Như chúng ta đã biết, nhiệm vụ giáo dục Mầm non là khâu đầu tiên của hệ thống giáo dục Quốc dân. Giáo viên Mầm non được xem là người thầy đầu tiên đặt nền móng cho việc đào tạo nhân cách con người mới cho xã hội chủ nghĩa, tuỳ theo mỗi độ tuổi mà giáo dục khác nhau. Tuổi Mẫu giáo trẻ mới bắt đầu trong quá trình học nói, chính vì vậy mà cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ, đặc biệt là Dân tộc thiểu số là vô cùng quan trọng. Bởi vì các cháu dân tộc thiểu số thường hay dùng tiếng mẹ đẻ của trẻ, nên khó khăn trong việc tiếp nhận Tiếng việt, dẫn đến cháu khó tiếp thu lời giảng của cô bằng ngôn ngữ Tiếng việt. Chính vì vậy việc cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ Dân tộc thiểu số là vấn đề cần được quan tâm, nhằm hình thành và phát triển những kỷ năng cần thiết cho việc học Tiếng việt ở lớp một phổ thông.
9 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 2346 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. ĐỀ TÀI: MỘT VÀI KINH NGHIỆM CUNG CẤP VỐN TIẾNG VIỆT CHO TRẺ DÂN TỘC THIỂU SỐ
II. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Như chúng ta đã biết, nhiệm vụ giáo dục Mầm non là khâu đầu tiên của hệ thống giáo dục Quốc dân. Giáo viên Mầm non được xem là người thầy đầu tiên đặt nền móng cho việc đào tạo nhân cách con người mới cho xã hội chủ nghĩa, tuỳ theo mỗi độ tuổi mà giáo dục khác nhau. Tuổi Mẫu giáo trẻ mới bắt đầu trong quá trình học nói, chính vì vậy mà cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ, đặc biệt là Dân tộc thiểu số là vô cùng quan trọng. Bởi vì các cháu dân tộc thiểu số thường hay dùng tiếng mẹ đẻ của trẻ, nên khó khăn trong việc tiếp nhận Tiếng việt, dẫn đến cháu khó tiếp thu lời giảng của cô bằng ngôn ngữ Tiếng việt. Chính vì vậy việc cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ Dân tộc thiểu số là vấn đề cần được quan tâm, nhằm hình thành và phát triển những kỷ năng cần thiết cho việc học Tiếng việt ở lớp một phổ thông.
III. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta sử dụng lời nói để trò chuyện, đàm thoại, thảo luận, trình bày những hiểu biết, suy nghĩ, giải thích một vấn đề nào đó trong cuộc sống như: Kể lại được sự việc, câu chuyện đã được nghe, được chứng kiến, hay tự mình nghĩ ra, sáng tạo ra. Trẻ cần tập nghe, hiểu lời nói của cô của những người xung quanh. Sau đó tập trình bày suy nghĩ và sự hiểu biết của mình theo ngôn ngữ Tiếng việt. Muốn phát triển ở trẻ kỷ năng, hiểu và nói được ngôn ngữ Tiếng việt theo cô, theo tôi trước hết phải cuốn hút trẻ tham gia vào hoạt động phát triển ngôn ngữ qua trò chuyện, đàm thoại, kể chuyện, đọc cho trẻ nghe, cho trẻ làm quen với chữ cái và thông qua các môn học khác, hoặc ở mọi lúc mọi nơi... Là vô cùng quan trọng nhưng hình thành như thế nào đây mới thật là điều không phải dễ.
IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Năm nay tôi được trường phân công dạy lớp lớn ghép Yều, tổng số cháu là 14 cháu. Trong đó độ tuổi lớn chỉ có 4 cháu, còn lại là nhỡ và bé. Hầu hết các cháu chưa được học, chưa có ý thức ham học, không chịu đến lớp để học, bản thân tôi trực tiếp đến nhà để huy động cháu ra lớp. Cháu không tích cực tham gia vào các hoạt động, cô nói điều gì trẻ cũng không hiểu cứ nhìn cô và không trả lời cô.
Tất cả đồ dùng học tập đối với trẻ cũng thật là xa lạ, nên việc học đến với trẻ cũng thật là ngỡ ngàng. Bởi vì trẻ không hiểu hết ngôn ngữ Tiếng việt của cô.
