Nghị quyết quốc hội khoá X kỳ họp thứ 8 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông với mục tiêu là xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực trẻ phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, phù hợp với thực tiễn truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
14 trang |
Chia sẻ: shironeko | Lượt xem: 4806 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phương pháp sử dụng thí nghiệm trong thực hành hoá học ở trường trung học cơ sở, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI GIỚI THIỆU
Nghị quyết quốc hội khoá X kỳ họp thứ 8 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông với mục tiêu là xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực trẻ phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, phù hợp với thực tiễn truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Trong nhiều năm qua nền giáo dục phổ thông đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có những đóng góp quyết định cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên nền giáo dục của nước ta vẫn còn nhiều hạn chế đó là:Mục tiêu, nội dung phương pháp và quy mô nền giáo dục chưa đáp ứng yêu cấu của xã hội, của sự nghiệp đổỉ mới. Đặc biệt là phương pháp dạy học còn yếu , nhiều giáo viên vẫn còn sử dụng phương pháp cũ. Hiện nay trong các nhà trường phổ thông đặc biệt là ở các trường khó khăn vùng sâu vùng xa chưa có phòng học bộ môn, phòng học chức năng tình trạng giáo viên lên lớp dạy chay vẫn còn phổ biến. Việc sử dụng đồ dùng thí nghiệm hoá học chưa hiệu quả chưa phát huy được tính tích cực sáng tạo của học sinh, dẫn tới học sinh chưa hiểu sâu được bản chất của vấn đề. Vậy làm thế nào để có thể khắc phục được tình trạng trên, giúp người giáo viên có thể khai thác được tối đa những đồ dùng dạy sẵn có của nhà trường phục vụ cho việc dạy học trên lớp đạt hiệu quả cao nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Vì vậy tôi đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm sáng kiến kinh nghiệm:Phương pháp sử dụng thí nghiệm trong thực hành hoá học ở trường trung học cơ sở.
Nội dung nghiên cứu gồm 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Kiểm tra khảo sát tình hình nắm kiến thức của học sinh khi tiến hành dạy không có thí nghiệm thực hành để lấy kết quả đối chứng.
Giai đoạn 2: Tiến hành điều tra kết quả khảo sát khi áp dụng dạy có thí nghiệm thực hành trên lớp.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng trong khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này chắc không tránh khỏi những sai sót, tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãng đạo, phụ trách chuyên môn, đặc biệt là của các bạn đồng nghiệp
Xin chân thành cảm ơn.
Ngày 15 tháng 4 năm 2008
Giáo viên thực hiện
Trịnh Văn Dũng
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY BỘ MÔN HOÁ HỌC- TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
Tên sáng kiến: “Phương pháp sử dụng thí nghiệm trong thực hành
hoá học ở trường trung học cơ sở”
A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm:
Đã có rất nhiều hội nghị cũng như hội thảo chuyên đề đã bàn về phương pơháp dạy họcở các trường trung học cơ sở nói chung và phương pháp dạy môn hoá nói riêng nhưng tình trạng sử dụng thí nghiệm và đồ dùng dạy học hoá học vẫn còn rất nhiều hạn chế. Vai trò của thí nghiệm vẫn chưa được nâng cao và thực trạng sử dụng thí nghiệm ở trường trung học cơ sở còn nhiều bất cập, chưa dược quan tâm thoả đáng. Chính vì vậy tôi đã chọn và nghiên cứu thực nghiệm sáng kiến kinh nghiệm “ Phương pháp sử dụng thí nghiệm trong thực hành hoá học ở trường trung học cơ sở” Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm, đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lương dạy học hoá học nói riêng và các môn học thực nghiệm nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu.
Qua nghiên cứu thấy được vai trò quan trọng của thí nghiệm hoá học trong giảng dạy bộ môn hoá học ở trường trung học cơ sở.
Dựa trên thực trạng của việc sử dụng thí nghiệm hoá học hình thành một số biện pháp, cách sử dụng thí nghiệm có hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng đạy học.
