Trong nhà trường tiểu học, mỗi môn học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu quan trọng của nhân cách con người Vệt Nam. Trong đó môn Toán giữ vai trò quan trọng, thời gian dành cho việc học Toán chiếm tỉ lệ khá cao. Thực tế những năm gần đây, việc dạy học Toán trong các nhà trường tiểu học đã có những bước cải tiến về phương pháp, nội dung và hình thức dạy học.
Cùng với các môn học khác như: Tiếng Việt, Đạo đức, TNXH, . Môn toán cũng có một vị trí rất quan trọng cho việc hình thành nhân cách cho học sinh, vì môn toán là một môn học mang tính khoa học, nghiên cứu một số mặt của thế giới hiện thực và cũng qua môn toán mỗi học sinh tiểu học được trang bị một hệ thống kiến thức cơ bản về nhận thức, điều đó rất cần thiết cho đời sống sinh hoạt và lao động. Bên cạnh đó học sinh tiểu học qua việc học toán sẽ phát huy tốt trí tưởng tượng, các kĩ năng, kĩ xảo về tính toán, có tính chính xác cao. Qua môn toán giúp các em cảm thụ tốt kiến thức của các môn học khác. Cũng qua môn toán, trong suốt cấp học, các em cũng tích luỹ được những kinh nghiệm để tiếp tục nhận thức thế giới xung quanh, áp dụng một cách thành thạo, chính xác kiến thức đã được trang bị vào trong thực tiễn cuộc sống, cũng như sự sáng tạo trong hoạt động học tập của các cấp học cao hơn.
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 14442 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
PHẦN I : MỞ ĐẦU
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong nhà trường tiểu học, mỗi môn học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu quan trọng của nhân cách con người Vệt Nam. Trong đó môn Toán giữ vai trò quan trọng, thời gian dành cho việc học Toán chiếm tỉ lệ khá cao. Thực tế những năm gần đây, việc dạy học Toán trong các nhà trường tiểu học đã có những bước cải tiến về phương pháp, nội dung và hình thức dạy học.
Cùng với các môn học khác như: Tiếng Việt, Đạo đức, TNXH, ... Môn toán cũng có một vị trí rất quan trọng cho việc hình thành nhân cách cho học sinh, vì môn toán là một môn học mang tính khoa học, nghiên cứu một số mặt của thế giới hiện thực và cũng qua môn toán mỗi học sinh tiểu học được trang bị một hệ thống kiến thức cơ bản về nhận thức, điều đó rất cần thiết cho đời sống sinh hoạt và lao động. Bên cạnh đó học sinh tiểu học qua việc học toán sẽ phát huy tốt trí tưởng tượng, các kĩ năng, kĩ xảo về tính toán, có tính chính xác cao. Qua môn toán giúp các em cảm thụ tốt kiến thức của các môn học khác. Cũng qua môn toán, trong suốt cấp học, các em cũng tích luỹ được những kinh nghiệm để tiếp tục nhận thức thế giới xung quanh, áp dụng một cách thành thạo, chính xác kiến thức đã được trang bị vào trong thực tiễn cuộc sống, cũng như sự sáng tạo trong hoạt động học tập của các cấp học cao hơn.
Chúng ta biết rằng, hoạt động cơ bản của người học toán, làm toán là giải toán. Việc giải bài toán có tầm quan trọng lớn và từ lâu đã là một trong những vấn đề trung tâm của phương pháp dạy học toán. Đối với học sinh tiểu học, có thể coi việc giải toán là một hình thức chủ yếu của việc học toán. Việc dạy giải các bài toán cho học sinh là một trong những nhiệm vụ quan trọng và quyết định trong việc học toán của các em.
Từ trước đến nay, giải toán đã trở thành hoạt động trí tuệ sáng tạo, hấp dẫn đối với nhiều học sinh và thầy giáo trong trường phổ thông nói chung và trường tiểu học nói riêng. Vấn đề cốt lõi để giải được bài toán là nhận dạng bài toán, hiểu và tóm tắt được bài toán, lựa chọn được phương pháp thích hợp để giải bài toán. Do đó đòi hỏi học sinh phải được trang bị kiến thức cũng như kỹ năng vận dụng các phương pháp giải toán.
