Hiện nay, tình trạng học sinh chây lười học bài trở nên phổ biến nhất là đối với các môn khoa học xã hội nói chung và môn Ngữ văn nói riêng.Trong giờ học, các em luôn có những biểu hiện tiêu cực như: ít phát biểu, khả năng đọc bài yếu kém, khả năng diễn đạt trong quá trình làm bài lủng củng, thiếu mạch lạc và hành văn không mang tính văn chương. Đặc biệt là kỹ năng trình bày bài luyện nói trước tập thể của các em rất yếu kém: không tự tin và tác phong không nghiêm túc.
11 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1267 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số sáng kiến-Kinh nghiệm nhằm giúp học sinh hứng thú với môn học ngữ văn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài:
*****
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Hiện nay, tình trạng học sinh chây lười học bài trở nên phổ biến nhất là đối với các môn khoa học xã hội nói chung và môn Ngữ văn nói riêng.Trong giờ học, các em luôn có những biểu hiện tiêu cực như: ít phát biểu, khả năng đọc bài yếu kém, khả năng diễn đạt trong quá trình làm bài lủng củng, thiếu mạch lạc và hành văn không mang tính văn chương. Đặc biệt là kỹ năng trình bày bài luyện nói trước tập thể của các em rất yếu kém: không tự tin và tác phong không nghiêm túc.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1/ Cơ sở lý luận:
Trước thực trạng đó gióa viên không nên chán nản, bỏ cuộc và đổ tất cả lỗi cho học sinh. Người xưa có câu: “Tiên trách kỷ-hậu trách nhân”, muốn trách người thì phải trách mình trước! Tôi nghĩ rằng mỗi giáo viên cần xem lại phương pháp dạy của mình, cách thức truyền đạt kiến thức của mình đến học sinh. Quan trọng là thái độ của người dạy đối với người học như thế nào trong những tình huống người học có lỗi như: không thuộc bài, không làm bài, làm chuyện riêng, phát biểu linh tinh…Nói chung là phải có lòng bao dung, vị tha, phải đứng trên quan điểm khách quan, có sự nghiên cứu tìm ra giải pháp để lôi cuốn học sinh đến gần hơn và yêu thích hơn với bộ môn.
2/ Cơ sở thực tiễn:
Trong học tập là thế, nhưng các em lại rất hiếu động và dễ bị ảnh hưởng bởi những hoạt động mới lạ. Chính vì thế mà các em dễ bị sa vào các trò game... Khi bàn luận về vấn đề phim ảnh, những vấn đề vui chơi của giới trẻ thì các em lại rất hào hứng và ngôn ngữ sử dụng phần nhiều là tiếng lóng, từ ngữ sử dụng không đúng chính tả mà là ngôn ngữ của “chat” trên mạng như: “pít rùi” (biết rồi); “h’ nèy” (giờ này); “cug” (cũng); “lun” (luôn); “zậy” (vậy); “bùn wá” (buồn quá); “phẽ ko” (khỏe không)…
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã thu thập thêm một số nguyên nhân khiến học sinh học tập không đạt chất lượng.
- Do không có sự chuẩn bị bài tốt như: không đọc trước văn bản, không học bài cũ, không soạn bài mới …
- Do tính đặc trưng của bộ môn: đòi hỏi học sinh phải đọc bài nhiều lần trước khi phân tích văn bản.
- Ý thức tự giác học tập ở các em không có.
- Gia đình chưa thật sự quan tâm. Nhất là không coi trọng các môn xã hội, trong đó có môn Ngữ văn.
- Phương pháp dạy của giáo viên chưa thật sự lôi cuốn học sinh.
- Điều quan trọng là các em không thích Ngữ văn.