3. Cơ sở lý luận của đề tài.
* Cơ sở lý thuyết:
Chúng ta biết phương pháp dạy học bằng thực nghiệm là bộ phận quan trọng nhất không thể thiếu trong phương pháp dạy học hoá học. Như vậy cơ sở phương pháp luận của nghiên cứu thí nghiệm hoá học cũng là triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Việc nghiên cứu phương pháp dạy học chỉ có thể đạt được kết quả tôt nếu áp dụng phép biện chứng duy vật vào nhận thức của chủ nghĩa Mac-Lênin: Đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Sự học tập nắm vưng kiến thức và kỹ năng là hoạt động nhận thức của học sinh do giáo viên điều khiển. Nhiệm vụ trung tâm của dạy học hoá học là làm cho học sinh nhận thức được các chất và sự biến hoá của chúng.
* Cơ sở thực tiễn:
Thí nghiệm hoá học được xây dựng trên cơ sở hoá học thực tiễn cuộc sống. Chính nhờ nhu cầu của cuộc sống mà thí nghiệm hoá học ra đời để phục vụ cho cuộc sống. Với trình độ khoa học phát trtiển như hiện nay chúng ta không chỉ có kiến thức mà phải hoàn thiện cả về kỹ năng, ký xảo và năng lực, những kiến thức được học ở trường phải được ứng dụng vào thực tiễn. Chíh vì vậy mục tiêu giáo dục hiện nay là phải phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh, chuẩn bị cho các em có một hành trang để tiếp tục học tập hay đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng kinh tế gia đình dựa vào các kiến thức đã thu nhận được ở trường.
Thí nghiệm sẽ là cơ sở, điểm xuất phát cho quá trình học tập nhận thức của học sinh. Thí nghiệm giúp nâng cao lòng tin vào khoa học và phát triển tư duy học sinh. Thí nghiệm do giáo viên biểu diễn sẽ là khuôn mẫu cho học sinh học tập. Sau này học sinh có thể tự làm thí nghiệm, nâng cao hứng thú học tập bộ môn.
* Cơ sở tâm lý lứa tuổi:
Thí nghiệm hóa học trong phương pháp giảng dạy hoá học gắn bó chặt chẽ với tâm lý học sư phạm bởi thí nghiệm hoá học phù hợp với sự phát triển tâm lý học của học sinh. Ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh, hình thành ở học sinh những kỹ năng kỹ xảo cần thiết, lôi cuốn long say mê học tập của học sinh ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Vậy thiết nghĩ nếu sử dụng thí nghiệm hoá học ở trường phổ thông một cách đồng đều, học sinh sẽ làm quen với thí nghiệm thường xuyên khi nghiên cứu bài học mới thì chắc chắn rằng chất lượng học tập được nâng cao. Vấn đề đặt ra đối với giáo viên giảng dạy bộ môn hoá học là cách thức tiến hành như thế nào, khai thác thí nghiệm như thế nào để vừa hình thành kiến thức vừa khắc sâu kiến thức cho các em.
4/ Thời gian xây dựng sáng kiến.
Từ kết quả giáo dục của bộ môn hoá học học kỳ 1 năm học 2007-2008 của học sinh khối lớp 8 và 9 - trường THCS Thần Sa.
Khối lớp
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu, kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
8
9
Bản thân tôi nhận thấy kết quả này cần được nâng cao hơn nữa, do đó tôi đã tiến hành nghiên cúư thực nghiệm sáng kiến kinh nghiệm này từ tháng 3 năm 2008.
5/ Tổng quan việc thực hiện sáng kiến kinh nghiệm.
Sáng kiến kinh nghiệm: Phương pháp sử dụng thí nghiệm trong thực hành hoá học ở trường THCS được tiến hành nghiên cứu trong phạm vi chương trình lớp 8 và 9 trong nội dung bài thực hành và một số bài mới có sử dụng thí nghiệm thực hành để hình thành kiến thức mới cho học sinh.
