Hiện nay, với tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học, hằng ngày con người được tiếp cận những nguồn thông tin phong phú trong mọi lĩnh vực kể cả tiếp cận với những trang thiết bị hiện đại của nền văn minh nhân loại. đặc biệt với chức năng đa dạng phong phú, công nghệ thông tin đã thâm nhập vào tất cả các mặt trong đời sống xã hội, kể cả bậc học Tiểu học. Mặc dù có nhiều phương tiện in ấn hiện đại song chữ viết vẫn có vai trò vô cùng quan trọng đối với xã hội nhất là đối với công tác Giáo dục.
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1506 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy môn chính tả góp phần rèn luyện chữ viết và trình bày sạch đẹp cho học sinh lớp 5, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy môn chính tả góp phần rèn luyện chữ viết và trình bày sạch đẹp
cho học sinh lớp 5
A. Đặt vấn đề
I. Lời nói đầu:
Hiện nay, với tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học, hằng ngày con người được tiếp cận những nguồn thông tin phong phú trong mọi lĩnh vực kể cả tiếp cận với những trang thiết bị hiện đại của nền văn minh nhân loại. đặc biệt với chức năng đa dạng phong phú, công nghệ thông tin đã thâm nhập vào tất cả các mặt trong đời sống xã hội, kể cả bậc học Tiểu học. Mặc dù có nhiều phương tiện in ấn hiện đại song chữ viết vẫn có vai trò vô cùng quan trọng đối với xã hội nhất là đối với công tác Giáo dục.
Vấn đề chữ viết được người xưa rất coi trọng. Cha ông ta dùng câu thành ngữ
“ Văn hay chữ tốt “ để khen người chữ đẹp, học rộng tài cao . Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận , tính kỉ luật , lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy cô và bạn đọc bài vở của mình” . Điều đó chứng tỏ vấn đề chữ viết trong bất kì thời đại nào được quan tâm.
Có thể nói chữ viết phần nào phản ánh được trình độ văn hoá của một con người cũng như của một xã hội. Không những chữ viết làm phương tiện giao lưu, học tập, nghiên cứu, truyền thụ những tri thức…mà chữ viết còn thể hiện óc sáng tạo, tính
thẩm mỹ của con người. Dạy cho học sinh kỹ năng viết đúng, viết đẹp, viết nhanh không chỉ giúp cho các em học tốt môn Tiếng Việt mà còn giúp các em học tốt các môn khoa học khác.
Ngoài ra, việc dạy tập viết và luyện chữ đẹp cũng góp phần gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc, nét chữ truyền thống của người Việt Nam.
Chính vì vậy, mỗi giáo viên cần quan tâm đến việc rèn chữ cho bản thân đồng thời rèn chữ viết cho học sinh góp phần xây dựng và đẩy mạnh phong trào thi đua “ Giữ vở
sạch – Viết chữ đẹp” ở đơn vị mình. Điều này có thể hoàn toàn thực hiện được qua các môn học, đặc biệt là phân môn chính tả.
Giúp cho học sinh nắm và có kiến thức cơ bản về mẫu chữ hiện hành (Thực hiện quyết định 31/QĐ - Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc thay đổi mẫu chữ trong trường Tiểu học), củng cố và dần đến hoàn thiện, hiểu biết về hình dáng, quy trình chữ viết hoa, viết thường, viết đúng rõ ràng, đẹp. Từ đó hình thành kỹ năng viết đúng, viết đẹp , nâng cao thành kỹ năng viết nhanh mà vẫn viết đúng, viết đẹp.
Viết được một bài chính tả được trích từ bài tập đọc trước đó hoặc là nội dung tóm tắt của bài tập đọc hoặc văn bản khác có nội dung học tập phù hợp với chủ điểm trong tuần. Biết các quy tắc chính tả của chữ viết Tiếng Việt. Đảm bảo tốc độ viết theo yêu cầu.
Biết trình bày một bài viết, hoặc giải một bài toán khoa học, đẹp.
- Luôn thực hiện nề nếp giữ vở sạch và chữ viết đẹp.