Với tình hình thực tế của lớp tôi như vậy, bản thân tôi luôn trăn trở, suy nghĩ nhiều lúc thấy vô cùng lo lắng, không biết làm gì và làm như thế nào, bằng phương pháp gì để giúp trẻ hiểu và nói được Tiếng việt một cách trôi chảy, chính vì điều băn khoăn trăn trở ấy bản thân tôi đã tìm tòi nghiên cứu một số biện pháp nhằm giúp trẻ ham thích được đến lớp, ham thích học tập, và nhất là ham học hỏi Tiếng việt để trẻ học tốt tất cả các môn học.
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
Việc cho trẻ Dân tộc thiểu số làm quen với Tiếng việt là một việc làm hết sức cần thiết, tưởng chừng như rất dễ nhưng thực tế lại rất khó, dạy trẻ làm quen với Tiếng việt là dạy cái gì, dạy như thế nào? Trẻ làm quen với tiếng việt với tư cách là bộ môn khoa học hay với tư cách là một công cụ, một phương tiện giao tiếp. Cách trả lời những câu hỏi trên sẽ liên quan tới việc lựa chọn nội dung, phương pháp cho trẻ dân tộc tiếp cận, làm quen dần với Tiếng việt. Từ đó tôi quyết định nghiên cứu những nội dung phù hợp để áp dụng vào dạy trẻ như sau:
1.Dạy trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái Tiếng việt:
Nội dung chủ yếu của việc dạy này là giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng chữ cái .Chúng ta có thể coi việc giúp trẻ làm quen với chữ cái là cốt lõi của việc làm quen với Tiếng việt có nghĩa là việc cho trẻ làm quen với chữ cái chưa phải là tất cả những nội dung công việc giúp trẻ làm quen với Tiếng việt .Cách gọi làm quen với Tiếng việt thường gợi ra một phạm vi nội dung rộng rãi hơn so với cách gọi làm quen với chữ cái .Do đó có thể thấy nội dung dạy trẻ làm quen với Tiếng việt không chỉ là dạy trẻ phát âm ,dạy trẻ tập tô 29 chữ cái mà còn dạy trẻ đọc đúng các từ, hiểu được nội dung của từ và biết dùng từ để diễn đạt thành câu, muốn được như vậy trước hết ta phải giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chư cái trong Tiếng việt.
Có một số ít trẻ nói được Tiếng việt nhưng chưa biết các chữ cái hay từ ngữ của Tiếng việt .Vì vậy ,việc dạy trẻ làm quen với chữ cái giúp trẻ nhận biết chính xác cấu tạo của chữ cái, cách phát âm để từ đó trẻ nghe cô phát âm để tìm được chữ cái tương ứng, nhìn chữ cái phát âm được chữ cái tương ứng .
Ví dụ : Hôm nay cô cho trẻ nhận biết chữ h - k chẳng hạn :
Cô cho trẻ xem tranh " Hoa loa kèn" cho trẻ đọc từ : Hoa loa kèn
Trẻ nhận biết trong từ Hoa loa kèn có bao nhiêu tiếng ? Có mấy con chữ cái ?
rồi cô ghép thẻ từ rời cho cháu nhận biết dấu thanh tìm chữ đã học rồi phát âm lại những chữ đó .Còn lại cô giới thiệu cho trẻ làm quen h- k, tôi phân tích các nét cơ bản cấu tạo nên chữ cái H-K, cho trẻ phát âm chữ h-k nhiều lần giúp trẻ khắc sâu cấu tạo của chữ cái và trẻ nhận biết một cách chính xác từng chữ cái.
2.Cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ thông qua các trò chơi chữ cái :
Sau khi giúp trẻ làm quen và nắm được 29 chữ cái trong Tiếng việt tôi tiến hành cho trẻ tham gia các trò chơi với chữ cái, cho trẻ tập tô chữ cái giúp trẻ dần dần nắm được toàn bộ hệ thống chữ cái qui định trong chương trình, đồng thời chính xác hoá cách phát âm. Do đặc điểm của lứa tuổi nên việc giáo dục trẻ mẫu giáo được tiến hành theo phương châm học bằng chơi, chơi mà học.Từ đó tôi luôn nghĩ cần phải phát huy hết tác dụng của các trò chơi để dạy trẻ .
