Toán học là môn khoa học tự¬ nhiên gây nhiều hứng thú cho học sinh, nó là môn học rất quan trọng không thể thiếu trong quá trình học tập, nghiên cứu và cả cuộc sống hàng ngày. Một nhà toán học và sư¬ phạm nổi tiếng đã nói: “Toán học đư¬ợc xem là một khoa học chứng minh”.
Như¬ng đó chỉ là một khía cạnh, toán học phải đư¬ợc trình bày dư¬ới hình thức hoàn chỉnh. Muốn vậy ngư¬ời học phải nắm vững các kiến thức toán học từ thấp đến cao, phải học toán thư¬ờng xuyên liên tục, biết quan sát , dự đoán phối hợp và sáng tạo, phải tự lực tiếp thu kiến thức qua hoạt động đích thực của bản thân.
Ngày nay học sinh luôn đư¬ợc tiếp cận với nhiều kiến thức khoa học tiên tiến, với nhiều môn học mới lại đầy hấp dẫn nhằm hoàn thiện và bắt kịp công cuộc đổi mới, phát triển toàn diện của đất nư¬ớc. Trong các môn học ở trư¬ờng phổ thông, toán học đư¬ợc xem là môn học cơ bản, là nền tảng để các em phát huy năng lực của bản thân trong việc tiếp thu và học tập các môn khoa học khác. Tuy nhiên để học sinh học tập tốt môn toán thì giáo viên phải cung cấp đầy đủ l¬ượng kiến thức cần thiết, cần đổi mới các phư¬ơng pháp dạy học, làm cho các em trở nên yêu thích toán học hơn, vì có yêu thích mới dành nhiều thời gian để học toán. Từ đó các em tự ý thức trong học tập và phân bổ thời gian hợp lý đảm bảo yêu cầu học tập của thời đại mới.
18 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 7570 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Hướng dẫn học sinh học và làm bài tập ở nhà, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
I. Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài.
3
2. Mục đích nghiên cứu
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
5
4. Thời gian và phương pháp nghiên cứu
6
II. Phần giải quyết vấn đề.
1. Cơ sở lý luận của vấn đề.
7
2. Thực trạng của vấn đề.
7
3. Các biện pháp giải quyết.
9
4. Hiệu quả
14
III. Phần kết luận.
1. Ý nghĩa
15
2. Đánh giá việc áp dụng và khả năng phát triển
15
3. Bài học kinh nghiệm
15
4. Đề xuất và kiến nghị
16
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
THCS
Trung học cơ sở
SKKN
Sáng kiến kinh nghiệm
SGK
Sách giáo khoa
TSHS
Tổng số học sinh
TS
Tổng số
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Toán học là môn khoa học tự nhiên gây nhiều hứng thú cho học sinh, nó là môn học rất quan trọng không thể thiếu trong quá trình học tập, nghiên cứu và cả cuộc sống hàng ngày. Một nhà toán học và sư phạm nổi tiếng đã nói: “Toán học được xem là một khoa học chứng minh”.
Nhưng đó chỉ là một khía cạnh, toán học phải được trình bày dưới hình thức hoàn chỉnh. Muốn vậy người học phải nắm vững các kiến thức toán học từ thấp đến cao, phải học toán thường xuyên liên tục, biết quan sát , dự đoán phối hợp và sáng tạo, phải tự lực tiếp thu kiến thức qua hoạt động đích thực của bản thân.
Ngày nay học sinh luôn được tiếp cận với nhiều kiến thức khoa học tiên tiến, với nhiều môn học mới lại đầy hấp dẫn nhằm hoàn thiện và bắt kịp công cuộc đổi mới, phát triển toàn diện của đất nước. Trong các môn học ở trường phổ thông, toán học được xem là môn học cơ bản, là nền tảng để các em phát huy năng lực của bản thân trong việc tiếp thu và học tập các môn khoa học khác. Tuy nhiên để học sinh học tập tốt môn toán thì giáo viên phải cung cấp đầy đủ lượng kiến thức cần thiết, cần đổi mới các phương pháp dạy học, làm cho các em trở nên yêu thích toán học hơn, vì có yêu thích mới dành nhiều thời gian để học toán. Từ đó các em tự ý thức trong học tập và phân bổ thời gian hợp lý đảm bảo yêu cầu học tập của thời đại mới.