Xuất phát từ những lí do trên , tôi đã đi sâu nghiên cứu vận dụng đổi mới nội dung - phương pháp dạy học vào dạy môn chính tả góp phần rèn chữ viết và trình bày đẹp cho học sinh lớp 5 và đúc rút ra được: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn chính tả góp phần rèn luyện chữ viết và trình bày sạch đẹp cho học sinh lớp 5”
Nhiệm vụ của đề tài:
Truyền thụ cho học sinh những kiến thức cơ bản về chữ viết và kỹ thuật viết chữ trong các tiết chính tả, luyện viết . Học sinh nắm chắc các tri thức cơ bản về cấu tạo bộ chữ cái la tinh ghi âm tiếng Việt, sự thể hiện bộ chữ cái này trên vở. Đồng thời được hướng dẫn các yêu cầu về kỹ thuật viết nét chữ, chữ cái, viết từ và viết câu, viết đoạn văn, trình bày lời giải một bài toán có văn……
Triển khai trên đối tượng học sinh lớp 5A, năm học 2008 - 2009
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
1. Thực trạng :
Thuân lợi: Học sinh được học, luyện viết từ lớp 1 nên về cơ bản đã nắm rõ mẫu chữ , cỡ chữ và nắm được phương pháp của môn chính tả.
Khó khăn:
+ Học sinh đã quen nếp viết và nét chữ của mình, viết tự do theo thói quen của mình nên việc sửa nét chữ của các em là rất khó khăn
+ Nhiều phụ huynh học sinh chỉ chú trọng rèn văn hoá, xem nhẹ chữ viết
+Với yêu cầu về kiến thức các môn học càng lên lớp cao ( lớp 4,5 ) càng nhiều hơn, yêu cầu học sinh phải viết nhanh hơn, nhiều hơn nên càng dễ nảy sinh tính cẩu thả dẫn đến viết sai , viết xấu.
+ GV chưa được tập huấn bài bản về quy trình dạy luyện viết chữ đẹp cho học sinh.
Thực tế học sinh ở trường, ở lớp chữ viết còn xấu, chậm, viết bài còn mắc nhiều lỗi chính tả. Trong các kỳ thi số bài được điểm kém do nguyên nhân chữ viết và trình bày tuỳ tiện, cẩu thả chiếm tỷ lệ không nhỏ Tốc độ viết còn chậm chưa đảm bảo theo yêu cầu.
Theo khảo sát đầu năm học, học sinh còn mắc một số lỗi, cụ thể như sau:
+ Thiếu nét: Do thói quen của học sinh chưa viết hết nét đã dừng lại.
+ Thừa nét: Lỗi này do học sinh viết sai quy trình, điểm đặt bút ban đầu, nét đầu học sinh viết không đúng, dừng vượt quá điểm quy định
+ Sai nét: Lỗi này thường là do học sinh cầm bút sai , các ngón tay quá gần ngòi bút , khi viết biên độ dao động của ngòi bút ngắn, đầu ngòi bút di chuyển không linh hoạt làm cho nét chữ bị cong vẹo gây sai nét.
+ Khoảng cách: Lỗi này thường mắc với những học sinh viết hay nhấc bút, không viết liền mạch, đưa tay không đều.
VD: viết chữ : trắng – hướng dẫn viết trang – liền mạch, xong mới đánh dấu t, ă, và dấu sắc – trắng
+ Dấu chữ, dấu thanh: Đánh dấu chữ và dấu ghi thanh nhỏ bằng 1/2 đơn vị chữ. Dấu thanh đánh vào âm chính của vần và không vượt quá đơn vị thứ hai. Nếu chữ có dấu mũ thì các dấu thanh nằm bên phải dấu mũ.
+ Mẫu chữ, cỡ chữ: Do học sinh không nắm được mẫu chữ tại quyết định 31/ 2002 / QĐ BGD ĐT .
+ Lỗi chính tả : Thuộc về phân môn Luyện từ và câu.
+ Trình bày: Do học sinh chưa nắm được cách trình bày .
2 . Kết quả ,hiệu quả của thực trạng trên :
Qua điều tra khảo sát đầu năm học phân môn chính tả lớp mình chủ nhiệm, tôi thấy lớp mình còn nhiều học sinh viết chữ xấu, cẩu thả, bẩn…học sinh ngại, không yêu thích môn học. Cụ thể theo đánh giá của mình, tôi có bảng thống kê sau:
Sĩ số
Loại A
Loại B
Loại C
25
Số lượng
Đạt
Số lượng
Đạt
Số lượng
Đạt
8
32%
10
40%
7
28%
B. GiảI quyết vấn đề
I . Các giảI pháp thực hiện
1. cơ sở Lý luận
1.1. Dạy học chính tả - tập viết, luyện chữ đẹp cũng như dạy học các môn khoa học khác cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục.
- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
- Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống.
- Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức chung, vừa sức riêng.
- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính vững chắc của tri thức với tính mềm dẻo của tư duy.
- Nguyên tắc đảm bảo tính tích cực, độ lập sáng tạo của học sinh và vai trò tổ chức hoạt động của giáo viên.
Đặc biệt, đối với phân môn tập viết và luyện chữ ta cần chú ý hai nguyên tắc dạy học rất quan trọng sau:
a/ Nguyên tắc đảm bảo sự phối hợp thống nhất các bộ phận trong cơ thể tham gia viết chữ.
Khi viết, cùng một lúc, nhiều bộ phận của cơ thể hoạt động. Tư thế ngồi có quan hệ đến cột sống, đến phổi, đến lưng. Cách cầm bút có quan hệ đến bàn tay, ngón tay, cổ tay. Hình dáng chữ viết có quan hệ đến mắt miệng. Trên cơ sở khoa học nghiên cứu của Bộ y tế, nếu học sinh không tuân theo các quy định đó thì có thể để lại nhiều di hại suốt đời như: Mắt bị cận thị do viết ở nơi thiếu ánh sáng hoặc do tư thế viết ngồi cúi đầu quá sát vở. Cột sống bị cong vẹo, lưng bị gù, phổi bị ảnh hưởng do tư thế ngồi viết không đúng. Vì vậy, khi rèn chữ viết cho học sinh, chúng ta cần chú ý nhắc nhở cách cầm bút, để vở, tư thế ngồi và hoạt động viết của các em cho đúng. Phân tích nguyên tắc này cho thấy kỹ năng viết của học sinh chỉ thực sự có được khi có sự phối hợp đồng bộ các bộ phận trong cơ thể tham gia viết chữ. Việc đánh giá sản phẩm chữ viết cần được theo dõi với quá trình viết của các em.
b/ Nguyên tắc coi việc dạy tập viết - chính tả là hình thành một kỹ năng:
Việc rèn luyện kỹ năng đòi hỏi phải tri giác chính xác sản phẩm, nắm vững các thao tác kỹ thuật và kiên trì lặp đi lặp lại các thao tác đó. Khi rèn luyện kỹ năng viết chữ, học sinh phải nắm được hình dáng, đặc điểm, quy trình viết từng chữ cái và từng nhóm chữ cái. Sự luyện tập phải liên tục, nhều lần, lặp đi lặp lại để khắc sâu vào trí nhớ học sinh. Để hình thành kỹ năng viết cho học sinh, quá trình dạy học tập viết luyện chữ đẹp phải trải qua hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Hình thành và xây dựng biểu tượng chữ viết giúp các em nắm được hình dáng, kích thước, quy trình viết từng chữ cái.
Giai đoạn 2: Hướng dẫn các em luyện viết các chữ cái, liên kết các chữ cái để luyện viết từ, câu ứng dụng.
1.2. Phương pháp dạy tập viết, luyện chữ đẹp:
a/ Nhóm phương pháp dùng lời, gây hứng thú cho học sinh :
Dạy tập viết và luyện chữ đẹp cho học sinh, điều quan trọng là phải gây được hứng thú cho học sinh . khi các em yêu thích chữ đẹp thì các em sẽ say mê và quyết tâm rèn chữ cho đẹp. Giáo viên có thể nêu những gương sáng về rèn chữ viết, kể những câu chuyện về rèn chữ như : Thần Siêu luyện chữ , Chữ người tử tù, Cao Bá Quát , Nguyễn Văn Siêu….. hoặc những gương người thật việc thật , ví dụ : em A chữ đẹp nhất trường, các em hãy quan sát chữ viết của bạn và học tập. Giáo viên có thể phôtô các bài viết của học sinh đạt giải cấp huyện, cấp tỉnh, cấp quốc gia để làm mẫu cho các em, đồng thời động viên các em nếu cố gắng, kiên trì rèn luyện thì chữ viết của các em cũng đạt được như vậy thậm trí còn có thể đẹp hơn. Khi đã gây được hứng thú cho học sinh, các em đã thích rèn viết chữ đẹp lúc này ta cung cấp các bài tập để học sinh rèn kĩ năng viết.