Thái độ học tập như thế thì làm sao việc học có chất lượng được. Nhất là qua kiểm tra chất lượng đầu năm đã làm cho người giáo viên giảng dạy phải đau lòng trước công sức mà mình đã bỏ ra:
LỚP
SĨ SỐ
GIỎI
KHÁ
T.BÌNH
YẾU
KÉM
9A1
38
02
08
26
02
/
9A2
42
01
05
29
06
01
TC:
80
03
13
55
08
01
Trước tình hình đó, tôi rất lo lắng và quyết tâm phải tìm ra những giải pháp hầu giúp các em có thái độ học tập nghiêm túc hơn. Dẫu biết rằng đưa ra những sáng kiến, những cách làm sẽ vướng phải khó khăn, nhưng dù sao tôi cũng phải cố gắng để không tự hổ thẹn với lương tâm của mình. Bởi vì các em cũng chỉ là những đứa học trò “ăn chưa no, lo chưa tới” và nhất là phần lớn các em được sinh ra và lớn lên trong môi trường thiếu sự chăm sóc, giáo dục toàn diện của gia đình. Và thật lòng mà nói, tôi xem các em như những đứa em của mình nên tôi nghĩ là mình phải có trách nhiệm đối với kết quả học tập của các em!
Điều mà tôi ôm ấp và quyết định thực hiện là sẽ đổi mới một số hình thức trong quá trình giảng dạy, kết hợp phương pháp truyền thống để áp dụng phù hợp cho từng đối tượng học sinh.
Một trong những hoạt động dạy học có tên gọi “Em tập làm giáo viên tương lai!”. Tên gọi như vậy để phần nào gây sự hứng thú cho các em tham gia. Nội dung của chương trình này là hình thức hóa việc kiểm tra bài soạn của các em, chỉ riêng ở phân môn Ngữ văn: Các em sẽ trình bày phần soạn văn bản của mình trước lớp. Để thực hiện có hiệu quả công việc này và nhất là cho các em nghiêm túc tham gia, bản thân giáo viên và học sinh cần phải thực hiện từng bước như sau:
3/ Nội dung nghiên cứu:
Chất lượng học tập của học sinh sa sút do nhiều nguyên nhân và muốn khắc phục được thực trạng trên thì cần phải phối hợp thực hiện nhiều hoạt động. Đó chính là lý do tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Một số sáng kiến-kinh nghiệm nhằm giúp học sinh hứng thú với môn Ngữ văn”.
3.1-Hoạt động chính khóa “EM TẬP LÀM GIÁO VIÊN TƯƠNG LAI”
a) Đăng ký danh sách:
- Mỗi tổ sẽ đề cử từ một đến hai học sinh tham gia thuyết trình (tất cả học sinh còn lại vẫn soạn bài theo quy định).
- Học sinh được chọn phải có thái độ, tác phong học tập nghiêm túc để việc soạn bài, trình bày bài soạn đạt kết quả tốt.
b) Đăng ký văn bản:
- Sau khi đã có danh sách, các em thảo luận để đưa ra sự thống nhất về việc lựa chọn văn bản nhằm mục đích cùng soạn và cùng trình bày một văn bản.
- Thời gian cho các em chuẩn bị soạn bài ít nhất phải là một tuần.
c) Công việc chuẩn bị:
- Sau khi các em đã soạn xong, giáo viên cần xem lại để giúp các em sửa chữa những lỗi cần thiết về: từ ngữ sử dụng, cách diễn đạt. Hướng các em biết phát hiện nghệ thuật sử dụng để từ đó triển khai nội dung.
- Hướng dẫn học sinh về tư thế, tác phong khi thuyết trình. Đặc biệt là khả năng tự tin trước tập thể.
- Lưu ý cho các em chuẩn bị lời tự giới thiệu trước khi thuyết trình và lời chúc, lời cảm ơn sau khi kết thúc phần trình bày.
d)Tiến hành thuyết trình :
- Thời gian cho mỗi em thuyết trình từ 7-10 phút và mỗi tiết sẽ thực hiện 3 học sinh/3 tổ.