Bác Hồ đã nói Học phải đi đôi với hành, hành ở đây có nghĩa là việc thực hành thực nghiệm của học sinh, nói đến việc vận dụng các kiến thức lý thuyết vào thực tế cuộc sống. Tuy nhiên vấn đề này không phải ta đã làm được tốt, nhiều học sinh, sinh viên sau khi ra trường mặc dù kiến thức lý thuyết rất giỏi song khi bắt tay vào làm việc thưc tế lại rất lung túng thiếu kỹ năng thực hành. Do đó để học sinh có được các kỹ năng thực hành thì việc giúp các em sớm có kỹ năng phải được trú trọng từ khi còn là học sinh ở trường trung học cơ sở. Kỹ năng này phải do giáo viên hướng dẫn sau đó học sinh thực hiện. Điều đó đòi hỏi người giáo viên phải có một phương pháp tiến hành hướng dẫn, dẫn dắt học sinh thật lôgic, phù hợp với khả năng của học sinh nhằm khai thác được ý nghĩa của thí nghiệm thực hành hoá học.
B- NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1/ Cách thức chuẩn bị tiến hành sáng kiến.
* Những khó khăn khi thực hiệ sáng kiến
Khi tiến hành nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm này tại trường THCS Thần Sa tôi đã gặp phải một số khó khăn như sau: Phần lớn các em học sinh là người dân tộc thiểu số nên còn hạn chế trong việc nắm kiến thức mới, đặc biệt là việc tiếp cận với các thao thao tác làm thí nghiệm còn rất lúng túng. Về điều kiện cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn như phương tiện giảng dạy hiện đại theo chương trình sách giáo khoa mới còn chưa có nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện sáng kiến kinh nghiệm. Phòng để thiết bị thí nghiệm xa lớp học nên mỗi khi làm thí nghiệm thực hành rất khó khăn trong việc lấy dụng cụ hoá chất mang đến các lớp học. Khi thực hành trên lớp học việc bố trí vị trí của giáo viên và các nhóm học sinh rất khó để phát huy được vaim trò tác dụng của thí nghiệm thực hành trong việc khai thác kiến thức mới cũng như củng cố khắc sâu kiến thức đã học.
* Những thuận lợi:
Bên cạnh những khó khăn như trên còn có các điều kiện thuận lợi như bản thân là giáo viên trẻ đã được tiếp cận với chương trình sách giáo khoa phổ thông mới, đã được qua lớp tập huấn sử dụng thiết bị bộ môn hoá học. Được sự quan tâm của tạo điều kiện giúp đỡ của tổ chuyên môn, ban giám hiệu nhà trường, của các đồng chí giáo viên phụ trách thiết bị thí nghiệm ttrong việc bố trí thời gian và lịch học thực hành để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc tiến hành thí nghiệm thực hành.
Xuất phát từ nhưng thuận lợi và khó khăn như trên, tôi đã tranh thủ sự tạo điều kiện giúp đỡ của ban giám hiệu, tổ chuyên môn để thực hiện sáng kiến này được triệt để nhất.
2/ Sử dụng thí nghiệm trong quá trình dạy học.
2.1- Vai trò của thí nghiệm trong quá trình dạy học :
Trong quá trình dạy học nói chung, dạy học hoá học nói riêng, thí nghiệm giữ vai trò rất quan trọng như một bộ phận không thể thiếu được vì hoá học là môn học thực nghiệm. Thí nghiệm được coi là nguồn kiến thức để hình thành các khái niệm hoá học cơ bản và truyền thụ kiến thức, là cầu nối giữa lý thuyết và thực tế. Thông qua việc quan sát và tiến hành thí nghiệm học sinh nắm bền vững và sâu kiến thức hơn, đồng thời tạo hứng thú say mê trong học tập, thí nghiệm còn là ưu thế đặc biệt nữa là qua đó sẽ làm hoạt động hoá người học, phát triển tư duy sáng tạo, hình thành năng lực phát hiện vấn đề và giải quyết vân đề cho học sinh nếu như các thí nghiệm được tiến hành thường xuyên và hợp lý.