b/ Nhóm phương pháp trực quan:
Khi dạy chữ viết , việc đưa giáo cụ trực quan là chữ viết mẫu được in sẵn từng chữ cái, bảng chữ cái là việc làm để cung cấp cho học sinh biểu tượng về chữ viết, chưa cung cấp được kĩ năng viết . Nếu trực quan là chữ của cô giáo viết mẫu thì càng giá trị hơn, học sinh dễ tiếp thu biểu tượng chữ viết hơn. Giáo viên vừa viết vừa phân tích được từng nét chữ hoặc từng kĩ thuật nối các con chữ. Chữ viết mẫu của giáo viên còn có tác dụng tạo niềm tin cho học sinh, tạo điều kiện cho việc rèn kĩ năng viết liền mạch, viết nhanh. Khi chấm bài, chữa bài, chữ viết của giáo viên được học sinh quan sát như một loại chữ mẫu. Vì vậy giáo viên phải chú ý viết đúng mẫu, rõ ràng, đều, đẹp.
c/ Nhóm phương pháp luyện tập thực hành:
Đây là một phương pháp cực kì quan trọng. Tập viết chữ có tính chất thực hành. Phải thường xuyên nhắc nhở học sinh ở mọi lúc mọi nơi, không chỉ ở môn tập viết mà còn ở tất cả các môn khác, môn nào cũng cần chữ viết để ghi nội dung bài. Các bài tập cho học sinh luyện tập cần chú ý: các chữ có nét giống nhau thì cùng xếp vào một nhóm để rèn. Số lượng bài tập ít nhưng lặp đi lập lại nhiều lần với yêu cầu cao dần. Việc cho học sinh viết đi viết lại nhiều lần một bài sẽ dễ dàng nhận ra lỗi sai của học sinh đồng thời cũng dễ nhận xét sự tiến bộ của học sinh . Có nhiều hình thức cho học sinh luyện tập thực hành:
+ Tập viết trên bảng lớp.
+ Tập viết trong các tiết chính tả trên lớp.
+ Tập viết khi học các môn khác.
2. cơ sở Thực tiễn
Về chương trình sách giáo khoa mới lớp 5 có 33 bài chính tả, xoay quanh các chủ đề như: Việt Nam - Tổ quốc em; Cánh chim hoà bình; Con người với thiên nhiên; Giữ lấy màu xanh; Vì hạnh phúc con người; Người công dân; Vì cuộc sống thanh bình; Nhớ nguồn; Nam và nữ; Những chủ nhân tương lai.
Mỗi bài chính tả có cấu trúc và nội dung riêng biệt. Có thể là thơ lục bát, thơ tự do, văn xuôi...Nhiều bài còn yêu cầu nhớ viết.
Nội dung dạy học chính tả được chia làm 3 phần.
2.1. Chính tả đoạn, bài:
Về nội dung: Bài viết chính tả được trích từ bài tập đọc trước đó hoặc là nội dung tóm tắt của bài tập đọc hoặc các văn bản khác có nội dung phù hợp với chủ điểm trong tuần (độ dài khoảng 100 chữ).
Yêu cầu chung là học sinh cần viết đúng mẫu chữ , đúng chính tả, không mắc quá 5 lỗi trong bài viết, tốc độ viết đạt 100 chữ/15phút (cuối lớp 5)
Về hình thức: Có 2 hình thức chính tả được sử dụng là chính tả nghe - viết và chính tả nhớ - viết. Chủ yếu chú trọng hình thức chính tả nghe - viết.
2.2. Chính tả âm vần:
Nội dung các bài chính tả âm vần nhằm ôn lại một số quy tắc chính tả và tiếp tục luyện viết các âm, vần, thanh dễ viết sai chính tả do cả 3 nguyên nhân: do bản thân các âm, vần, thanh khó; do học sinh không nắm vững nguyên tắc ghi âm chữ quốc ngữ hoặc do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương.
Hình thức bài tập âm vần rất phong phú và đa dạng. Nội dung bài tập mang tính tình huống và thể hiện rõ quan điểm giao tiếp trong dạy học.