Điều đáng chú ý là trẻ Mẫu giáo Làng yều rất ham thích được học qua hình ảnh trực quan, tổ chức hoạt động học thông qua các trò chơi .Mỗi khi được nhìn thấy đồ dùng, đồ chơi trẻ rất vui, thích tìm hiểu sờ mó và cùng nhau khám phá .nắm bắt được đặc điểm này tôi đã không ngừng học sưu tầm những trò chơi hay, mới lạ trên báo chí, thông tin đại chúng để đưa vào dạy trẻ phù hợp theo nội dung từng chủ điểm.
Ví dụ: Trò chơi tìm chữ cái H-K trong bài thơ " Hoa kết trái"
Tôi viết bài thơ lên giấy rô ki ( mỗi tờ một bài), tôi mời lớp tôi chia làm 2 đội lên dùng bút tìm và gạch chân chữ H-K có trong từ có trong mỗi câu thơ, đội nào tìm gạch chân được nhiều chữ H-K thì chiến thắng và được tuyên dương.
Tôi còn cho trẻ nhận biết và phát âm chữ cái qua nhiều trò chơi khác như " Nối chữ cái với từ có chứa chữ cái đó". " Đưa chữ cái theo yêu cầu của cô" gắn trên đồ dùng, đồ chơi, " Xếp chữ cái bằng hột hạt". " Xếp các nét cơ bản tạo thành chữ cái"...
Bên cạnh đó tôi luôn tranh thủ thời gian tự làm thêm một số đồ dùng đồ chơi để cho trẻ được thực hành trãi nghiệm. Tôi thiết nghĩ trẻ được thực hành trãi nghiệm nhiều với đồ dùng đồ chơi sẽ giúp trẻ ghi nhớ chữ cái một cách sâu sắc hơn .Từ đó cũng góp phần không nhỏ vào việc cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ. Qua một thời gian thực hiện lớp tôi tiến bộ rõ rệt, cháu hứng thứ trong học tập, nhiều cháu thuộc chữ cái và phát âm đúng chữ cái do tôi cung cấp.Tôi tiến hành áp dụng:
3.Cung cấp Tiếng việt thông qua tập tô :
Nhằm cung cấp cho trẻ những kiến thức cơ bản về cách tô nét cơ bản và tô đúng quy trình chữ cái đối với trẻ miền núi lại càng khó khăn. Vì trẻ chưa biết cầm bút ra làm sao? Nhất là ý thức học tập của trẻ chưa có, bên cạnh đó tính cách của trẻ rất hiếu động, ít chịu ngồi im và lắng nghe cô dạy. Vì trẻ từ nhỏ đã quá tự do, ít được sự quan tâm dạy dỗ của ba mẹ. Vì vậy trẻ rất cần sự uốn nén dìu dắt của cô giáo ngay từ những buổi học đầu tiên. Bản thân tôi luôn trăn trở, suy nghĩ để tìm ra những biện pháp phù hợp áp dụng vào dạy trẻ, giúp cháu tô đúng quy trình, nét tô mạch lạc, cầm bút đúng cách và ham thích học. Tất cả các thao tác tôi luôn hướng dẫn và làm mẫu cho trẻ quan sát từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó, tập dần dần cho trẻ. Như tập tô các nét cơ bản của chữ cái ( ở một số tuần đầu ) các nét thẳng, nét cong, nét móc trên , nét mọc dưới, nét khuyết trên , nét khuyết dưới... sau tập tô dần các chữ cái viết thường, in thường. Cô luyện cho trẻ tập tô chữ theo từng bước như sau: Nhận dạng mẫu chữ, tìm hiểu cấu tạo chữ gồm những nét cơ bản nào.
Ví dụ : Chữ h in thường gồm có nét thẳng đứng kết hợp nét móc trên.
Chữ h viết thường gồm có nét khuyết trên kết hợp nét móc hai đầu ...
Tôi hướng dấn cách tô như sau: Điểm đặt bút trên một ô li nhỏ đưa bút lên sang phải một nét xiên đến ô li thứ 5 đưa bút cong sang trái sổ thẳng các con đã tô viết được nét khuyết trên, tiếp theo các con đưa bút lên đến đường ngang ô li thứ 2( từ dưới lên) đưa bút sang phải rồi sổ thẳng xuống đá hất ra, điểm kết thúc là gần hết 1 ô li cuối cùng, qua nhiều lần tôi hướng dẫn trẻ tập tô và giới thiệu căn kẽ như vậy lớp tôi đã biết cách tô và tô đúng quy trình, không còn cháu tô ngược và nhất là nhiều trẻ tô đẹp, đúng hàng.