Muốn đạt kết quả cao trong học tập môn toán, ngoài sự tập trung chú ý trong nghe giảng, tích cực phát biểu ý kiến, học sinh còn cần phải chăm chỉ học bài và làm bài ở nhà.
Ông cha ta có câu “văn ôn , võ luyện” hay Bác Hồ đã dạy “học phải đi đôi với hành” . Nếu ta chỉ học tập trên lớp mà không ôn bài, không vận dụng kiến thức đã học để giải bài tập cũng như liên hệ với thực tiễn cuộc sống thì trước hết là tư duy kém phát triển ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách con người . Vì rằng như ĐêCác và Leibnitz đã nói “ Giải toán là một nghệ thuật thực hành giống như bơi lội, trượt tuyết hay chơi đàn. Có thể học được nghệ thuật đó, chỉ cần bắt chước theo những mẫu mực đúng đắn và thường xuyên thực hành. Không có chìa khoá nào thần kì để mở mọi cửa ngõ, không có hòn đá thần kì để biến mọi kim loại thành vàng”.
Do đó vấn đề học bài và làm bài tập ở nhà trở thành vô cùng quan trọng đối với tất cả học sinh. Hiện nay, do thay đổi chương trình và phương pháp giảng dạy nên vấn đề học bài và làm bài tập ở nhà cần phải đặt lên vị trí hàng đầu. Vấn đề này trở thành một chuyên mục mà nhiều thầy cô giáo phải quan tâm. Nhưng học bài và làm bài tập ở nhà như thế nào cho đạt được kết quả cao trong học tập lại là một việc làm không đơn giản. Bởi vì nó là một vấn đề trọng tâm mang tính chất tổng hợp lại phụ thuộc nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan. Không thể áp dụng máy móc cho tất cả các bài học, bài tập hay các đối tượng mà phải linh hoạt, uyển chuyển theo nội dung kiến thức cần truyền thụ, theo trọng tâm yêu cầu của từng bài giảng để phù hợp với cách học nhằm đạt hiệu quả tốt nhất.
2 . MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Từ những lý do trên , chính vì vậy tôi đã chọn đề tài “ Hướng dẫn học sinh học và làm bài tập ở nhà ” này nhằm mục đích hướng dẫn học sinh biết cách học bài làm bài, đồng thời để nâng cao chất lượng các tiết toán lớp 6 ở trường THCS . Nhằm tạo cho học sinh có thói quen học tập ở nhà và tự tìm được cho mình một phương pháp học tập tốt nhất cho bản thân
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay , sự nghiệp giáo dục nói chung , giáo dục THCS đang đứng trước những yêu cầu mới cũng như thách thức mới thì sự hiểu biết về kiến thức văn hoá , việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ , người giáo viên phải tìm ra những phương pháp giảng dạy phù hợp đối với đối tượng học sinh . Là giáo viên dạy tôi thấy hầu hết các em học sinh còn bỡ ngỡ với phương pháp học tập ở cấp THCS. Để các em có thói quen, biết phương pháp học tập và hứng thú học, vả lại để nâng cao chất lượng học tập của học sinh lớp 6 nên tôi mạnh dạn nghiên cứu và đưa ra một vài kinh nghiệm nhỏ để hướng dẫn học sinh học và làm bài tập ở nhà để các em biết cách học và hứng thú học hơn, để phù hợp với học sinh trường THCS Huy Hạ.
Qua quá trình thể nghiệm đề tài bản thân tôi cũng đã thu được một số kết quả khả quan, các em học sinh đã biết cách học, chất lượng học tập được nâng lên tỷ lệ học sinh khá giỏi tăng lên rõ rệt .
3 . ĐỐI TƯỢNG VÀ PHAM VI NGHIÊN CỨU.
- Phạm vi : Đề tài được thực hiện trong phạm vi 2 lớp học ( lớp 6A và lớp 6B ) của trường THCS Huy Hạ - Phù Yên - Tỉnh Sơn La.