2.3. Chính tả viết hoa:
- Ôn luyện cách viết hoa tên người, tên địa lý nước ngoài.
- Bước đầu rèn luyện để có ý thức về cách viết hoa tên cơ quan, tổ chức xã hội, danh hiệu, giải thưởng, huân chương...
III. Các biện pháp tổ chức thực hiện
Qua tìm hiểu , tôi đã rút ra cho mình 1 số kinh nghiệm sau:
1. Khi luyện tập thực hành, để giảm số lượng bài tập và các bài tập được lặp lại nhiều lần ta có thể chia nhóm chữ để rèn:
Căn cứ vào đặc điểm của từng chữ cái, căn cứ vào các nét đồng dạng giữa các chữ, căn cứ vào kích thước quy trình viết, chúng ta có thể chia nhóm chữ như sau:
* Chữ thường :
+Nhóm 1: o a ă â ô ơ c d đ q g q
+Nhóm 2 : e ê b l h k
+Nhóm 3: t u ư i m n r s v y
Cần chú ý khi dạy các chữ thường là phân tích kĩ chữ đầu tiên của nhóm. Dựa vào nét đồng dạng với chữ đầu nhóm, giáo viên cho học sinh tự rèn các chữ còn lại chú ý nhắc học sinh rèn kĩ các nét cơ bản .
* Chữ số :
+ Nhóm 1 : 1 ; 4 ; 7 ;
+ Nhóm 2 : 2 ; 3 ; 5
+ Nhóm 3 : 0 ; 6 ; 8 ; 9
* Chữ hoa :
+ Nhóm 1 : a ă â
+ Nhóm 2 : o ô ơ q c
+ Nhóm 3 : b l h k
+ Nhóm 4 :g y
+ Nhóm 5 : u ư m n r s
+ Nhóm 6 : d đ t i
Tương tự, khi dạy quy trình chữ số, chữ hoa, chúng ta cần chú ý cho học sinh phân tích kĩ chữ đầu tiên của nhóm, tập viết thật kĩ chữ đầu tiên của nhóm cho thật đẹp, từ đó học sinh có thể phân tích và tự rèn các chữ còn lại.
Ví dụ :
Khi hướng dẫn học sinh viết chữ hoa ( nhóm1) a ă â
Giáo viên hỏi: Chữ a gồm có mấy nét ? ( gồm có 3 nét )
Cho HS chỉ từng nét và nêu quy trình viết, sau đó cho HS viết thật đúng, đẹp chữ a .Các chữ tiếp theo của nhóm HS viết tương tự .
2. Các bài tập rèn chữ:
Mỗi giáo viên khi thực sự quan tâm đến chữ viết của học sinh đều có thể sáng tạo ra các bài tập cho học sinh rèn chữ viết. Sau đây là một số dạng bài tập có thể áp dụng cho học sinh rèn chữ đạt kết quả nhanh.
2.1. Bài tập nét : Khi viết chữ có nhiều nét được sử dụng nhưng không nhất thiết là phải tập tất cả các nét . Ta chỉ cần chú ý cho học sinh tập các nét cơ bản, những nét cơ bản này quyết định chữ có đẹp hay không . Trước khi tập bất kì bài tập nào, giáo viên cũng cần phải nhắc nhở các em tư thế ngồi viết, cầm bút và để vở cho đúng.
+ Nét sổ thẳng, nét xiên, nét khuyết
+ Nét móc
+ Nét cong
2.2. Bài tập viết đúng quy trình: Dạng bài tập này chỉ áp dụng với những chữ học sinh thường viết sai quy trình. Khi viết, chú ý điểm đặt bút, điểm kết thúc dừng bút đều ở điểm 1/2 đơn vị (giữa li), khi viết đường cong cần chú ý viết chậm để uốn cho tròn: o , a- chữ có nét cong, điểm đặt bút ở điểm 1 đơn vị chữ ( trên li thứ nhất ). Tất cả các cữ phát triển từ chữ o thì khi viết phải viết từ chữ o trước rồi mới viết tiếp các nét khác. Đây là nhóm chữ khó viết nên cần viết chậm , không nên viết vội vàng kể cả khi có kĩ năng viết 2.3. Bài tập các kỹ thuật viết:
*Viết liền mạch : Khi viết các con chữ trong một chữ ta cần chú ý viết liền mạch. Trong một chữ ta sử dụng kĩ thuật lia bút, rẽ bút, thuật kéo dài nét và thêm nét phụ để nối các nét chữ trong một chữ cho liền mạch. khi nối liền các con chữ trong một chữ xuất hiện hai trường hợp :
+Nét nối thuận lợi: là những nét nối giữa hai con chữ có điểm dừng bút và điểm đặt bút trùng nhau.