Ngoài ra tôi còn cho trẻ tập tô theo mẫu vào bảng con, vào vở tập tô in sẳn, vào vở ở nhà của trẻ, lần nào cũng vậy tôi đều hướng dẫn cụ thể, rõ ràng cho trẻ dễ hiểu vì đặc điểm của trẻ dân tộc thiểu số tiếp thu rất chậm nhưng lại quên rất nhanh, kết hợp cho trẻ tô viết các nét cơ bản hay tô viết các chữ cái tôi đều cho trẻ luyện phát âm theo cô nhiều lần. Dần dần tôi thấy trẻ có phần tiến bộ hơn ham thích được tô viết, tô viết mạch lạc, nhiều cháu đúng quy trình, tô đẹp, trình bày khoa học hơn và phát âm chuẩn các chữ cái. Tôi rất vui và tiếp tục áp dụng :
4. Cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ thông qua môn văn học:
Để giúp trẻ học ngôn ngữ và nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ Tiếng việt trong học tập cũng như trong cuộc sống. Tôi nghĩ trước hết cần dạy trẻ những kỹ năng chú ý nghe và phát âm thông qua môn văn học là vô cùng cần thiết.
Trước khi vào dạy học thơ hay kể một câu chuyện nào đó, điều đầu tiên tôi chú ý là lựa chọn bài thơ, câu chuyện không quá dài, có nội dung hấp dẫn trẻ để cung cấp, vì trẻ dân tộc thiểu số rất hiếu động thời gian tập trung chú ý nghe cô giảng rất ngắn, nắm được điểm yếu này của lớp tôi luôn tạo ra tình huống vui nhộn để lôi cuốn trẻ vào giờ học bằng một giọng nói lúc trầm lúc bổng để gây sự chú ý, khơi gợi tính tò mò của trẻ, đã tạo được tâm thế cho trẻ trước khi vào học tôi tiến hành đi vào giờ học chính bằng ngôn ngữ giới thiệu hấp dẫn từ ngữ thật gần, thật dễ hiểu đối với trẻ, tôi đọc thơ hay kể chuyện với giọng thật truyền cảm, phối hợp các động tác minh học phù hợp, để lôi cuốn trẻ chăm chú lắng nghe, để lĩnh hội từng câu, từng lời của cô, tiếp đến tôi giảng nội dung câu chuyện, bài thơ một cách ngắn gọn để giúp trẻ dễ hiểu, tôi tiến hành cho trẻ đọc thơ theo tôi từng câu, tôi luôn đổi cách cho trẻ đọc thơ theo tổ, nhóm, lớp , cá nhân, hay bạn nam và bạn nữ thi đua nhằm tạo khí thế cho trẻ trong học thơ, còn đối với chuyện thì tôi kể nhiều lần và đàm thoại theo trình tự nội dung câu chuyện, và thể hiện giọng điệu, tính cách của từng nhân vật trong chuyện một cách phù hợp nhằm giúp trẻ khắc sâu hơn nội dung cũng như tính cách của các nhân vật trong chuyện, sau đó tôi tiến hành mời cháu khá lên kể lại chuyện cho cả lớp nghe, tôi không quên khuyến khích trẻ bằng một món quà hay thưởng bằng một phiếu bé ngoan, Chính nhờ như vậy lớp tôi ngày càng ham thích học thơ, kể chuyện, nhiều cháu thuộc thơ, kể lại câu chuyện một cách hoàn chỉnh, như vậy việc cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số của tôi gặt hái được nhiều thành công hơn so với trước, tôi vô cùng phấn khởi và tiếp tục áp dụng một số biện pháp khác để ngày nâng cao hiệu quả hơn.
5. Cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi :
Thực tế cho ta thấy rằng bất đồng ngôn ngữ là rất khó khăn trong giao tiếp, vì vậy ngoài những biện pháp nêu trên áp dụng có hiệu quả tôi tiến hành cung cấp vốn tiếng việt cho trẻ thông qua mọi lúc mọi nơi.