- Nghiên cứu đối tượng : Học sinh thông qua điều tra cơ bản giờ học trên lớp và việc làm bài tập ở nhà của học sinh. kết quả như sau :
Cụ thể qua điều tra ban đầu :
Lớp
TS
HS
Giỏi
Khá
T b
Yếu
Kém
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
6A
29
0
0
3
10
16
0
0
6B
30
0
0
4
13
13
0
0
59
0
0
7
23
29
0
0
Tổng số học sinh 2 lớp : 59 em trong đó 28 nam , 31 nữ
Dân tộc kinh : 0
Dân tộc Thiểu số : 59
Con thương binh : 0
Số có sách giáo khoa : 50
Số có sách bài tập : 50
HS có hoàn cảnh đặc biệt : 04
4. THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Thời gian nghiên cứu sáng kiến : 2010 - 2011
- Các phương pháp:
Phương pháp thuyết trình (Hướng dẫn)
Phương pháp thực nghiệm.
Phương pháp trò chuyện.
II. PHẦN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
(Nội dung sáng kiến kinh nghiệm)
1. Cơ sở lý luận của vấn đề.
- Khối lớp 6 có số lượng học sinh không đồng đều về nhận thức gây khó khăn cho giáo viên trong việc lựa chọn phương pháp phù hợp. Nhiều học sinh có hoàn cảnh khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần do đó việc đầu tư về thời gian và sách vở cho học tập bị hạn chế nhiều và ảnh hưởng không nhỏ đến sự nhận thức và phát triển của các em.
- Sau khi nhận lớp và dạy một thời gian tôi đã tiến hành điều tra cơ bản tại hai lớp thì thấy:
+ Lớp 6A: Số em lười học bài, lười làm bài tập chiếm khoảng 85%; số học sinh nắm chắc kiến thức và biết vận dụng vào bài tập, biết phối hợp các kiến thức, kỹ năng để học toán chiếm có khoảng 15%,
+ Lớp 6B: Số em lười học và lười làm bài tập chiếm khoảng 75% ; số em nắm chắc kiến thức và biết vận dụng, biết phối hợp các kiến thức kỹ năng để học toán chiếm khoảng 25%.
2. Thực trạng của vấn đề.
Đa số học sinh hay thoả mãn trong học tập, các em cho rằng các kiến thức được trình bày trong sách giáo khoa là kết tinh của các nhà toán học đó là những kiến thức đầy đủ nhất và chỉ cần học thuộc lòng nó để vận dụng vào làm các bài tập là xong. Chính vì vậy học sinh tiếp thu một cách thụ động, không cần suy nghĩ mày mò để tự mình khám phá ra kiến thức mới như một khái niệm, một định lý hay một tính chất nào đó...và những kiến thức đó không ăn sâu vào trí óc của học sinh, làm cho học sinh quen khi vận dụng vào làm các bài tập .
Nguyên nhân:
- Các em chưa có ý thức tự giác trong học tập , chưa có kế hoạch về thời gian hợp lý khi tự học ở nhà.
- Còn ham chơi, học còn mang tính chất để lấy điểm, chưa nắm vững hiểu sâu kiến thức toán học, không tự ôn luyện một cách thường xuyên có hệ thống.
- Trong lớp chưa thật tập trung chú ý vào bài giảng của thầy cô chưa chịu đào sâu suy nghĩ để phát triển ra các kiến thức mới.
- Chưa biết sử dụng đúng sách giáo khoa, sách nâng cao vừa sức, còn hiện tượng dấu dốt không chịu học hỏi bạn bè.
3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề.
Để khắc phục những tình trạng trên nhằm nâng cao chất lượng cho học sinh và làm cho học sinh yêu thích môn toán hơn. Tôi đã tiến hành các biện pháp giáo dục dưới đây:
A. Tự học, tự rèn luyện và tự giác trong học tập
Ai cũng biết rằng “ăn để mà sống, mà tồn tại” và không ai có thể “ăn thay” được. Muốn tồn tại, muốn sống và phát triển thì bản thân con người trước hết phải “tự ăn” – “có thực mới vực được đạo”. Và rằng ai cũng hiểu muốn có trí thức thì mỗi con người đều phải tự học , tự rèn luyện không ai có thể học thay được cho mình, mà phải tự lao động để kiếm sống. Trong cuộc đời, bố mẹ, thầy cô giáo không thể nắm tay dẫn dắt, che chở cho các em mãi được. Do đó vai trò tự học tự rèn luyện giải bài tập là yếu tố cơ bản nhất quyết định thắng lợi. Mỗi thành công là 99% mồ hôi và nước mắt, chỉ còn lại 1% là bẩm sinh.