- Trong lúc các bạn thuyết trình về bài soạn của mình, cả lớp chú ý lắng nghe, đối chiếu với nội dung, kiến thức của bài mình soạn. Đồng thời kết hợp ghi chép lại những ưu điểm, nhược điểm qua phần trình bày của bạn.
e) Đánh giá kết quả:
- Sau phần trình bày của các bạn, cả lớp đóng góp ý kiến để xây dựng cấu trúc bài dạy, thống nhất về nội dung bài, chốt lại các ý chính để học sinh ghi vào vở học.
- Giáo viên tổng hợp ý kiến đóng góp của học sinh, đưa ra kết luận chung đối với các em thuyết trình để giúp các em rút ra kết luận cho những lần thực hiện sau.
- Công bố điểm cho các cá nhân thuyết trình bài soạn, cá nhân đóng góp ý kiến và điểm khích lệ cho các tổ đã thảo luận và hỗ cho các bạn trong tổ trong quá trình soạn bài.
3.2- Hoạt động: “LUYỆN TẬP ĐỂ VIẾT ĐÚNG CHÍNH TẢ”
*Nội dung:
- Học sinh luyện tập trên lớp và ở nhà những bài tập thông qua những từ ngữ thường dễ sai chính tả. Sau đó nâng dần lên với những đoạn văn để học sinh rèn luyện.
- Tự bắt lỗi và sửa lỗi chính tả của mình qua các bài viết tập làm văn.
*Mục đích:
- Giúp học sinh có ý thức trong việc sử dụng từ ngữ đúng, không sai chính tả.
- Thấy được tầm quan trọng của việc viết đúng chính tả.
*Biện pháp thực hiện:
- Cung cấp cho học sinh các mẹo về sử dụng dấu ngã và dấu hỏi đối với từ láy là: “Huyền ngã nặng, sắc hỏi không”.
+ Nghĩa là sử dụng dấu ngã đối với từ láy có dấu huyền và dấu nặng như: dễ dàng, rõ ràng, buồn bã, hững hờ, cái cọ, rõ rệt, mạnh mẽ,đẹp đẽ, gặp gỡ...
+ Sử dụng dấu hỏi đối với từ láy có dấu sắc và không dấu: sửa sang, hăm hở, gửi gắm, rải rác, thong thả, mát mẻ, bảnh bao, sắm sửa...
Để dễ nhớ, có thể cho học sinh học thuộc quy tắc xử dụng dấu ngữ, dấu hỏi bằng các câu thơ sau:
Chị Huyền vác nặng ngã đauAnh Sắc không hỏi một câu được là
- Cung cấp cho học sinh các mẹo về sử dụng dấu ngã và dấu hỏi đối với từ Hán-Việt:
+Sử dụng dấu ngã khi có phụ âm đầu là: l (dũng, dữ, dưỡng...) , l (lãm, lãnh, lĩnh, lễ, liễu, lỗi...) , m (mẫu, mã, mẫn, mỹ, miễn...), n, nh, ng, ngh (não, ngã, ngãi, ngũ, nghĩa, nghĩ, nghiễm...), v (vãng, vỹ, võ, vũ, võng...).
+Sử dụng dấu hỏi khi có phụ âm đầu là: ch (chuẩn, chỉnh, chuyển, chưởng...), gi (giải, giả, giảng, giản...), kh (khải, khả, khởi, khuẩn, khẩn, khổ, khuyển...), và các từ Hán- Việt không có phụ âm đầu như: ải, ảm, ảnh, ảo, ẩm, ấn, ẩu, ổn, uẩn, ủng, uổng, uỷ, uyển, ỷ, yểm, yểu.