Như chúng ta đã biết, căn cứ vào sự phát triển tâm, sinh lí của học sinh Tiểu học mà cấu trúc nội dung môn Toán rất phù hợp với từng giai đoạn phát triển của học sinh. Ở lớp 3, các em được học các kiến thức, kĩ năng ở thời điểm kết thúc của giai đoạn 1, chuẩn bị học tiếp giai đoạn sau, cho nên các em phải nắm được chắc tất cả các cơ sở ban đầu về giải toán nói riêng, tất cả các kĩ năng khác nói chung. Đặc biệt, ở lớp 3 sang học kì II, các em bắt đầu được làm quen với các dạng toán hợp cơ bản, trong đó có dạng toán liên quan đến rút về đơn vị. Dạng toán này có rất nhiều ứng dụng trong thực tế, nó đòi hỏi các em phải có kĩ năng giải toán tốt, kĩ năng ứng dụng thực tế trong cuộc sống. Sau khi dạy giải toán ở lớp 3 hai năm liền, tôi thấy các em nắm được kĩ năng giải toán của giáo viên truyền đạt tới như là một văn bản của lí thuyết, còn nó có ứng dụng vào thực tế như thế nào đó thì chưa cần biết. Đó là điều băn khoăn, suy nghĩ cho chúng ta. Có những bài toán các em làm xong, không cần thử lại, không cần xem thực tế áp dụng trong thực tế như thế nào, cứ để kết quả như vậy mặc dù có thể sai. Đó là những tác hại lớn khi học toán. Xuất phát từ tình hình thực tế học sinh như vậy, tôi mong muốn có những sáng kiến về phương pháp giúp các em giải toán dạng toán có liên quan đến rút về đơn vị ở lớp 3. đến thời điểm này, tôi đã nghiên cứu xong, sau đây tôi sẽ trình bày để các đồng chí đóng góp ý kiến với đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị”.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Dựa trên thực trạng dạy và học môn Toán ở lớp 3 nói chung, dạy học sinh giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị nói riêng, tôi muốn đưa ra một số ý kiến đổi mới để giúp các em nắm chắc cách giải dạng toán này một cách sâu sắc, tránh bị nhầm lẫn, giúp các em nắm vững bài học và yêu thích môn Toán hơn. Từ đó các em có vốn kĩ năng tính toán chính xác ở những lúc cần thiết trong cuộc sống, tránh được những sai sót có thể xảy ra. Tạo cho các em tác phong học tập và làm việc có suy nghĩ, có kế hoạch, có kiểm tra, có tinh thần hợp tác, độc lập và sáng tạo, có ý chí vượt khó khăn, cẩn thận, kiên trì, tự tin.
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Để làm rõ được mục đích tôi đã nói ở trên, tôi đã thấy đối tượng nghiên cứu là học sinh ở lớp 3 Trường Tiểu học Trung Mỹ - Bình Xuyên - Vĩnh Phúc trong hai năm học gần đây nhất đó là 2010-2011và năm học 2011-2012. Tôi đã thực nghiệm nghiên cứu trên tất cả các đối tượng học sinh lớp 3, lấy kết quả đối chứng trong từng giai đoạn của hai năm sau khi dạy dạng toán này.
NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Xuất phát từ tình hình thực tế, để các em nắm vững được phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị, tôi lần lượt nghiên cứu phương pháp dạy giải dạng toán này theo kiểu bài ứng với từng bước sau:
Bước 1: Giúp các em nắm chắc phương pháp chung để giải các bài toán.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị bằng phép tính chia, nhân.
Bước 3: Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị bằng hai phép chia.
Bước 4: Luyện tập, so sánh cách giải và củng cố kiến thức cho học sinh.
Để giải quyết được nhiệm vụ trên, tôi bám sát vào các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học toán ở Tiểu học nói chung, ở lớp 3 nói riêng sao cho phù hợp đặc điểm tâm sinh lí và nhận thức của học sinh, giúp các em có hứng thú tốt khi học toán, tạo không khí học tập sôi nổi, chất lượng.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Khi tiến hành nghiên cứu, tôi thường sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp nghiên cứu, lí luận
Đọc các tài liệu cần thiết.