Hướng dẫn học sinh học bài và làm bài tập ở nhà trước hết cần phải xác định cho các em ý thức học tập tự giác. Cụ thể học tập vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ; vừa là học vừa cũng là chơi vì chơi để mà học, học để mà chơi. Không câu nệ, gò bó các em, bắt các em phải học nhiều bằng cách ra nhiều câu hỏi và bài tập. Chỉ nên ra những câu hỏi trọng tâm, bài tập đơn giản dễ hiểu, dễ nhớ đáp ứng với yêu cầu nội dung bài giảng là đủ. Như vậy tự học ở nhà, rèn luyện cho các em thói quen độc lập suy nghĩ, không lùi bước trước những câu hỏi khó, bài tập khó.
B. Tinh thần vượt khó hăng say hứng thú trong học và làm bài:
Trước hết phải đề cao tinh thần ý chí vượt khó khăn, say sưa yêu thích môn. Học toán quả thật không phải chuyện dễ. Bởi vì toán học đòi hỏi tư duy lập luận logic chính xác, chặt chẽ. Kết quả lại phải đúng với thực tế, yêu cầu cường độ học tập cũng như thời gian nhiều hơn so với các môn khác. Nếu không có tinh thần vượt khó thì không thể hoàn thành nhiệm vụ.
Một khái niệm, một định nghĩa, công thức, định lí, ….chưa hiểu hay một bài toán chưa giải được có thể làm cho em chán nản, thiếu tự tin rồi đi đến nản chí và không muốn học môn toán. Hễ có giờ toán là các em lo sợ. Các thầy cô giáo phải hiểu tâm lí học toán của học sinh để khắc phục nhược điểm “sợ học môn toán”. Mặt khác kiến thức toán học thực sự có mối liên hệ móc xích, hữu cơ xuyên suốt trong chương trình toán học ở tất cả các lớp. Không hiểu kiến thức cơ bản ở lớp dưới thì khó có thể lĩnh hội các kiến thức ở lớp cao hơn. Thông thường các em chưa thực sự thành thạo kĩ năng thực hiện các phép tính nên ảnh hưởng tới tiếp thu bài mới, đó là chưa nói đến việc giải các bài tập. Từ đó đâm ra ngại khó, lười học, lười suy nghĩ, và sẽ không hứng thú học toán. Nhưng ở đời cũng không thiếu những ví dụ về những cái lúc đầu thì sợ, dần dần bớt sợ, đi đến làm quen, cuối cùng là thích là say mê. Khi đã bắt đầu yêu thích toán rồi thì sẽ tự giác học tập, say sưa học tập, nhưng cuối cùng học tập đạt kết quả cao, thì phải thường xuyên rèn luyện phương pháp học tập. Tất cả mọi công việc, không có lòng đam mê, hăng say và chịu khó thì không thể thành công. Công việc học toán cũng vậy. Do đó phải biết khơi dậy tinh thần sáng tạo, ý chí nghị lực phi thường của lớp trẻ, khích lệ các em hăng say trong môn học bằng cách ra bài tập và đặt câu hỏi từ dễ đến khó, khuyến khích cho điểm để các em phấn khởi. Cố gắng liên hệ các câu hỏi, bài tập thực tế, rút ra cái hay cái đẹp của toán học (có thể có) trong bài học để tạo nguồn cảm hứng, say sưa học tập môn toán.