- Ghi nhớ những từ ngữ thường dễ mắc lỗi chính tả thông qua thơ và những đoạn văn để dễ ghi nhớ. Ví dụ như:
+Từ “tấc” (10 cm) chỉ có một trường hợp và phụ âm cuối là “c”, đọc là “xê”:
Thước xê (c) thì tấc cũng xê
Tấc xê có một, tấc xê tới mười
+Từ “chặt” phụ âm cuối là “t”, đọc là “tê”:
Chặt là tê, tê mà thôi
Ai mà viết trật là tôi đánh đòn
+Từ “phác” phụ âm cuối là “c”, đọc là “xê”:
Cô C (xê) chất phác hiền lành
Óc luôn phác họa chương trình làm ăn
+Từ “băn khoăn” và “bâng khuâng”:
Băn khoăn ăn nói ngại ngùng
Bâng khuâng vâng dạ mà lòng quạnh hiu
+Cách nhớ các tiếng có phụ âm cuối là “c” và “t” thông qua những câu bình thường như:
.Lác đác đó đây: người mắt lác, kẻ bệnh lác, ngồi chiếu lác.
.Nghe mùi thơm nức mà nghe nức nở trong lòng.
.Tà áo là lượt, đi lượt thượt, qua nhà ba lượt.
+Cách nhớ các tiếng có phụ âm đầu là “gi” và “d” thông qua đoạn văn:
Phụ âm “gi”: Giò heo giấu trong giỏ, treo ở giàn hoa, kề giậu. Cá giếc thích ăn giòi, giun và gián mắc câu nằm giãy giụa. Người giằm ớt, giã tỏi, pha giấm. Giả sử trong giây lát bị người gièm pha, đùa giỡn, giễu cợt cũng chớ giận. Chớ giật mình, mà cứ giơ tay giãy bày, đừng để dằn vặt làm gì. Mà cứ giục giã giặm lúa giâm cành, gié lúa sẽ thành giạ lúa…
Phụ âm “d”: Ông trọng danh dự, nhà dư dật, tính dữ dằn, ưa dụ dỗ, tay cầm dây dẻo và cái dùi, đi mấy dặm, dọc dãy phố đến dòng sông. Dải áo tung bay, hình dáng dịu dàng, nhìn dấu tích dọc ngang nhớ dịp nào dồn dập những dỗ dành, dối tá, đầy dãy những dính líu dọa nạt, dằn lòng không được nổi dóa…
3.3- Hoạt động ngoại khóa: “SƯU TẦM VĂN THƠ”
*Nội dung:
- Học sinh thuộc những bài thơ, đoạn thơ, đoạn văn được học trên lớp
- Yêu cầu học sinh sưu tầm những bài thơ, những đoạn văn hay, tóm tắt tiểu sử các tác giả, nội dung và nghệ thuật của tác phẩm truyện...được học trên lớp.
- Ghi chép những câu ca dao, thành ngữ, tục ngữ và những câu nói hay...
*Mục đích:
- Giúp học sinh có thói quen sưu tầm văn thơ, thói quen ghi chép những tác phẩm hay.
- Trau dồi khả năng cảm thụ cái hay, cái đẹp trong văn chương.
- Có thói quen tìm đọc đầy đủ các tác phẩm văn học Việt Nam, văn học thế giới, nhất là các đoạn trích có trong chương trình học.
- Trau dồi “lời hay, ý đẹp” trong quá trình giao tiếp, trong rèn luyện dùng từ, đặt câu trong viết văn.
*Biện pháp thực hiện:
a) Về phía Học sinh:
- Sưu tầm văn thơ.
- Soạn bài theo quy định mỗi khi học bài mới.
- Tìm đọc đầy đủ các tác phẩm văn-thơ đã được học qua các đoạn trích như: “Những ngày thơ ấu (Nguyên Hồng); “Lão Hạc” (Nam Cao), “Truyện ngắn Nam Cao”; “Tắt đèn”; “Chiếc lá cuối cùng”; “Cô bé bán diêm”; “Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long); “Chiếc lược ngà”(Nguyễn Quang Sáng)…Các tập thơ của các tác giả như: thơ Tố Hữu, thơ Xuân Diệu, thơ Xuân Quỳnh, thơ Huy Cận…Tác phẩm truyện thơ Nôm như: “Truyện Kiều” (Nguyễn Du); “Lục Vân Tiên” (Nguyễn Đình Chiểu)…
- Học thuộc lòng các tác phẩm, các đoạn trích theo yêu cầu môn học. Khích lệ các em học thuộc lòng các truyện thơ Nôm là “Truyện Kiều” và “Lục Vân Tiên”.
b) Về phía Giáo viên:
- Yêu cầu và kiểm tra thêm Sổ tay sưu tầm văn thơ của học sinh.