Trong dạy học, tình huống có vấn đề là mômen quan trọng nhất có tính chất quyết định, có rất nhiều cách để xây dựng tình huống có vấn đề dựa vào đặc trưng riêng của bộ môn hoá học mà đặc trưng cơ bản là thí nghiệm hoá học. Thí nghiệm nghiệm nêu vấn đề có lợi thế trước hết ở đặc tính trực quan sinh động của đối tượng nghiên cứu. Đó là tình huống bất ngờ, sự không bình thường của phản ứng hoá học sảy ra trong thí nghiệm như biến đôỉ màu sắc, thay đổi trạng thái hoặc cháy hay nổ ngoài dự kiến của người quan sát. Chính những dấu hiệu không bình thường này đã lôi cuốn sự chú ý của học sinh và tạo ra thế năng tâm lý muốn nghiên cứu, muốn tìm nguyên nhân của hiện tượng khác thường trong thí nghiệm.Khi quan sát và suy nghĩ về các thí nghiệm nêu vấn đề, học sinh học sinh thấy được mâu thuẫn ( tình huống có vấn đề) về nhận thức. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên học sinh xây dựng giả thuyết để tìm ra con đường giải quyết vấn đề. Như vậy hoá học sẽ đắt học sinh vào vị trí của người nghiên cứu, tìm tòi một cách sáng tạo để giải quyết nhiệm vụ đặt ra.
2.2- Đặc diểm của thí nghiệm được dùng để dạy học.
Trong dạy học không phải bất kỳ thí nghiệm nào cũng có thể sử dụng để dạy học, thí nghiệm được dùng để nêu vấn đề là loại thí nghiệm mà qua đó có thể đặt ra và giải quyết các vấn đề học tập khác nhau. Tức là qua thí nghiệm phải nảy sinh ra một trong các tình huống có vấn đề, các vấn đề trong dạy học hoá học như tình huống nghịch lý, bế tắc, tình huống lựa chộn và tình huống nhan quả. Nội dung các thí nghiệm này cần dựa vào sự hiểu biết về các hiện tượng và các quy luật đã biết của học sinh. Khi trình bày các thí nghiệm dùng để nêu vấn đề cần trình bày thí nghiệm trước để dẫn dắt học sinh xác định vấn đề hướng dẫn giải vấn đề nảy sinh trong thí nghiệm. Từ đó ta có thể thấy các thí nghiệm dùng để dạy học có đặc điểm sau: Thí nghiệm này không chỉ dùng cho cung cấp kiến thức, hình thành các khái niệm ma còn được dùng để sửa lỗi về nhận thức của học sinh và điều chỉnh kiến thức về các vấn đề trong quá trình dạy học hoá học. Trong quá trình hoàn thành các thí nghiệmhọc sinh thường đi đến các kết luận có tính chất tổng quát một cách thoả mãn đồng thời cũng phát triển được kỹ năng của mình. Việc giải quyết các vấn đề chưa rõ ràng trong nhận thức bằng thực nghiệm sẽ khơi dậy tính độc lập sáng tạo của học sinh.
Trong dạy học hoá học, thí nghiệm này có thể thực hiện ở các dạng: Thí nghiệm biểu diễn của giáo viên, thí nghiệm nghiên cứu của học sinh khi học bài mới.
Có hai loại thí nghiệm hoá học là thí nghiệm nêu vấn đề dùng để hình thành kiến thức mới, khái niệm mới và thí nghiệm kiểm chứng minh hoạ dùng để kiểm chứng minh hoạ lại các tính chất đã họcnhằm củng cố kiến thức khắc sâu kiến thức làm sáng tỏ vấn đề hơn nữa.
2.3- Quy trình sử dụng thí nghiệm dạy học dựa trên cơ sở quy trình chung của dạy học học sinh kết hợp với đặc điểm nội dung bài học và đặc điểm của các thí nghiệm hoá học.
Quy trình thực hiện thí nghiệm nghiên cứu tài liệu mới:
Bước 1: Đặt vấn đề
Bước 2: Phát biểu vấn đề.
Bước 3: Xác định phương pháp giải quyết nêu giả thuyết.
Bước 4: Lập kế hoạt giải quyết.
Bước 5: Giải quyết vấn đề theo giả thuyết.