VD : Kiên trì rèn luyện
+Nét nối không thuận lợi: là những nét nối giữa hai con chữ có điểm dừng bút và điểm đặt bút không trùng nhau
VD : Chăm học – từ nét móc của chữ h sang chữ o , a ta cần chú ý khi hướng dẫn kéo dài nét móc của chữ h đến điểm đặt bút viết chữ o trên li ngang thứ nhất, h-ho (ha) lúc này điểm đặt bút viết chữ o là ở trên li thứ nhất. Nét nối không thuận lợi, không kéo dài nét móc được ta phải sử dụng nét phụ để tạo sự liền mạch.
VD : Sang sông – từ chữ s nối sang chữ a , o ta cần thêm nét phụ ở cạnh chữ s có thể nối sang a, o…nét nối phụ còn được sử dụng khi nối từ chữ hoa có điểm dừng bút ở các điểm nối không thuận lợi
**Viết đúng khoảng cách :
Có 2 loại khoảng cách :
Khoảng cách giữa hai chữ trong một từ: là một đơn vị chữ (1 ô li đơn vị ).
Khoảng cách giữa các con chữ trong một chữ: từ 1/2 – 3/4 đơn vị chữ.
***Đánh dấu chữ và dấu ghi thanh:
Kích thước dấu chữ và dấu ghi thanh: 1/4 đơn vị chữ.
Dấu chữ nào đánh sát với chữ ấy, dấu ghi thanh đánh ở vị trí âm chính của vần. Viết liền mạch các nét chữ rồi mới đánh dấu chữ và dấu ghi thanh
Ngoài ra , viết lướt bút, nhấn bút sẽ thể hiện rõ thanh đậm và tạo ra đặc tính riêng biệt của người viết. Để rèn chữ viết đẹp cho học sinh trong thời gian ngắn nhất mà đạt hiệu quả cao nhất, ta cần chú ý rằng những chỗ nào ( nét chữ, kĩ thuật ) học sinh đã đạt rồi thì không cần phải rèn nữa chỉ bồi dưỡng cho các em những điểm yếu và thiếu.
Từ những nhận thức cơ bản trên tôi đã tiến hành khảo sát chữ viết của lớp mình chủ nhiệm. Từ thực tế chữ viết của các em còn sai mẫu quá nhiều tôi đã tiến hành xây dựng cho lớp một chương trình luyện chữ ngay từ tháng đầu tiên trong năm học. Cụ thể như sau:
Xây dựng chương trình luyện viết 12 tiết trong tháng 9/ 2008:
Tuần 1: Gồm 3 tiết
Tiết 1 : Những kĩ năng cơ bản.
Tiết 2 : Quy trình viết chữ thường, chữ số.
Tiết 3 : Quy trình viết chữ hoa.
Tuần 2: Gồm 3 tiết
Tiết 1 : Các kĩ thuật viết.
Tiết 2, 3 : Ôn tập, kiểm tra.
Tuần 3: Gồm 3 tiết
Tiết 1, 2 : Luyện tập theo nhóm .
Tiết 3, : Luyện tập tổng hợp, trang trí, trình bày bài viết.
Tuần 4: Gồm 3 Tiết
Tiết 1 : Sáng tạo, cách sửa lỗi sai.
Tiết 2 : Viết Chữ sáng tạo.
Tiết 3 : Hướng dẫn tự luyện tập ở nhà. Tổng kết cuối khoá.
4. Lựa chọn và sử dụng bút:
4.1. Lựa chọn bút viết cần đảm bảo một số yêu cầu sau:
- Bút không quá dài hoặc quá ngắn, khoảng 13cm là vừa
- Bút không to hoặc nhỏ quá nhất là chỗ tay cầm bút đường kính 7 mm là vừa.