- Giáo viên kiểm tra bài cũ phải kiểm tra tập soạn. Có thể giao việc cho các tổ trưởng và phó học tập kiểm tra và báo cáo việc soạn bài của tổ viên.
- Sưu tầm và trang bị cho bản thân những quyển sách cần thiết để phục vụ cho nhu cầu của việc dạy. Khi yêu cầu học sinh thực hiện thì bản thân giáo viên phải gương mẫu trong việc sử dụng tốt tư liệu và đồ dùng dạy học.
- Cung cấp cho các em những mẩu chuyện có liên quan đến điển tích, điển cố, thành ngữ…của các bài học có trong chương trình.
Ví dụ:
- Các tiết “Tổng kết về từ vựng” và “Trau dồi vốn từ” có một số từ ngữ khó liên quan đến điển tích hay như:
+Tri âm (tri: biết, âm: âm thanh). Có tích từ truyện “Bá Nha-Tử Kỳ”: Khi Bá Nha đánh đàn, diễn tả tâm tư, tình cảm, cảnh vật thông qua tiếng đàn, chỉ có Tử Kỳ là người biết nghe và hiểu tiếng đàn ấy.
+Khối tình (chỉ khối máu nơi trái tim của người có tình yêu đơn phương, khi hỏa táng hoặc khi chôn xuống đất lâu ngày vẫn không tiêu biến). Có tích từ truyện “Người lái buôn” của Trung Quốc và truyện Trương Tri-Mỵ Nương của Việt Nam.
…
- Các thành ngữ trong “Truyện Kiều” và các tiết “Tổng kết về từ vựng” như:
+Dùi đục chấm mắm cáy (Dùi đục bị đọc chệch của từ Bầu dục là cật heo. Là món ăn ngon rất bổ mà người Bắc thường hay luộc vừa chín, thái thành lát mỏng, chấm nước mắm chanh. Vậy mà cái món ngon ấy lại đem chấm với mắm cáy, một thứ mắm xoàng nhất, có thể nói là mạt hạng trong các loại mắm ở vùng biển. Mắm cáy chỉ dùng để ăn với rau muống, dưa, cà...Nghĩa của thành ngữ “bầu dục chấm mắm cáy” hình thành trên cơ sở của sự chênh lệch hay tính không tương xứng giữa món ăn với gia vị).
+Nghiêng nước nghiêng thành: Ngày xưa có một người con gái đẹp, nhìn một cái thì làm cho thành trì nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
- Những hoạt động ngoại khóa như: “Nấu cơm Quang Trung”; “Hò Vân Tiên”; Đố vui “Truyện Kiều”:
Hỏi:
1-“Truyện Kiều em học đã lâu
Đố em đọc được hai câu mở đầu?
2-“Truyện Kiều em học đã lâu
Đố em đọc được hai câu kết Kiều?
3-“Truyện Kiều em học đã nhiều
Đố em đọc được câu Kiều năm “cho”?
4-“Truyện Kiều có mấy ngàn câu
Em mà nói được là người nhớ lâu?”
………………………..
Đáp:
1-Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
2-Lời quê chắp nhặc dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh
3-Làm cho cho mệt cho mê
Làm cho dan díu ê chề cho coi
4-Câu này có khó gì đâu
Ba hai năm bốn nhớ ngay nói liền!
(3 254 câu)
3.4- Hoạt động về nguồn: “THAM QUAN DI TÍCH LỊCH SỬ”
Mộ cụ Phan Văn Trị -Phong Điền Chùa Ông –Ninh Kiều
*Nội dung:
- Nắm được nguồn gốc và giới thiệu được các di tích văn hóa-lịch sử của địa phương.