Bước 6: Đánh giá thực hiện kế hoạch giải.
Bước 7: Kết luận về lời giải.
Bước 8: Kiểm tra lại kiến thức vừa tiếp thu và hướng dẫn học sinh tập vận dụng kiên thức.
3/ Xây dựng một số nội dung dạy học hoá học có sử dụng thí nghiệm thực hành.
3.1- Với loại thí nghiệm nêu vấn đề để hình thành kiến thức mới, tôi xây dựng nội dung bài mới hình thành kiến thức mới về tính chất của hiđrô- Bài tính chất và ứng dụng của hiđrô- bài 31 sách hoá học 8.
Mục tiêu của bài: học sinh biết hiđrô là chất khí nhẹ nhất trong các chất khí, biết và hiểu hiđro có tính khử, tác dụng với oxi đơn chất và oxi của một số hợp chất các phản ứng này đều toả nhiệt.
Toàn bộ các thí nghiệm của bài đều do giáo viên tiến hành để học sinh quan sát nhận xét kết luận và rút ra kiến thức từ thí nghiệm mà giáo viên biểu diễn.
- Tính chất hiđro tác dụng với oxi đơn chất. Trước khi tiến hành thí nghiệm giáo viên cần phải giới thiệu cho học sinh các dụng cụ và hoá chất cần thiết để tiến hành thí nghiệm và sơ đồ lắp giáp dụng cụ để học sinh theo dõi quan sát. Sơ đồ lắp giáp: Hình 5-1
Sau khi giáo viên lắp giáp dụng cụ thí nghiệm như sơ đồ xong giáo viên yêu cầu học sinh quan sát hiện tượng trước khi tiến hành thí, khi axit và kim loại kẽm chưa tiếp xúc với nhau thì chưa có hiện tượng khí hiđro thoát ra đồng thời ở thành lọ B chưa xuất hiện các giọt nước ( lọ khô sạch). Khi tiến hành thí nghiệm điều chế và đốt khí hiđro trong lọ oxi, trong không khí ta thấy trên thành lọ có xuất hiện các giọt nước. Những hiện tượng này học sinh dễ dàng quan sát thấy so với trước khi làm thí nghiệm, từ đó học sinh rút ra kết luận hiđro phản ứng với nước tạo ra sản phẩm là nước.
H2 + O2à H2O
Chú ý cho học sinh hỗn hợp khí oxi và hiđro là hỗn hợp nổ ở tỷ lệ thể tích 2:1 nên khi tiến hành thí nghiệm này cần phải thử độ tinh khiết của hiđro để đảm bảo an toàn.
- Hiđro tác dụng với đồng oxit- CuO
Thí nghiệm này cũng do giáo viên biểu diễn học sinh quan sát. Tiến hành các bước tương tự như các bước đã đặt ra. Hình 5.2. Qua thí nghiệm học sinh nhận thấy hiện tượng khác trước khi làm thí nghiệm là trong ống nghiệm B có xuất hiện một lượng nước. Qua đó học sinh rút ra kết luận hiđro đã chiếm oxi trong phân tử đồng ôxit để tạo ra nước, đồng thời chất bột màu đen sau khi làm thí nghiệm đã chuyển thành màu đỏ.
CuO + H2-à Cu + H2O
Từ hai thí nghiệm trên học sinh đã kết luận được 2 tính chất quan trọng của hiđro là không chỉ phản ứng với oxi đơn chất mà còn kết hợp được với oxi trong hợp chất của một số ôxit. Ta nói oxi có tính khử.
3.2- Với thí nghiệm kiểm chứng minh kiến thức đã học, tôi xây dựng nội dung bài thực hành - điều chế thu khí hiđro và thử tính chất của hiđro- Bài 35 sách hóa học lớp 8.
Mục tiêu của bài: Học sinh nắm vững kiến thức nguyên tắc điều chế hiđro trong phòng thí nghiệm, tính chất vật lý, tính chất hoá học của hiđro. Rèn luyện kỹ năng lắp giáp dụng cụ thí nghiệm, biết tiến hành thí nghiệm với hiđro.