C. Cách học bài ở nhà:
Trước hết học sinh cần phải có phong cách khoa học trong học tập, tự rèn luyện cho mình các thói quen tốt sau đây:
-Thói quen tập trung chú ý: nếu khi học các em biết tập trung chú ý thì hiệu suất học tập sẽ cao hơn, tránh vừa học vừa xem ti vi, vừa nghe nhạc…
a) Thói quen làm việc theo thời gian biểu:
Là học sinh biết tập cho mình tự lên thời gian biểu cho từng ngày, từng tuần, từng tháng… việc lên thời gian biểu như thế giúp các em hình dung được các công việc phải làm và có phương án cụ thể điều chỉnh hợp lí khi cần thiết, phải tập được thói quen giờ nào việc ấy. Việc hôm nay không để đến ngày mai.
b) Thói quen “xào bài”
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh xào bài khi học bài ở nhà theo trình tự:
+ Những kiến thức thu nhận được ở lớp cần phải được tái diễn trong bộ nhớ bằng cách hồi tưởng lại những gì nghe thấy. Học sinh cần 9, 10 phút để hình dung lại toàn bộ nội dung bài giảng.
+ Sau đó ghi nhận những điều cơ bản trọng tâm của bài và tự làm lại các ví dụ mà giáo viên đã đưa ra minh hoạ, thực tế cho thấy nhiều học sinh về nhà không tự ghi lại kiến thức đã nghe, đã hiểu, do đó sau một thời gian lượng kiến thức bị mai một dần, dẫn tới bị rỗng kiến thức. Khi xào bài hầu hết những bài giảng trên lớp được học sinh hồi tưởng lại lần hai góp phần hiểu và nhớ thêm một lần nữa, do mới học xong nên nhớ được hầu hết các nội dung bài giảng trên lớp giúp học sinh thuộc nhanh hơn, từ đó không tốn thời gian . Sau khi xào bài học sinh có thể tự mình đưa ra những ý kiến, nhận xét của bản thân đúng hay sai? Cần kiểm tra đối chiếu với sách giáo khoa, sách bài tập hay tài liệu tham khảo nếu chỗ nào chưa hiểu thì ghi lại hỏi thầy hỏi bạn. Cuối cùng ghi lại vào sổ tay toán học cho riêng mình.
c) Thói quen đọc sách giáo khoa, và nghiên cứu sách giáo khoa trước khi đến lớp.
Để chủ động trong học tập, học sinh nên bớt chút thời gian đọc trước nội dung sắp học, sơ bộ nắm được ý chính, cơ bản đến khi học, học sinh chủ động hơn khi tham gia chiếm lĩnh kiến thức ở trên lớp.
D. Cách làm bài tập:
Để giải bài tập toán ở nhà, trước hết ta cần đọc kĩ đề bài, phân tích và xác định bài tập cần sử dụng định lí nào, công thức hay khái niệm gì? Đồng thời có thuộc kiểu dạng nào, giống hay không giống các bài tập đã học, hay ví dụ trong bài giảng trên lớp. Từ những kiến thức đã lĩnh hội, ta mới áp dụng để đưa ra quyết định giải pháp cụ thể đối với bài tập đã cho. Với những bài toán khó quá, không giải được ta cần đọc thêm sách tham khảo, hỏi bạn bè, thầy cô giáo để tìm hướng giải quyết, không nên chép lời giải của sách giáo khoa, hay cách làm của ai đó mà phải tự mình nghiên cứu suy nghĩ phát hiện cách giải của bài toán. Sau khi giải xong đặt câu hỏi xem có cách nào khác hay hơn, ngắn gọn hơn cách đã giải, đồng thời thử đề xuất một bài toán tương tự như bài tập đã làm. Cuối cùng ghi cách giải hay, độc đáo vào sổ tay toán học riêng của mình.
E. Hướng dẫn học sinh học bài và làm bài tập ở nhà:
Cụ thể đối với bài học “Tập hợp – Phần tử của tập hợp” sách giáo khoa toán 6 tập một.
Khi xào bài các em nhớ đọc lại để nhớ kĩ lí thuyết, tức là phải nắm được: tập hợp, kí hiệu tập hợp, nhận biết phần tử thuộc hay không thuộc tập hợp; số lượng phần tử của tập hợp, sau đó vận dụng vào làm bài tập được giáo viên ra về nhà dưới hình thức “phiếu học tập”.