Như chúng ta đã biết khả năng tiếp thu của trẻ dân tộc thiểu số rất chậm, mau quên nhưng khi đã nhớ được thì lại nhớ rất lâu nên tôi tiến hành cho trẻ tiếp xúc với vốn tiếng việt bằng phương châm " Mưa dầm thấm lâu" cho nên việc cung cấp ngôn ngữ Tiếng việc ở mọi lúc, mọi nơi vô cùng hiệu quả,
Giờ đón trẻ tôi luôn vui vẻ, thương yêu trẻ, sửa sang quần áo, chãi tóc cho trẻ và không quên kèm theo một số câu hỏi giao lưu như: Con mặc quần áo đẹp quá. Con ăn cơm chưa? Ăn bao nhiêu chén? Ăn với thức ăn gì? Con ăn có ngon không? Hay tôi hỏi về gia đình trẻ: Nhà con có bao nhiêu người? Con có em bé không? Mẹ con làm gì? ...Qua trò chuyện với trẻ như vậy tôi nắm được khả năng phát âm của mỗi trẻ để có biện pháp và giành nhiều thời giờ hơn giúp trẻ phát âm đúng, phát âm chuẩn.
Giờ chơi tự do tôi hay dẫn trẻ đến các góc trò chuyện và phát âm các từ có trong tranh, từ ở mỗi góc, tôi dạy trẻ phát âm nhiều lần và cho trẻ chỉ, phát âm chữ cái đã học qua nhiều lần như vậy trẻ lớp tôi phát âm chuẩn hơn và mạnh dạn hơn trong giao tiếp với cô, với bạn, bạn biết chỉ cho bạn chưa biết, hoặc mạnh dạn đến hỏi cô, trẻ lớp tôi không còn rụt rè như trước nữa. Ngoài ra trong giờ hoạt động ngoài trời tôi cho trẻ ôn kiến thức đã học qua trò chuyện, đọc thơ, kể chuyện, chơi các trò chơi dân gian, cho trẻ đọc đồng dao, ca dao trong hoạt động này giúp trẻ phát âm thành thạo hơn, lưu loát hơn.
Giờ vui chơi tôi cho trẻ đóng các vai khác nhau, trẻ được giao lưu trao đổi mua bán và thể hiện hết vai chơi của mình, bên cạnh đó tôi luôn theo sát trẻ để kịp thời sửa sai uốn nén mỗi khi trẻ hỏi hoặc trả lời không trọng tâm hay trẻ dùng tiếng mẹ đẻ. Chính nhờ vậy mà lớp tôi đa số trẻ biết dùng từ để diễn đạt thành câu có nghĩa trong giao tiếp với bạn và với cô.
6. Kết hợp với phụ huynh:
Trong một buổi học trẻ được tiếp xúc với cô rất nhiều nhưng chúng ta biết phối hợp với gia đình trong việc cung cấp vốn tiếng việt cho trẻ lại càng tốt hơn vì vậy tôi tiến hành cho mời phụ huynh đến họp, thông báo kết quả học của mỗi cháu cho phụ huynh nắm và không quên cho phụ huynh biết khả năng tiếp thu kiến thức bài học bằng ngôn ngữ Tiếng việt của mỗi cháu ra sao và rất mong phụ huynh hợp tác trong việc cung cấp Tiếng việt cho trẻ ở nhà như: Phụ huynh dùng Tiếng việt để trao đổi với con em nhiều hơn, kèm cặp con em nhiều hơn trong môn học chữ cái, trẻ nắm được chữ cái, thuộc chữ cái, viết được chữ cái, phát âm đúng chữ cái và nhất là nói thạo Tiếng việt nhất định con của phụ huynh tiếp thu bài một cách dễ dàng, học giỏi hơn trong cấp học mầm non và nhất là trong các cấp học sau này. Từ những lời nói ấy đã thúc đẩy phụ huynh quan tâm đến con em hơn, chăm lo cung cấp vốn tiếng việt ở nhà cho trẻ nhiều hơn. Cho nên trẻ lớp tôi hiện nay nói thạo, nói lưu loát ngôn ngữ Tiếng việt, biết dùng từ, câu để diễn đạt điều trẻ muốn nói, không còn trẻ nói câu không rõ nghĩa, câu thiếu chủ ngữ, vị ngữ, trẻ mạnh dạn giao lưu cùng cô, cùng bạn. Tôi vô cùng mỹ mãn.
