giải các bài toán có lời văn cho học sinh lớp 1 là một thành công lớn giúp học sinh biết cách giải toán, biết suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo và linh hoạt trong việc học toán, gây hứng thú cho các em trong học tập. Việc giải được các bài toán có lời văn là nền tảng để các em học tốt các môn học khác, giúp các em biết cách giải quyết các vấn đề thường gặp trong cuộc sống. Tuy nhiên người giáo viên phải quan tâm thường xuyên, nắm bắt được các phương pháp giải toán, các dạng bài, phải đầu tư thời gian, tìm tòi nghiên cứu, phải say mê với công việc của mình, gần gũi với học sinh, để tìm ra những khó khăn thắc mắc và có biện pháp giải quyết kịp thời. Sự tỉ mỉ kiên trì của người giáo viên khi dạy giải các bài toán có lời văn là yếu tố quan trọng đảm bảo tiết học thành công. Trong nhà trường, để nâng cao chất lượng dạy giải các bài toán có lời văn, giáo viên cần phát huy và vận dụng thế mạnh của các phương pháp dạy học, phương pháp trực quan và phương pháp luyện tập thực hành là hai phương pháp chủ yếu rất cần thiết trong giải toán. Trên đây là một số kinh nghiệm khi dạy giải các bài toán có lời văn cho học sinh lớp 1. Tôi mong Ban giám khảo cùng các bạn đồng nghiệp xem và cho ý kiến giúp tôi thực hiện việc dạy giải các bài toán cho học sinh lớp 1 đạt hiệu quả tốt hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn.!

File đính kèm:

  • docChuyen de day giai toan 1.doc