Tìm hiểu sách giáo khoa, sách giáo viên, chương trình liệu bồi dưỡng giáo viên, sách tham khảo.
2. Phương pháp điều tra quan sát
Tìm hiểu, phỏng vấn giáo viên.
Điều tra học sinh, các loại vở bài tập.
3. Phương pháp kiểm tra, thống kê kết quả
Kiểm tra chất lượng qua mỗi giai đoạn.
Thống kê kết quả ở từng giai đoạn.
4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Giáo viên rút kinh nghiệm cho mình, tổng kết thành các bài học cơ bản.
5. Phương pháp thiết kế bài dạy
Tiết 122: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị.
Tiết 157: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị (tiếp theo).
PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Từ những năm trước, tôi đã nghiên cứu rất nhiều phương pháp dạy học của các lớp 4-5, năm học 2010-2011 và năm học 2011-2012, tôi đặc biệt đã chú trọng đến phương pháp dạy dạng “bài toán liên quan đến rút về đơn vị” ở lớp 3. Mục đích chính là giúp các em có một kĩ năng giải toán và phân loại dạng toán tốt, tạo cơ sở tốt cho các em học tốt dạng toán về đại lượng tỉ lệ thuận và đại lượng tỉ lệ nghịch sau này. Thực chất ở dạng bài toán này, chúng ta đã phân loại cho các em thành hai kiểu bài theo chương trình học. Cho nên cái chính là tôi muốn giúp các em không những có phương pháp tốt giải hai kiểu bài này mà còn giúp các em có kĩ năng nhận biết, so sánh, đối chiếu sự giống nhau và khác nhau ở hai kiểu bài, từ đó các em tránh được nhầm lẫn đáng tiếc xảy ra. Vậy nên, chúng ta phải có phương pháp khéo léo phù hợp với quá trình nhận thức của các em, giúp các em nhẹ nhàng tiếp thu, không gò bó, nhớ được sâu sắc kĩ năng giải.
KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
Để thực hiện được mục tiêu của mình đề ra, tôi đã lập kế hoạch về thời gian và nội dung thực hiện theo từng bước sau:
Bước 1: Tập hợp lại kết quả chất lượng sau khi học ở mỗi kiểu bài của năm học 2010-2011 để lấy kết quả thực nghiệm đối chiếu với năm học 2011-2012.
Bước 2: Tổ chức chuyên đề phương pháp dạy học kiểu bài 1, để giáo viên khối 3 nắm và truyền thụ cho tất cả học sinh khối 3.
Bước 3: Khảo sát chất lượng lấy kết quả ở kiểu bài 1.
Bước 4: Tổ chức chuyên đề phương pháp dạy - học kiểu bài 2, để giáo viên khối 3 nắm và truyền thụ cho tất cả học sinh khối 3.
Bước 5: Khảo sát chất lượng lấy kết quả ở kiểu bài 2 rồi đối chiếu.
Bước 6: Cùng giáo viên khối 3 thảo luận phân tích, so sánh sự giống nhau và khác nhau ở 2 kiểu bài đó, thống nhất phương pháp rèn luyện cho học sinh, tránh khi giải các em lại nhầm kiểu bài 1 với kiểu bài 2.
Bước 7: Lập kế hoạch cho tất cả học sinh lớp 3 luyện tập hai kiểu bài song song.
Bước 8: Khảo sát chất lượng sau một thời gian luyện tập, lấy kết quả đối chiếu.
Bước 9: Phân tích, đánh giá, rút ra những kinh nghiệm khi dạy học dạng toán này.