- Đăng ký chăm sóc, bảo vệ một di tích văn hóa-lịch sử có ở địa phương.
*Mục đích:
- Giáo dục lòng yêu quê hương đất nước, tinh thần tự hào về các di tích văn hóa-lịch sử có ở địa phương nói riêng và của nước Việt Nam nói chung.
- Biết đưa những hiểu biết về di tích văn hóa-lịch sử vào các tiết học về chương trình địa phương phần văn.
- Có ý thức về việc bảo vệ và chăm sóc di tích văn hóa-lịch sử ở địa phương nói riêng và cả nước nói chung.
*Biện pháp thực hiện:
a) Về phía Học sinh:
- Nghiêm túc tham gia các buổi tham quan dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Có thái độ nghiêm túc và ghi chép cẩn thận trong quá trình tham quan.
a) Về phía Giáo viên:
- Lên kế hoạch tham quan học tập, tham quan di tích lịch sử…với Ban giám hiệu trường; phối hợp với các Đoàn thể, các tổ khối có liên quan để cùng thực hiện (phối hợp với tổ Lịch sử-Địa lý-Giáo dục công dân cùng tham gia).
- Tham nưu với địa phương để nắm thêm những sự kiện có liên quan đến địa điểm cần tham quan.
- Phối hợp với Đoàn-Đội để tiếp quản lý học sinh.
- Sau buổi tham quan phải có tổng kết, nhận xét và rút kinh nghiệm.
- Làm báo cáo với Ban giám hiệu nhà trường và Đoàn thể.
3.5- Hoạt động phong trào: “TUYÊN TRUYỀN GIỚI THIỆU SÁCH”
*Nội dung:
- Biết cách tóm tắt văn bản tự sự có trong chương trình trung học cơ sở.
- Tóm tắt được truyện ngắn; giới thiệu sơ lược về thân thế sự nghiệp của một tác giả, một nhóm tác giả; biết cách nêu được đặc điểm nổi bật của một quyển sách hay…
- Giới thiệu được những quyển sách mới về của thư viện trường.
- Ghi chép những câu ca dao, thành ngữ, tục ngữ và những câu nói hay...
*Mục đích:
- Rèn luyện khả năng diễn đạt trôi chảy trong giao tiếp với mọi đối tượng trong cuộc sống hàng ngày.
- Khả năng phát biểu lưu loát trong giờ học và phát biểu trước tập thể.
- Hình thành kỹ năng tự tin trước đông người…
*Biện pháp thực hiện:
a) Về phía Học sinh:
- Tóm tắt các văn bản tự sự đã học trong lớp.
- Chuyên cần luyện tập tóm tắt văn bản.
- Hăng hái xung phong trong các giờ luyện nói trên lớp. Mạnh dạn đăng ký tuyên truyền giới thiệu sách do Thư viện trường, của Phòng GD&ĐT huyện phát động.
b) Về phía Giáo viên:
- Thực hiện tốt và đầy đủ các giờ luyện nói về tóm tắt văn bản trên lớp.
- Kết hợp với Đoàn-Đội, với Thư viện thường xuyên tổ chức các hoạt động như: “Phát thanh Măng non”, Kể chuyện Bác Hồ, Kể chuyện “Người tốt-việc tốt”; tuyên dương “Người thật-việc thật”...
- Tham mưu với Thư viện thường xuyên tổ chức các buổi giới thiệu sách mới của Thư viện; Tuyên truyền giới thiệu sách.
3.6- Hoạt động hỗ trợ: “QUAN TÂM HỌC SINH CÁ BIỆT”
*Nội dung:
-Quan tâm đến học sinh cá biệt.
- Học sinh có học lực yếu-kém.
*Mục đích:
- Nâng cao chất lượng đại trà.
- Giúp các học sinh yêu thích bộ môn văn.
*Biện pháp thực hiện:
- Trước tiên, tôi lập danh sách những em học yếu kém và không chịu học.