- Phần ngòi bút và lưỡi gà cắm vào cổ bút phải vừa khít không quá rộng hoặc quá chật. Phần ngòi bút không được mềm quá dễ bị hỏng.
- Các bộ phận khác của bút phải đảm bảo cho việc hút mực, giữ mực và ra mực đều.
- Toàn bộ trọng lượng cây bút không được quá nặng hoặc quá nhẹ.
4.2. Sử dụng bút:
Để viết được nét thanh nét đậm cần phải cải tiến phần đầu ngòi- mài hết hạt gạo sao cho đầu ngòi bút mỏng dẹt. Đầu ngòi bút phải có các góc, các cạnh để chữ viết có độ nét.
(có thể mua bút Hồng Hà ngòi bút đính hạt lridium để viết )
Ngòi bút không quá trơn để điều khiển được bút theo ý người viết, không quá sắc để viết không bị gai tránh việc rách giấy và nhoè mực.
Rửa sạch bút bằng nước ấm hoặc rượu trắng trước khi hút mực lần đầu, không hút đầy bầu mực và nhớ lau mực ở phần đầu ngòi.
Khi sử dụng bút viết xong cần đóng nắp lại ngay để tránh khu mực ở đầu ngòi hoặc có thể rơi, va chạm vào vật cứng sẽ không bị cong gãy ngòi. Khi di chuyển, vận động bút nên để tư thế thẳng đứng hướng ngòi bút lên trên để tránh việc mực tràn ra nắp bút gây bẩn tay và vở
4.3: Lựa chọn mực : Mực viết có thể là màu đen hoặc màu tím. Chọn hãng mực Thiên Long hoặc mực MIC để viết .
5. Cách viết:
Cầm bút bằng 3 ngón tay, bút được kẹp ở giữa ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa. Ngón giữa đỡ phía dưới chỗ tay cầm, ngón trỏ ở phía trên chỗ tay cầm ngón cái giữ bút ở phía ngoài.
Giữ bút nghiêng khoảng 45 độ so với mặt giấy về phía người viết và tạo một góc 15 độ so với dòng kẻ dọc của trang giấy, bút đặt úp ngòi.
Cổ tay thẳng thoải mái với cánh tay. Điều khiển bút cơ bản bằng ba ngón tay theo cử động lên xuống nhẹ nhàng.
Bút chỉ viết theo một chiều, không tì mạnh tay nhất là những nét từ dưới đưa lên.
*** Lưu ý: Do bút mài nét thanh nét đậm chỉ viết được một chiều nên có thể gây khó khăn bước đầu cho người đang có thói quen cầm bút sai. Vì vậy cần tạo cho học sinh thói quen và kỹ năng cầm bút đúng quy định. Đồng thời mỗi giáo viên cần có những trang bị sơ giản nhất về cách khắc phục và sử lý những hỏng hóc thông thường khi sử dụng bút, như vậy việc sử dụng bút mực mới đem lại hiệu quả và các lợi ích mà viết bút bi không thể có được.
Toàn bộ phần kỹ năng cơ bản được tôi hướng dẫn cho học sinh trong tháng 9. 2008.
Các tháng tiếp theo các kỹ năng vẫn được giáo viên nhắc nhở và uốn nắn thường xuyên trong các tiết chính tả. Đặc biệt việc chấm bài không chỉ dừng lại ở việc sửa lỗi chính tả mà tôi còn chú trọng kỹ càng tới việc nhận xét cụ thể từng lỗi kỹ thuật viết của từng học sinh, không gạch dưới những chữ viết sai và nhận xét một cách chung chung trước lớp. Mỗi tiến bộ của các em đều được tuyên dương khích lệ kịp thời để động viên khuyến khích các em. Có biện pháp giúp đỡ kịp thời đối với những học sinh yếu để các em theo kịp các bạn, không chán nản, không ngồi chơi vì không theo kịp các bạn hoặc không nhớ bài viết.
Mỗi tháng, vào tiết sinh hoạt tập thể cuối tuần lớp đều tổ chức thi vở chính tả giữa các tổ, các cá nhân. Có đánh giá cụ thể và rất chi tiết. Phần thưởng rất nhỏ được trích từ quỹ lớp, có thể là cuốn vở, cây bút nhưng cũng tạo được không khí thi đua rất sôi nổi trong lớp. Không những thế phong trào còn được nhân rộng trong toàn trường.