PHẦN II: NỘI DUNG
CƠ SỞ LÍ LUẬN
Quá trình dạy học Toán 3 phải góp phần thiết thực vào việc hình thành phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập và làm việc tích cực, chủ động, khoa học, sáng tạo cho học sinh. Cho nên, giáo viên cần tổ chức hoạt động học tập thường xuyên tạo ra các tình huống có vấn đề, tìm các biện pháp lôi cuốn học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề bằng cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ năng vấn đề đó, huy động các kiến thức và các công cụ đã có để tìm ra con đường hợp lí nhất giải đáp từng câu hỏi đặt ra trong qua trình giải quyết vấn đề, diễn đạt các bước đi trong cách giải, tự mình kiểm tra lại các kết quả đã đạt được, cùng các bạn rút kinh nghiệm về phương pháp giải. Tuy nhiên, để tổ chức được các hoạt động học tập, giáo viên cần xác định được: Nội dung bài học cần cho học sinh lĩnh hội là gì? Tổ chức các hoạt động dạy - học như thế nào? Mặt khác, nội dung dạy giải toán ở lớp 3 được sắp xếp hợp lí, đan xen và tương hợp với các mạch kiến thức, phù hợp với sự phát triển nhận thức của học sinh lớp 3. Dạy học giải toán có lời văn là một trong những con đường hình thành và phát triển trình độ tư duy của học sinh. Các em biết phát hiện và tự giải quyết vấn đề, tự nhận xét so sánh, phân tích, tổng hợp, rút ra quy tắc ở dạng khái quát nhất định.
Trong quá trình dạy học, giáo viên cần chủ động tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động theo mục đích nhất định với sự trợ giúp đúng mức của giáo viên, của sách giáo khoa và đồ dùng dạy học, để mỗi cá nhân học sinh tự khám phá, tự phát hiện và tự giải quyết bài toán thông qua việc biết thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới với các kiến thức liên quan đã học cùng với kinh nghiệm sẵn có của bản thân. Đó là các cơ sở để các em giải tốt dạng toán rút về đơn vị nói riêng, các dạng toán hợp nói chung.
LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học là sự vận dụng các phương pháp dạy học Toán nói chung cho phù hợp với mục tiêu, nội dung, các điều kiện dạy học. Do đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học, trong quá trình dạy học Toán, giáo viên thường phải vận dụng linh hoạt các phương pháp trực quan, thực hành, gợi mở, vấn đáp, giảng giải,… tùy theo mức độ ở từng lớp. Từ trước cho tới nay có không ít các đồng chí giáo viên đã từng nghiên cứu về việc vận dụng các phương pháp này vào dạy các dạng toán ở các khối lớp. Ở lớp 3, chắc cũng có nhiều đồng chí đã từng nghiên cứu, tìm tòi các phương pháp, hình thức tổ chức dạy một dạng toán, một kiểu bài nào đó. Tôi cũng vậy, sau nhiều năm nghiên cứu, tích lũy, viết sáng kiến kinh nghiệm dạy học của mình, tôi đã có một ít vốn kinh nghiệm giảng dạy ở tất cả các môn. Song, giờ đây, tôi muốn cùng các đồng chí nghiên cứu tiếp với vấn đề: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị”. Nhìn lại về quá trình dạy dạng toán này, về cơ bản, ai cũng thể cho rằng các em dễ tiếp thu, dễ làm bài, dễ nhớ, ít sai. Nhưng đi sâu hơn nữa, theo cái nhìn chủ quan của tôi, với dạng toán này các em còn có nhiều những nhầm lẫn đáng tiếc nếu như không nắm chắc đặc điểm cơ bản, phương pháp giải cơ bản của hai kiểu bài trong dạng toán này. Nếu hướng dẫn học sinh từng kiểu bài một trong một tiết thì các em làm bài gần như theo khuôn mẫu, ít sai sót. Nhưng khi hướng dẫn học sinh luyện tập song song cả hai kiểu bài hoặc học xong cả hai kiểu bài rồi, nếu không nắm vững kĩ năng nhận biết và phương pháp giải từng dạng bài sẽ dẫn đến nhầm lẫn và sai lầm khi làm bài. Điều này xảy ra nhiều hơn ở các em có lực học trung bình, yếu. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các biện pháp giúp các em lớp 3giải tốt dạng toán này sẽ góp phần rất lớn giúp học sinh dễ dàng giải quyết bài tập, đồng thời tạo sự tin, hứng thú trong quá trình học tập của học sinh, đặc biệt là đối với các em có học lực trung bình, yếu.
THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC
Trong nhiều năm theo dõi học sinh học Toán, đặc biệt là hai năm gần đây, tôi trực tiếp theo dõi các em học sinh lớp 3 giải toán, tôi thấy các em có một thói quen không tốt cho lắm đó là: đọc đầu bài qua loa, sau đó giải bài toán ngay, làm xong không cần kiểm tra lại kết quả, ... Thế nên, khi được chữa bài, các em mới biết là mình sai. Đối với dạng bài toán liên quan đến rút về đơn vị, khi giáo viên hướng dẫn xong kiểu bài 1, các em làm bài khá tốt, ít nhầm lẫn, nhưng còn sai nhiều trong tính toán, đến khi dạy xong kiểu bài 2, các em làm bài có phần nhầm lẫn nhiều hơn, nhiều em thực hiện ở bước 2 đáng lẽ là phép chia thì các em lại làm phép nhân (giống ở kiểu bài 1). Năm học 2010-2011, tôi chưa triển khai phương pháp dạy của mình tới giáo viên dạy khối 3, song tôi đã để ý, quan sát các em làm bài ở lớp mỗi khi dự giờ, thăm lớp, các em đã có sự nhầm lẫn đáng tiếc xảy ra. Để nắm được thực trạng học sinh lớp 3 giải dạng toán này cụ thể như thế nào, tôi đã tiến hành ra hai bài toán, thuộc hai kiểu bài của dạng toán này như sau rồi đề nghị giáo viên khối 3 kiểm tra các em làm bài trong thời gian là 20 phút để nắm được kết quả.
Bài toán 1: Một cửa hàng có 6 bao gạo chứa được 36 kg gạo. Hỏi 4 bao gạo như thế có thể chứa được bao nhiêu ki lô gam gạo?
Bài toán 2: Có 42 lít dầu đựng vào 6 can. Hỏi có 84 lít dầu thì cần có bao nhiêu can như thế để đựng?
Sau khi chấm bài, tôi nhận thấy kết quả các em làm bài như sau:
Có nhiều em làm đúng cả 2 bài.
Một số em làm nhầm ở bước 2 từ kiểu bài 1 sang kiểu bài 2 và ngược lại.
Một số em có tính sai.
Còn một vài em sai cả hai bài.
* Kết quả cụ thể:
T. Số
HS
ĐIỂM
1 - 4
5 - 6
7 - 8
9 - 10
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
92
12
13.0
50
54.3
25
27.2
5
5.4
Nguyên nhân có kết quả như vậy là do phần lớn các em còn chủ quan khi làm bài, chưa nhớ kĩ các phương pháp giải dạng toán này. Mặt khác, cũng có thể là các em chưa được củng cố rõ nét về sự khác nhau giữa hai kiểu bài trong dạng toán này nên sự sai đó không tránh khỏi. Con nữa, đây là các bài toán áp dụng rất thực tế mà các em quên mất phương pháp thử lại nên kết quả đưa ra rất đáng tiếc.
Xuất phát từ tình hình thực tế của năm 2010-2011, tôi đã mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy dạng toán này, triển khai tới từng giáo viên dạy ở khối 3 ngay từ đầu học kì II năm học 2011-2012. Mục đích chính giúp các em có phương pháp giải toán nói chung, phương pháp giải dạng toán có liên quan đến rút về đơn vị nói riêng. Các em chủ động thực hiện giải toán không máy móc mà phải dựa vào tư duy, phân tích tổng hợp dựa trên phương pháp giải và thực tế đề bài.
NHỮNG GIẢI PHÁP CHÍNH
1/ Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp chung để giải các bài toán
Để giải một bài toán bất kì đã học, đều phụ thuộc vào các phương pháp giải toán được vận dụng ở mỗi bước giải bài toán đó. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm được các bước cơ bản để giải một bài toán như sau:
* Bước 1: Đọc kĩ đề toán.
* Bước 2: Tóm tắt đề toán.
* Bước 3: Phân tích bài toán.
* Bước 4: Viết bài giải.
* Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải.
Cụ thể yêu cầu đối với học sinh như sau:
a/ Đọc kĩ đề toán: Học sinh đọc ít nhất 3 lần mục đích để giúp các em nắm được ba yếu tố cơ bản. Những “ dữ kiện” là những cái đã cho, đã biết trong đầu bài, “những ẩn số” là những cái chưa biết và cần tìm và những “điều kiện” là quan hệ giữa các dữ kiện với ẩn số.