- Trong quá trình giảng dạy, tôi đặc biệt quan tâm đến các em thông qua các việc làm đơn giản và cụ thể như: yêu cầu các em đọc bài, gọi các em phát biểu và trả lời những câu hỏi với kiến thức đơn giản, phù hợp với năng lực của các em. Các em được gọi kiểm tra bài cũ nhiều lần so với học sinh khá giỏi.
- Nếu các em không thuộc bài lần đầu, có thể cho các em kiểm tra bài cũ ở lần sau chứ không nên cho các em điểm yếu kém. Việc làm trên giúp cho các em tránh được được sự mặc cảm vì cho rằng mình không có năng lực học. Từ đó các em sẽ dễ nản lòng, dẫn đến việc các em chán học, bỏ học.
- Chú ý và tìm hiểu xem các em bị hổng kiến thức ở phần nào để tìm cách phụ đạo riêng cho các em. Việc quan tâm đến các học sinh cá biệt này phải tế nhị và tránh làm cho các em bị mặc cảm.
- Điểm của các em cũng được khích lệ hơn và đặc biệt là tránh không - Điểm kiểm tra bài cũ của các em ở mỗi cột là điểm trung bình của từ ba đến năm cột điểm. Mục đích là để theo dõi quá trình tiến bộ của các em, kịp thời nhắc nhở và động viên.
- Nên có sơ-tổng kết bộ môn ở từng giai đoạn nhằm kịp thời tuyên dương, khen thưởng những học sinh đạt thành tích cao trong bộ môn, luôn cả những em có sự tiến bộ trong học tập.
4/ Hiệu quả:
Các hoạt động trên tôi vừa áp dụng vào đầu năm học và mới thí điểm ở lớp 9A1, 9A2. Qua quá trình thực hiện tôi rút ra được kinh nghiệm như sau:
- Đối với hoạt động: “Em tập làm giáo viên tương lai”, các em rất hứng thú với việc đăng ký thuyết trình bài soạn. Có em đã cố gắng thuộc lòng bài để thuyết trình một cách lưu loát bài soạn của mình.
- Mỗi học sinh thuyết trình đều cố gắng thể hiện tốt năng lực của mình. Em thực hiện sau rút kinh nghiệm thực hiện tốt hơn em thực hiện trước.
- Những em không thực hiện đều có sự hiếu kỳ, rất chú ý quan sát cách thực hiện của các bạn.
- Kết thúc tiết học, các em được khắc sâu kiến thức vì được nghe thuyết trình nhiều lần. Nhất là đối với các em thuyết trình thì hiểu bài, nhớ bài và có ấn tượng về bài học mà bản thân mình đã có dịp trình bày trước lớp.
- Những hoạt động ngoại khóa, hoạt động hỗ trợ cho việc học môn văn, học sinh cũng được học sinh nhiệt tình hưởng ứng. Trong các buổi báo cáo thi đua củ các lớp trong sinh hoạt dưới cờ, phát biểu cảm nghĩ trong các buổi lễ, tuyên truyền giới thiệu sách…Khả năng thuyết trình của các em có tiến bộ rõ rệt, tự tin và phong cách cũng trở nên chững chạc hơn.
- Trong giờ ra chơi, các em thích đến thư viện để tranh thủ đọc sách báo. Kết quả của tuyên truyền giới thiệu sách mỗi năm đều có học sinh tham gia và được công nhận.
- Việc tham quan học tập ngoại khóa cũng được học sinh đăng ký nhiều hơn.
- Các cuộc thi do Huyện đoàn triển khai, phát động đều được các em tham gia đầy đủ như: viết thư UPU, Nét bút tri ân…
- Các em đã bắt đầu tham gia viết báo (Có 2 bài viết của 2 học sinh được đăng trên đặc san Tây Đô của Sở GD&ĐT Cần Thơ.