Phiếu học tập
Câu 1: Hãy cho một ví dụ về tập hợp. Hãy cho một ví dụ về tập hợp số.
Câu 2: Cho biết số phần tử của mỗi tập hợp ở câu trên. Khi đó, chỉ ra một phần tử không thuộc tập hợp đó.
Câu 3: Cho biết cách viết tập hợp, có thể viết tập hợp đã chỉ ra ở câu trên theo những cách nào? Hãy minh hoạ.
Câu 4: Làm bài tập 1, trang 6 SGK.
Câu 5: Bạn Bình nói : Tập hợp các chữ cái có mặt trong từ “Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là: .Theo em bạn Bình nói đúng hay sai? Tại sao?
Câu 6: Làm bài tập 3, trang 6 SGK
Câu 7: Làm bài tập 4, trang 6 SGK
Câu 8: Làm bài tập 5, trang 6 SGK.
Câu 9: Nối mỗi dòng ở cột bên trái với mỗi dòng ở cột bên phải trong bảng sau, để được khẳng định đúng
1.Tập hợp còn có các cách viết khác là
a) {1; 2; 3; 4; 5; 6}
2. Tập hợp còn có cách viết khác là
b) {0; 1; 2; 3; 4; 5}
3. Tập hợp còn có cách viết khác là
c){ 2; 3; 4; 5; 6}
4. Tập hợp còn có cách viết khác là
d) {0; 2; 4; 6; 8 }
Câu 10: Cho hai tập hợp: A = {2; 3; 4; 5; 6}
B = {0; 2; 4; 6}
Điền dấu “x” vào ô trong bảng sau, sao cho câu trả lời là đúng:
Câu
Đúng Đúng
Sai
1. Số 2 không thuộc cả hai tập hợp đã cho
2. Số 6 thuộc tập hợp A và số 6 cũng thuộc tập hợp B
3. Các số 2, 4, 6 đồng thời thuộc hai tập hợp đã cho
4. Số 3 chỉ thuộc tập hợp A mà không thuộc tập hợp B
5. Không có số nào thuộc tập hợp B mà không thuộc tập hợp A
6. Số 0 thuộc tập hợp B, còn số 5 không thuộc tập hợp A
4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm.:
Với phương pháp thực hiện như trên học sinh được tự tìm ra kiến thức cần biết một cách độc lập tích cực. Do đó học sinh hứng thú, hiểu bài sâu sắc từ đó vận dụng tốt. Qua dạy đối chứng và kiểm nghiệm bằng kiểm tra trắc nghiệm tôi thấy chất lượng học tập được nâng lên một cách rõ rệt. Số học sinh yêu thích toán ngày càng nhiều hơn. Từ đó các em có kế hoạch học hỏi thêm ở SGK, ở bạn bè, phát huy duy trì niềm say mê học toán của các em. Học sinh đã biết tự củng cố, ôn luyện các kiến thức bài tập, biết phối hợp các kiến thức đã học vào bài tập.
Cụ thể qua khảo sát :
Lớp
TS
Giỏi
Khá
Tb
Yếu
Kém
HS
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
6A
6B
+
29
30
59
0
0
2
0
0
0
8
10
16
16
15
31
5
5
10
0
0
0
0
0
0
III. PHẦN KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa.
Xây dựng và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm là một hoạt động bổ ích trong nhà trường, nó có tác dụng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên, rèn luyện kĩ năng học tập cho học sinh. Đối với SKKN “Hướng dẫn học sinh học và làm bài tập ở nhà ”, khi thực hiện đã góp phần tạo cho học sinh sự hứng thú học hình, học sinh có ý thức hơn trong việc học và làm bài tập ở nhà, nhiều em có hứng thú học tập hơn, biết vận dụng lý thuyết vào làm bài tập hơn, có thói quen học tập toán từ đó góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn toán nói riêng và chất lượng hai mặt giáo dục của học sinh trong trường nói chung, đẩy mạnh chất lượng giáo dục của toàn xã hội.
2. Đánh giá việc áp dụng và khả năng phát triển của sáng kiến kinh nghiệm.