Cần tập cho học sinh có thói quen và từng bước có kĩ năng suy nghĩ trên các yếu tố cơ bản của bài toán, phân biệt và xác định được các dữ kiện và điều kiện cần thiết liên qua đến cái cần tìm, gạt bỏ các tình tiết không liên quan đến câu hỏi, phát hiện được các dữ kiện và điều kiện không tường minh để diễn đạt một cách rõ ràng hơn. Tránh thói quen xấu là vừa đọc xong đề đã làm ngay.
b/ Tóm tắt đề toán: Mục đích của "tóm tắt" bài toán là phân tích đề toán để làm rõ giả thiết (bài toán cho biết gì) và kết luận (bài toán hỏi gì) của bài toán, thu gọn bài toán theo giả thiết, kết luận của bài toán, làm rõ mối quan hệ giữa "cái đã cho" và "cái phải tìm" rồi từ đó tìm ra cách giải bài toán một cách hợp lí. Bởi vậy, dạy tóm tắt bài toán trước khi giải bài toán là rất cần thiết. Tuy vậy, không nhất thiết bắt buộc phải viết "tóm tắt" vào phần trình bày bài giải (tùy theo yêu cầu của bài toán, theo từng giai đoạn học tập của học sinh, giáo viên có thể cho học sinh viết tóm tắt vào bài giải hoặc không).
Thực tế có rất nhiều cách tóm tắt bài toán, nếu các em càng nắm được nhiều cách tóm tắt thì các em sẽ càng giải toán giỏi. Cho nên, khi dạy tôi đã truyền đạt các cách sau tới học sinh:
Cách 1: Tóm tắt bằng chữ.
Cách 2: Tóm tắt bằng chữ và dấu.
Cách 3: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
Cách 4: Tóm tắt bằng hình tượng trưng.
Cách 5: Tóm tắt bằng lưu đồ.
Cách 6: Tóm tắt bằng sơ đồ Ven.
Cách 7: Tóm tắt bằng kẻ ô.
Thông thường, ở dạng toán liên quan đến rút về đơn vị, tóm tắt bằng lời được lựa chọn nhiều hơn. Trong khi tóm tắt, học sinh cần lưu ý đến tên của mỗi đơn vị (đại lượng), có mấy đơn vị, mối quan hệ giữa các đơn vị đó.
Ví dụ 1: Một cửa hàng có 6 bao gạo chứa được 36 kg gạo. Hỏi 4 bao gạo như thế có thể chứa được bao nhiêu ki lô gam gạo?
Tóm tắt:
6 bao gạo: 36 kg
4 bao gạo: ... kg ?
hoặc: 6 bao gạo: 36 kg
4 bao gạo: ? kg
Ví dụ 2: Có 42 lít dầu đựng vào 6 can. Hỏi có 84 lít dầu thì cần có bao nhiêu can như thế để đựng?
Tóm tắt:
42 l dầu : 6 can
84 l dầu : ... can ?
hoặc: 42 l dầu : 6 can
84 l dầu : ? can
c/ Phân tích mối quan hệ giữa các dữ kiện đã cho với kết luận để tìm ra cách giải bài toán: Sau khi tóm tắt đề bài xong, các em tập viết phân tích đề bài để tìm ra cách giải bài toán. Cho nên, ở bước này, giáo viên cần sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, thiết lập cách tìm hiểu, phân tích bài toán theo sơ đồ dưới dạng các câu hỏi thông thường:
Bài toán cho biết gì?
Bài toán hỏi gì?
Muốn tìm cái đó ta cần biết gì?
Cái này biết chưa?
Còn cái này thì sao?
Muốn tìm cái chưa biết ta cần dựa vào đâu? Làm như thế nào?
Hướng dẫn học sinh phân tích xuôi rồi tổng hợp ngược lên, từ đó các em nắm bài kĩ hơn, tự các em giải được bài toán.