Minh chứng của các việc làm trên là các em đã chịu học đăng ký thi Học sinh giỏi bộ môn Ngữ văn đạt 04/04 cấp huyện và 01/01 khuyến khích cấp thành phố. Chất lượng cuối năm đạt được như sau:
LỚP
SĨ SỐ
GIỎI
KHÁ
T.BÌNH
YẾU
KÉM
9A1
38
07
11
20
/
/
9A2
42
03
07
32
/
/
TC:
80
03
13
55
08
01
III-KẾT THÚC VẤN ĐỀ:
*Bài học kinh nghiệm:
- Sự thành công hay thất bại có những yếu tố khác quan những cái chính vẫn là do bản thân quyết định. Vì vậy khi đã làm việc gì thì phải cố gắng, kiên trì nhẫn nại để thực hiện đến cùng những điều mình đã vạch ra. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các công việc trên phải biết linh động và áp dụng theo đặc điểm của từng lớp.
- Sau hoạt động cần có sự ghi nhận, tổng kết và đánh giá để rút kinh nghiệm.
- Thực hiện thường xuyên và không ngừng cải tiến cho phù hợp với đặc điểm tình hình của môi trường giáo dục, của địa phương…(việc bảo vệ và chăm sóc di tích lịch sử, di tích văn hóa…).
- Phối hợp và trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp trong quá trình thực hiện.
Mặc dù có những việc làm tưởng chừng như đã quá quen thuộc với những giáo viên đến lớp. Nhưng với tôi, điều đó sẽ khó khăn nếu như chúng ta không thực hiện thường xuyên, kiên trì, bền bỉ…Bởi cuộc sống có những bề bộn lo toan mà chúng ta phải đương đầu; học sinh thì cũng rất dễ sa vào các tệ nạn xã hội nếu chúng ta buông lơi vòng tay yêu thương, lơ đà sự quan tâm đối với các em. Vì vậy, kiên định với những công việc đã làm sẽ tiếp tục thực hiện các hoạt đông trên đối với học sinh là phương châm của tôi. Như người xưa thường nói “Vạn sự khởi đầu nan”! Bước đầu thực hiện chắc không tránh khỏi những khó khăn nhất định. Tuy nhiên, tôi vẫn sẽ cố gắng, kiên trì theo đuổi kế hoạch mà mình đã vạch ra với mục đích “Tất cả vì đàn em thân yêu”!
*Kiến nghị:
- Đối với Ban giám hiệu trường và Đoàn thể, tôi rất mong được sự thống nhất và nhiệt tình ủng hộ về việc tổ chức các buổi tham quan ngoại khóa. Đặc biệt là tìm được tiếng nói chung của đồng nghiệp ở các bộ môn khác. Từ đó có thể nhân rộng mô hình nhằm hướng học sinh rèn luyện kỹ năng sống, khả năng phát triển tư duy, khả năng hoạt động độc lập, khả năng phối hợp, khả năng tự tin khi thuyết trình trước đông người…
- Đối với Tổ thư viện, mong được bổ sung những loại sách có trong chương trình học đê các em tham khảo.
* Kế hoạch năm sau:
- Tiếp tục thực hiện những kinh nghiệm đã đúc kết được trên cơ sở có bổ sung và điều chỉnh các hoạt động.
- Hướng nghiên cứu và phát triển của đề tài trên là tôi sẽ biên soạn một quyển sách về những mẹo vặt để viết đúng chính tả dưới dạng văn vần, cho các em dễ thuộc, giúp học sinh tránh được những lỗi chính tả thường gặp.
*Tài liệu tham khảo:
1- Từ điển tiếng Việt ( Các tác giả: Nguyễn Như Ý, Đỗ Việt Hùng, Phan Xuân Thành).
2- Từ điển Hán-Việt (Tác giả Đào Duy Anh).
3- Những điển tích hay trong Truyện Kiều (Tác giả Phạm Đan Quế-sưu tầm và biên soạn).
Ý kiến đánh giá, nhận xét:
Ngày 25 tháng 10 năm 2011 Giáo viên thực hiện
File đính kèm:
- SKKS 2011-2012.doc