Khác với loại thí nghiệm khai thác kiến thức mới các thí nghiệm của bài thực hành đều do học sinh tự tiến hành theo nhóm từ 4 đến 6 em. Trước khi tiến hành giáo viên nêu yêu cầu kiến thức cần đạt được của bài thực hành, đó là qua bài các em kiểm chứng lại các kiến thức đã học về tính chất của hiđro. Từ đó các em củng cố khắc sâu kiến thức nhớ kiến thức lâu hơn.
Trong khi thực hành tuyệt đối các em không được tự ý đổ các hoá chất đã cho vào nhau, tuân thủ theo đúng sự hướng dẫn của giáo viên và sách giáo khoa, khi có hiện tượng bất thường không được tự ý sử lý mà phải báo ngay cho gaío viên. tiến hành theo nhóm các thành viên trong nhóm đều phải được phân công nhiệm vụ giúp đỡ tiến hành thí nghiệm. Ghi chép hiện tượng sảy ra và nhận xét giải thích hiện tượng so sánh với trước khi làm thí nghiệm. Phân công các nhóm và khu vực thực hành, các nhóm trưởng nhận dụng cụ hoá chất và điều hành nhóm làm thí nghiệm.
- Thí nghiệm 1: Điều chế và đốt cháy hiđro trong không khí.
Tiến hành lắp dụng cụ như hình vẽ. 5.4 Yêu cầu quan sát được hiện tượng hiđro cháy trong không khí có ngọn lửa màu xanh và toả nhiều nhiệt.
- Thí nghiệm 2: Hiđro khử đồng ôxit- CuO.
Học sinh tiến hành thí nghiệm như hướng dẫn và lắp dụng cụ theo hình 5.9. Chú ý là để thí nghiệm này thành công cần một số điều kiện sau: bột CuO phải khô và được nghiền nhỏ ngọn lửa đèn cồn phải đủ nóng. Quan sát màu sắc của bột đồng trước và sau khi tiến hành làm thí nghiệm, cần thấy được màu chuyển từ đen sang đỏ, giải thích được hiện tượng đó là do CuO đã bị chiếm mất Oxi tạo ra Cu kim loại có màu đỏ.
Cuối buổi thực hành cho học sinh viết bản thu hoạch và thu dọn hoá chất dụng cụ.
4/ Kết quả thực nghiệm nhận xét.
Việc áp dụng giảng dạy nội dung 2 bài trên được dạy thể nghiệm tại lớp 8A ( có sử dụng thí nghiệm thực hành) đối chứng với lớp 8B dạy không có thí nghiệm thực hành. Kết quả như sau:
Lớp 8A: Trong giờ học lớp trật tự chú ý nghe giảng, tham gia phát hiện kiến thức xây dựng bài sôi nổi.
Lớp 8B: Giờ giảng không sử dụng thiết bị thí nghiệm thực hành, sử dụng phương pháp vấn đáp và trực quan kết hợp với thuyết trình: lớp tương đối trật tự tham gia xây dựng bài không sôi nổi và đặc biệt có một số học sinh không chú ý vào nội dung bài dạy, hiểu bài chưa sâu.
Kết quả điều hành chấm bài theo cùng 1 đề và đáp án biểu điểm ( phần phụ lục) kết quả như sau:
Điểm
Lớp thực nghiệm 8A
Lớp đối chứng 8B
Số lượng
%
Số lượng
%
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Qua kết quả thu được ở bảng trên tôi nhận thấy:
Đối với nhóm học sinh thực nghiệm đạt 98% từ trung bình trở lên
Đối với lớp đối chứng đạt tỷ lệ thấp hơn 73%
Phương pháp sửm dụng thí nghiệm đã cố tác dụng tốt đối với học sinh có lực từ trung bình khá trở lên đa số các em đã phát huy được năng lực tư duy của mình và kết quả học tập được nâng lên. Tuy nhiên với các em có lực học yếu thì khi áp dụng phương pháp này đã không tiếp cận nhanh được. Như vậy trong quá trình giảng dạy giáo viên cần có biện pháp cho tất cả học sinh đều được tiếp cận với phương pháp có sử dụng thiết bị thí nghiệm thực hành.