Cần cho học sinh được rèn luyện khả năng diễn đạt bằng lời nói và bằng chữ viết khi phải giải thích các vấn đề liên quan đến phân tích đề toán, tìm cách giải bài toán và nhất là khi diễn tả câu trả lời, trình bày bài giải của bài toán. Có thể lúc đầu học sinh tự thực hiện các hoạt động diễn đạt này còn khó khăn, nhưng đây là "cơ hội" thuận lợi để các em được phát triển tư duy, khả năng giải quyết vấn đề.
d/ Trình bày lời giải: Dựa vào sơ đồ phân tích, quá trình tìm hiểu bài, các em sẽ dễ dàng viết được bài giải một cách đầy đủ, chính xác. Giáo viên chỉ việc yêu cầu học sinh trình bày đúng, đẹp, cân đối ở vở là được, chú ý câu trả lời ở các bước phải đầy đủ, không viết tắt, chữ và số phải đẹp.
e/ Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải: Qua quá trình quan sát học sinh giải toán, chúng ta dễ dàng thấy rằng học sinh thường coi bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Khi giáo viên hỏi: “ Em có tin chắc kết quả là đúng không?” thì nhiều em lúng túng. Vì vậy việc kiểm tra , đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán va phải trở thành thói quen đối với học sinh. Cho nên khi dạy giải toán, chúng ta cần hướng dẫn các em thông qua các bước:
Đọc lại lời giải.
Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí yêu cầu của bài chưa, các câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa.
Thử lại các kết quả vừa tính từ bước giải đầu tiên.
Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa.
Đối với học sinh giỏi, giáo viên có thể hướng các em nhìn lại toàn bộ bài giải, tập phân tích cách giải, động viên các em tìm các cách giải khác, tạo điều kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh.
2/ Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị bằng phép tính chia, nhân (kiểu bài 1)
Để học sinh nắm chắc phương pháp giải kiểu bài toán này, tôi đã tiến hành dạy ngay ở trên lớp theo phương pháp và hình thức sau:
a/ Kiểm tra bài cũ: Để nhắc lại kiến thức cũ và chuẩn bị cho kiến thức mới cần truyền đạt, tôi ra đề như sau: “Mỗi can chứa được 5 lít mật ong. Hỏi 7 can như vậy chứa được bao nhiêu lít mật ong?”
Với bài này, học sinh dễ dàng giải được như sau:
Bài giải.
7 can như vậy chứa được số lít mật ong là:
5 x 7 = 35 (l)
Đáp số: 35 l mật ong.
Sau đó, tôi yêu cầu học sinh nhận dạng toán đã học và giải thích cách làm, đồng thời cho học sinh nhắc lại quy trình của giải một bài toán.
b/ Bài mới:
* Giới thiệu bài: Dựa vào bài toán kiểm tra bài cũ, giáo viên vừa củng cố, vừa giới thiệu bài ngày hôm nay các em được học.
* Hướng dẫn học sinh giải bài toán 1: Có 35 l mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi mỗi can có mấy lít mật ong?
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc đề bài, đọc thành tiếng và đọc thầm.
Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán (sử dụng phương pháp hỏi - đáp):
+ Bài toán cho biết gì? (35 lít mật ong đổ đều vào 7 can).
+ Bài toán hỏi gì? (1 can chứa bao nhiêu lít mật ong).
+ Giáo viên yêu cầu học sinh nêu miệng phần tóm tắt để giáo viên ghi bảng:
7 can: 35 l mật ong
1 can: ... l mật ong ?
- Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán để tìm phương pháp giải bài toán.
- Giáo viên yêu cầu học sinh làm vào bảng con.
- Giáo viên đưa bài giải đối chiếu.
Bài giải
Số lít mật ong có trong mỗi can là:
35 : 7 = 5 (l)
Đáp số: 5 l mật ong.
- Giáo viên củng cố cách giải: Để tìm 1 can chứa bao nhiêu lít mật ong ta làm phép tính gì? (phép tính chia).
- Giáo viên giới thiệu: Bài toán cho ta biết số lít mật ong có trong 7 can, yêu cầu chúng ta tìm số lít mật ong trong 1 can, để tìm được số lít mật ong trong 1 can, chúng ta thực hiện phép chia. Bước này gọi là rút về đơn vị, tức là tìm giá trị của một phần trong các phần.
- Giáo viên cho học sinh nêu miệng kết quả một số bài toán đơn giản để áp dụng, củng cố như:
5 bao: 300kg hoặc 3 túi : 15 kg
1 bao: ? kg 1 túi : ? kg
* Hướng dẫn học sinh giải bài toán 2: Có 35 lít mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi 2 can như vậy có mấy lít mật ong?