Động viên học sinh viết bút mực chứ không sử dụng bút bi theo thói quen.
Giáo viên thực sự trở thành tấm gương để học sinh noi theo. Tất cả các tiết học, khi viết bảng tôi đều rất chú trọng đến việc viết và trình bày trên bảng lớp, mỗi khi học sinh nhìn thấy chữ cô giáo đều rất thích và muốn viết theo sao cho giống như cô, như vậy việc luyên viết sẽ đạt hiệu quả rất nhanh chóng.
C. kết luận
1. Kết quả nghiên cứu :
Qua thực tế giảng dạy tại lớp, tôi nhận thấy kết quả viết chữ đẹp và trình bày bài của học sinh đã được nâng cao, năm học 2008 - 2009, tôi đã thu được một số kết quả như sau :
+ 100% học sinh trong lớp có ý thức viết bút máy. Không chỉ vậy, phong trào còn được nhân rộng khắp các lớp trong toàn trường.
+ Vở chính tả của học sinh cả lớp cuối năm đều xếp loại vở sạch chữ đẹp. Lớp được đánh giá là lớp có phong trào rèn chữ - giữ vở tốt trong trường.
Năm học 2008- 2009, Phòng Giáo dục huyện Yên Định tổ chức kì thi viết chữ đẹp vào đầu tháng 4/ 2009. Thông qua các buổi luyện viết chữ đẹp lớp 5A đã chọn được 2 học sinh dự thi - Đây là 2 em có chữ viết đẹp nhất khối.
Vận dụng các biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Chính tả, góp phần rèn luyện chữ viết cho HS kết hợp với sự chỉ đạo của Sở GD-ĐT Thanh Hoá, phòng GD Yên Định về việc tổ chức cho HS luyện viết vào các cuốn vở luyện viết do Sở GD
Thanh Hoá phát hành ( cụ thể đối với lớp 5 là 2 cuốn : “ Những điều nên biết” và “ Kể chuyện Bác Hồ” ) đã mang lại hiệu quả rõ rệt . Trong đợt kiểm tra VSCĐ vừa qua lớp tôi đã đạt được kết quả như sau:
Sĩ số
Loại A
Loại B
Loại C
25
Số lượng
Đạt
Số lượng
Đạt
Số lượng
Đạt
23
92%
2
8%
0
0%
Như vậy, so với kết quả khảo sát đầu năm, đến tháng 2 / 2009 , lớp 5A đã có thêm:
15 HS đạt VSCĐ loại A tăng : 60%, 8 HS đạt VSCĐ loại B, Không có HS xếp loại C .
Qua một năm thực tế giảng dạy phân môn chính tả và rèn chữ viết cho học sinh theo QĐ 31/QĐ - BGD và ĐT và thực hiện chương trình rèn chữ và trình bày bài đẹp cho học sinh, tôi thấy rằng việc luyện chữ trong nhà trường là rất quan trọng và cần thiết, vì vậy mỗi giáo viên nên luôn luôn không ngừng sáng taọ, tích luỹ kinh nghiệm giảng dạy. Thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
Qua đề tài này tôi muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc rèn chữ viết và trình bày bài đẹp cho học sinh. Đồng thời muốn trao đổi kinh nghiệm của mình cùng đồng nghiệp để phong trào rèn chữ đẹp- giữ vở sạch cho học sinh ngày càng phát triển mạnh mẽ. Sao cho học sinh yêu thích môn học chính tả và háo hức mong chờ tiết học như tất cả các môn học khác như: Mỹ thuật, Hát nhạc, Tập đọc...Trong đề tài chắc chắn không tránh được những thiếu sót, hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các đồng chí đồng nghiệp.
2 . Kiến nghị đề xuất :
- Đối với nhà trường duy trì tốt phong trào “Giữ vở sạch – Viết chữ đẹp”, hàng tháng tổ chức cho học sinh toàn trường thi viết chữ đẹp . Khuyến khích học sinh trong toàn trường viết bắng bút máy thay cho bút bi .
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Thống Nhất, Ngày 15 tháng 3 năm 2009
Người viết
Phạm Thị Hường
File đính kèm:
- SKKM mon tieng viet(1).doc