Hiện nay các trường trung học cơ sở được trang bị tương đối đầy đủ dụng cụ hoá chất thực hành cho các bộ môn, trong đó có môn hoá học, tuy nhiên thực tế cho thấy việc sử dụng thi nghiệm thực hành chưa thường xuyên. Nguyên nhân là do hầu hết các trường hiện nay đều chưa có phòng học thực hành hay phòng học dành riêng cho môn hoá, mặc dù hoá chất dụng cụ tương đối đầy đủ nhưng giáo viên không thể tiến hành toàn bộ các thí nghiệm trong nội dung chương trình. Giáo viên chỉ có thể tiến hành những thí nghiệm đơn giản dễ làm có thể thực hiện tại trên lớp, còn những thí nghiệm phức tạp công phu có tính chất độc hại thì không thể thực hiện trên lớp học. Với những thí nghiệm dễ làm sau một thời gian sử dụng hoá chất lại hết… Ngoài ra để dạy một tiết có thí nghiệm thực hành mỗi giáo viên phải có sự chuẩn bị , nhưng lịch giảng thường liền nhau vì số tiết liền trong một ngày nếu sử dụng thì chỉ thực hiện được hiện được ở một lớp còn lớp tiếp theo không chuẩn bị được. Cũng vì không có phòng thực hành nên khâu vận chuyển hoá chất từ lớp này sang lớp khác, từ phòng này sang phòng khác khó khăn vì phần lớn đồ dùng thí nghiệm đều dễ vỡ, hoá chất độc hại với người, ảnh hưởng đến khâu tổ chức lớp thời gian bố trí thực hành.
Mặc dù có rất nhiều khó khăn trở ngại trong vịêc tiến hành thí nghiệm thực hành song để nâng cao chất lượng giáo dục nâng cao chất lượng phát triển toàn diện nhân cách học sinh bản thân mỗi giáo viên đang giảng dạy ở mỗi trường trung học cơ sở cần xây ndựng một kế hoạch sử dụng thiết bị thí nghiệm thực hành theo đặc điểm thực tế của từng đơn vị nhằm phát huy được tối đa hiệu quả của đồ dùng thí nghiệm . Và cũng cần có một kỹ năng tiến hành và điều hành tiến hành các thí nghiệm sao cho đơn giản gọn nhẹ mà vẫn đảm bảo được yêu cầu nội dung kiến thức. Chúng ta có thể vận dụng linh hoạt nội dung các thí nghiệm và đồ dùng tự làm để tiến hành thí nghiệm tiết kiệm hoá chất mà vẫn phát huy được tác dụng.
C- KẾT LUẬN
1- Nên ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm này hay không:
Từ cơ sở lý thuyết và cơ sở thực tiễn như trên thì việc áp dụng một quy trình tiến hành thí nghiệm thực hành khoa học là rất cần thiết đối với mỗi giáo viên giảng dạy bộ môn hoá học.Vì nó không chỉ giúp học sinh nhớ khắc sâu được kiến thức lý thuyết mà còn giúp các em có được kiến thức thực tế, kỹ năng thực hành thực nghiệm có thể áp dụng vào đời sống sản xuất.
Từ đó lý thuyết được gắn liền với thực tiễn, học đi đôi với hành, nhân cách người học được phát triển toàn diện, chất lượng giáo dục được nâng cao.
2- Kết quả cho phép thực hiện.
Kết quả khảo sát thực tế trên học sinh cho thấy nội dung vấn đề này cho phép áp dụng với các trường trung học cơ sở, đặc biệt là các trường còn thiếu phòng học chức nănng bộ môn.
3- Cần rút kinh nghiệm những vấn đề sau.
- Thời gian xây dựng sáng kiến chưa lâu.
- Phạm vi thể nghiệm của sáng kiến kinh nghiệm chưa rộng, trong phạm vi một trường.
- Khi vận dụng các
File đính kèm:
- Sang kien kinh nghiem(1).doc