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đầu bài (3 lần).
- Yêu cầu học sinh nêu tóm tắt bài toán – Giáo viên ghi bảng (Phương pháp hỏi đáp).
7 can : 35 lít
2 can : ? lít.
- Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán: ( Phương pháp hỏi đáp)
+ Muốn tính được số lít mật ong có trong 2 can ta phải biết gì? ( 1 can chứa được bao nhiêu lít mật ong)
+Làm thế nào để tìm được số lít mật ong có trong 1 can? ( Lấy số lít mật ong trong 7 can chia cho 7).
+ Yêu cầu học sinh nhẩm ngay 1 can: ? l.
+ Yêu cầu học sinh nêu cách tính 2 can khi đã biết 1 can.
(Lấy số lít mật ong có trong 1 can nhân với 2).
- Một học sinh nêu lần lượt bài giải. Giáo viên ghi bảng.
Bài giải
Số lít mật ong có trong mỗi can là:
35 : 7 = 5 (l)
Số lít mật ong có trong 2 can là:
5 x 2 = 10 (l)
Đáp số:10l mật ong.
- Yêu cầu học sinh nêu bước nào là bước rút về đơn vị: Bước tìm số lít mật ong trong 1 can gọi là bước rút về đơn vị.
- Hướng dẫn học sinh củng cố dạng toán – kiểu bài 1:
Các bài toán có liên quan đến rút về đơn vị thường được giải bằng 2 bước:
+Bước 1: Tìm giá trị một đơn vị (giá trị một phần trong các phần bằng nhau) . Thực hiện phép chia.
+ Bước 2: Tìm giá trị của nhiều đơn vị cùng loại (giá trị của nhiều phần bằng nhau) . Thực hiện phép nhân.
+ Học sinh nhẩm thuộc, nêu lại các bước.
- Hướng dẫn học sinh làm bài tập áp dụng.
- Giáo viên nêu miệng, ghi tóm tắt lên bảng, học sinh nêu kết quả và giải thích cách làm.
3 túi : 45 kg hoặc : 4 thùng : 20 gói.
12 túi : ? kg. 5 thùng : ? gói.
Sau khi học sinh nắm chắc cách giải bài toán ở kiểu bài này, chúng ta cần tiến hành hướng dẫn học sinh luyện tập.
c/Luyện tập:
Khi tiến hành hướng dẫn học sinh luyện tập qua từng bài, giáo viên cần thay đổi hình thức luyện tập.
Bài 1: - Hướng dẫn học sinh thảo luận chung cả lớp, sau đó 1 học sinh tóm tắt và giải bài toán trên bảng, cả lớp làm vào vở.
- Củng cố bước rút về đơn vị.
- Củng cố các bước giải bài toán này.
Bài 2: - Học sinh thảo luận và làm việc theo nhóm đôi.
- Yêu cầu 1 cặp học sinh trình bày bảng – Giáo viên kiểm tra các kết quả của cả lớp.
- Yêu cầu học sinh nêu bước rút về đơn vị.
- Củng cố cách thực hiện 2 bước giải bài toán.
Bài 3: Hướng dẫn học sinh chơi trò chơi ghép hình.
d/ Củng cố dặn dò:
- Học sinh tự nêu các bước, cách thực hiện giải bài toán có liên quan đến rút về đơn vị ( kiểu bài 1)
- Giao thêm bài về nhà dạng tương tự để hôm sau kiểm tra.
- Qua mỗi lần luyện tập xen kẽ, giáo viên đều củng cố cách làm ở kiểu bài 1 là:
+ Bài giải được thực hiện qua 2 bước:
Bước 1: (Bước rút về đơn vị) Tìm giá trị 1 đơn vị (Giá trị 1 phần). (phép chia).
Bước 2: Tìm nhiều đơn vị (từ 2 đơn vị trở lên - phép nhân).
Nhấn mạnh cốt chính của kiểu bài 1 là tìm giá trị của nhiều đơn vị (nhiều phần).
Khi
File đính kèm:
- SKKN loai A.doc