VI- KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU :
Qua một vài kinh nghiệm tôi tự nghiên cứu và áp dụng cung cấp Tiếng việt vào lớp mình đạt được kết quả như sau:
- Đến nay đã co trên 95% cháu nhận biết nhanh và phát âm đúng 29 chữ cái Tiếng việt.
- 93% cháu biết cách tô các nét cơ bản và tô đúng quy trình .
- 97% cháu hiểu được ngôn ngữ Tiếng việt, biết dùng ngôn ngữ Tiếng việt để diễn đạt thành câu có nghĩa.
100% trẻ nói lưu loát bằng ngôn ngữ Tiếng việt.
Ngoài trẻ rất mạnh dạn tự tin khi giao tiếp với cô, với bạn lúc ở nhà cũng như lúc ở trường.
VII- KẾT LUẬN :
Kinh nghiệm cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số là một vấn đề rất khó. Đòi hỏi ở cô giáo phải thật sự yêu thương gần gũi trẻ. Luôn tạo tình cảm cho trẻ giao lưu trò chuyện với cô, nghe hiểu lời nói của cô. Cuốn hút trẻ tham gia vào các hoạt động phát triển ngôn ngữ thực sự hứng thú. Được thực hiện thông qua các hoạt động giáo dục ở lớp và được tích hợp vào một số hoạt động khác trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ.
Từ những vốn kinh nghiệm tích luỹ ấy tôi đã áp dụng và có hiệu quả cao ở lớp mình
Qua việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào lớp tôi đang dạy là dân tộc thiểu số. Tôi nhận thấy việc áp dụng có những thuận lợi và cũng không ít những khó khăn
- Phụ huynh rất nhiệt tình trong công việc quyên góp phế liệu cho cô giáo làm đồ dùng đồ chơi
- Một số phụ huynh rất thích con mình hiểu biết nhiều về ngôn ngữ Tiếng việt
Bên cạnh đó gặp không ít khó khăn :
- Cháu thường dùng tiếng dân, ít hiểu Tiếng việt nên dẫn đến cháu khó tiếp thu lời giảng của cô bằng Tiếng việt
- Cha mẹ các cháu hầu hết đều không biết chữ, ít quan tâm đến việc học hành của con cái
Trên đây là một vài kinh nghiệm áp dụng trong lớp tôi là dân tộc thiểu số được thực hiện và đạt hiệu quả cao, những biện pháp trên tuy không có gì mới lạ đối với các bạn nhưng đối với trẻ dân tộc thiểu số thì vô cùng mới mẽ và có tác dụng. Tuy nhiên sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự góp ý bổ sung của đồng nghiệp, Hội đồng khoa học các cấp.
Đại Hưng, ngày 22 tháng 2 năm 2009
Người viết
Ngô Thị Châu
VIII- ĐỀ NGHỊ :
Đễ cho các cháu dân tộc thiểu số tiếp cận nhanh chóng với thực trạng giáo dục hiện nay. Theo tôi đề nghị các cấp lãnh đạo quan tâm nhiểu hơn nữa về cơ sở trường lớp, trang thiết bị dạy học phù hợp với lứa tuổi, nhất là đồ dùng đồ chơi cho trẻ .
IX- TÀI LIỆU THAM KHẢO :
-Tài liệu thử nghiệm dạy trẻ làm quen với Tiếng việt trong :
+Tạp chí giáo dục Mầm non số 2 - 1997
+Tạp chí giáo dục Mầm non 4 -2003
X- MỤC LỤC :
Trang
I/ Tên đề tài 1
II/ Đặt vấn đề 1
III/ Cơ sở lý luận 1
IV/ Cơ sở thực tiễn 1
V/ Nội dung nghiên cứu 1
1, Dạy trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái Tiếng việt 2
2. Cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ thông qua các trò chơi chữ cái 2
3. Cung cấp tiếng việt thông qua tập tô: 3
4. Cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ thông qua môn văn học 4
5. Cung cấp vốn Tiếng việt ở mọi lúc mọi nơi 4
6. Kết hợp với phụ huynh 5
VI. Kết quả nghiên cứu 5
VII. Kết luận 5,6
VIII. Đề nghị 7
IX. Tài liệu tham khảo 8
X. Mục lục 9
File đính kèm:
- SANG KIEN KINH NGHIEM CO CHAU.doc