Cùng với việc áp dụng và thể nghiệm SKKN tôi nghĩ rằng việc rèn luyện cho học sinh có thói quen học và làm bài tập ở nhà là cả một quá trình và cần có thời gian để thực nghiệm, với kết quả bước đầu như vậy cúng là một điều đáng mừng, song không thể dừng lại ở đó mà cần phải tiếp tục nghiên cứu, bổ xung, điều chỉnh phù hợp với đối tượng học sinh trong những năm tới cho khối lớp 7, 8, 9 để học sinh luôn có thói quên học và làm bài tập trước khi đến lớp, qua đó nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học.
3. Bài học kinh nghiệm.
a) Đối với ngời thầy:
- Phải nỗ lực vượt khó, phải nắm vững kiến thức trọng tâm để có đủ năng lực xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập dẫn dắt một cách khoa học.
- Phải nắm vững một số kỹ thuật để soạn bài và dạy theo con đường trực quan phân tích.
- Người thầy phải nắm bắt kịp thời theo yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy nhất là ở giai đoạn đổi mới phương pháp dạy học.
- Tham khảo các tài liệu có liên quan đến bài giảng, thường xuyên củng cố và nâng cao chuyên môn nghiệp vụ.
- Giảng dạy phải tường minh, chính xác các kiến thức cơ bản của toán học. Nghiên cứu kỹ chính xác được rõ mục tiêu của từng bài để xây dựng phương pháp giảng dạy cho phù hợp.
- Khuyến khích động viên học sinh, khen chê kịp thời, đúng lúc. Chú ý giúp và phân công học sinh khá giúp đỡ các em có học lực trung bình, yếu nắm được kiến thức cơ bản, mở rộng kiến thức cho học sinh khá giỏi.
b) Đối với trò:
- Học sinh phải thật sự nỗ lực, kiên trì, vượt khó và phải thực sự hoạt động trí óc, phải có óc phân tích một bài toán, biết nắm vững đặc thù của các bài toán để có thể đa bài toán về dạng quen thuộc đã biết cách giải.
- Phải cần cù chịu khó, ham học hỏi, sử dụng sách tham khảo vừa sức, hiệu quả.
- Học đi đôi với hành để củng cố khắc sâu kiến thức cơ bản của toán học.
c) Học bài và làm bài tập ở nhà phải có tinh thần tự lực tự cường đồng thời phải thấy được đó là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi học sinh. Bởi vì công việc này không ai có thể học thay, làm thay được. Do đó muốn đạt kết quả cao trong học tập thì ai cũng phải làm bài tập. Nếu chăm chỉ học tập cùng với sự giúp đỡ, hướng dẫn của thầy cô giáo và bạn bè thì chắc chắn rằng các em sẽ học hành tiến bộ.
Nếu có sự tiến bộ trong học tập thì đó là động lực thúc đẩy tinh thần phấn khởi say mê, ham thích học toán và có lòng đam mê, tình yêu toán học nghĩa là “Cái gì thuộc về con người thì không xa lạ đối với tôi”.
4. Kiến nghị và đề xuất.
- Đề nghị nhà trường xem xét ghi nhận kết quả nghiên cứu của SKKN.
- Nhân rộng thực hiện SKKN cho các lớp 7, 8, 9.
- Làm tôt mối liên hệ giữa ba môi trường giáo dục: Gia đình, nhà trường, xã hội để cùng giáo dục học sinh cả về tri thức và đạo đức.
- Tổ chức nhiều sân chơi học tập vui và bổ ích để học sinh hứng thú hơn khi đến trường.
Cuối cùng tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, cảm ơn các đồng chí trong tổ Tự nhiên Trường THCS Huy Hạ đã giúp tôi hoàn thành SKKN này, có thể SKKN chưa thật sâu sắc và hiệu quả song rất mong được sự góp ý kiến của các đồng nghiệp .
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Xác nhận của nhà trường Người thực hiện
Lê Tiến Ngân
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn toán ở trường THCS.
Sách hướng dẫn giảng dạy môn toán lớp 6
Sách giáo khoa toán 6
Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên môn toán chu kỳ 2004-2007
File đính kèm:
- Sang kien kinh nghiem Toan 6.doc