Hiện nay, dạy học phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh là một vấn đề cấp thiết nhằm nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường. Để việc dạy học có hiệu quả, GV cần phải sử dụng những phương pháp phát huy được tính tích cực, chủ động cho học sinh và sử dụng linh hoạt các phương pháp đặc trưng của từng phân môn.
Mục tiêu của môn Tiếng Việt lớp 2 là hình thành và phát triển ở từng học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt như: Nghe, đọc, nói, viết; để các em học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy cho học sinh .
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1876 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2 qua phân môn Tập Viết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I/ Phần mở đầu
I.1 Lý do chọn đề tài:
Hiện nay, dạy học phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh là một vấn đề cấp thiết nhằm nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường. Để việc dạy học có hiệu quả, GV cần phải sử dụng những phương pháp phát huy được tính tích cực, chủ động cho học sinh và sử dụng linh hoạt các phương pháp đặc trưng của từng phân môn.
Mục tiêu của môn Tiếng Việt lớp 2 là hình thành và phát triển ở từng học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt như: Nghe, đọc, nói, viết; để các em học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy cho học sinh .
Một trong 4 kỹ năng sử dụng tiếng Việt, đó là kĩ năng viết. Chữ viết thể hiện tính nết của con người. Vì vậy, việc dạy học sinh viết đúng, viết đẹp cũng chính là rèn cho các em sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ, các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nên nhân cách con người.
Đối với học sinh lớp 2, việc rèn chữ viết là kết hợp dạy kĩ thuật viết chữ với rèn chính tả, mở rộng vốn từ, phát triển tư duy. Góp phần rèn luyện những phẩm chất như: Tính cẩn thận, óc thẩm mĩ, ý thức tự trọng và tôn trọng người khác.
Đặc biệt đối với lớp 2, các em bắt đầu được học viết chữ cái hoa. Do mẫu chữ cái viết hoa mới có nhiều nét cong, nét lượn tạo dáng thẩm mĩ của hình chữ cái nên khi viết cần phải biết cách rê bút, lia bút để viết được liền mạch, tạo ra sự kết nối hài hoà, đòi hỏi giáo viên và học sinh phải cố gắng rất nhiều trong việc học và luyện chữ hằng ngày.
Từ những lí do trên, năm học 2007-2008 tôi đi sâu vào nghiên cứu tìm tòi để rút ra một số kinh nghiệm “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2 qua phân môn Tập Viết”.
I.2 Mục đích nghiên cứu:
Tôi chọn đề tài nghiên cứu “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2 qua phân môn Tập Viết” với mục đích là giúp các em tìm ra các kỹ thuật viết chữ hoa và kỹ năng nối các con chữ trong một chữ. Trên cơ sở đó tìm hiểu những nguyên nhân học sinh viết sai mẫu chữ và tìm ra biện pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
I.3 thời gian và địa điểm:
Tôi nghiên cứu đề tài này ngay từ đầu năm học với đối tượng là học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Sơn Dương.
I.4 Đóng góp mới về mặt lý luận, về mặt thực tiễn:
I.4.1. Về mặt lý luận:
Ngôn ngữ dưới dạng viết giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn cho học sinh viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập viết lớp 2 nói riêng. Vấn đề đặt ra là người giáo viên phải dạy Tiếng Việt như thế nào để đạt hiệu quả như mong muốn.
Vậy nên khi giảng dạy GV cần tích cực đổi mới PPDH cho phù hợp với đặc điểm nhận thức của lứa tuổi học sinh để có những tác động tích cực đến quá trình lĩnh hội tri thức của trẻ. Tri giác của trẻ từ 6 -8 tuổi thường gắn với hoạt động. Về tư duy thì tư duy trực quan bằng hành động chiếm ưu thế. Do vậy GV thường xuyên có biện pháp kích thích HS học tập như: khen ngợi, động viên, thưởng điểm... tạo hứng thú cho học sinh ghi nhớ các kỹ năng, từ đó giúp HS tiếp thu tri thức, hiểu bài, khắc sâu, nhớ lâu kiến thức bài học.
I.4.2. Về mặt thực tiễn:
I.4.2.1 Thuận lợi:
- Năm học 2007 -2008 là năm thứ sáu tiến hành chương trình thay sách. GV đã nắm được yêu cầu của việc đổi mới phương pháp một cách cơ bản, việc sử dụng đồ dùng tương đối có hiệu quả.
- Sự chỉ đạo chuyên môn của PGD&ĐT, BGH, Tổ khối có vai trò tích cực giúp GV đi đúng nội dung, chương trình phân môn Tập viết.
- Qua các Hội thi viết chữ đẹp bậc Tiểu học được PGD&ĐT tổ chức hàng năm đã khuấy động nên phong trào rèn chữ viết cho GV và HS ở các trường một cách tích cực.
- Học sinh lớp 2A1 được học 2 buổi trên ngày nên cũng có nhiều thời gian cho việc rèn chữ.
- Phụ huynh học sinh cũng rất quan tâm đến việc học tập của con em mình, nhất là chữ viết. Một số gia đình có điều kiện đã mua bút nét thanh nét đậm cho con đẻ luyện chữ.
I.4.2.2 Khó khăn:
- Do đặc điểm tình hình của địa phương (vùng nông thôn), đặc điểm tình hình của lớp (một số em là người dân tộc: Sán Dìu, Tày) và đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi HS nên trình độ nhận thức không đồng đều, còn nhiều hạn chế.
- Vì phải đi làm ăn xa nhà nên một số phụ huynh không có điều quan tâm đến việc học của con cái, làm ảnh hưởng đến việc dạy – học của cả cô và trò.
- Trong thực tế, việc rèn chữ viết cho học sinh ở bậc tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói riêng; bên cạnh nhiều cố gắng nỗ lực của giáo viên nhằm nâng cao chất lượng chữ viết thì vẫn còn một số ít giáo viên chưa thực sự coi trọng việc rèn chữ viết. Tình trạng này vẫn tồn tại, thiết nghĩ do sự nhận thức của một bộ phận giáo viên còn hạn chế; có ý nghĩ cứ dạy viết là cho học sinh viết vào vở là xong, còn viết như thế nào, có đúng mẫu chữ, cỡ chữ hay không thì chưa thực sự chú ý đến. Do vậy mà hiện tượng học sinh viết bừa, viết cẩu thả, không đúng chiều cao, độ rộng, khoảng cách và mắc nhiều lỗi chính tả còn phổ biến.
Vì mục tiêu chính trong giảng dạy môn Tiếng Việt lớp 2 nói chung và trong phân môn Tập viết nói riêng là sau khi học hết chương trình lớp 2, học sinh cần đạt được một trong các yêu cầu cơ bản như: Viết đúng và đều nét các chữ thường , chữ hoa; viết bài chính tả khoảng 50 chữ/15 phút; viết được đoạn văn ngắn (4-5 câu) dựa theo gợi ý cho trước. Nên việc dạy cho học sinh kỹ năng viết chữ đúng, đẹp đòi hỏi người giáo viên phải thật kiên trì, nhẫn nại.
II/ Phần Nội Dung:
II.1.Chương I: Tổng quan
Đổi mới phương pháp dạy học có thể hiểu là tìm con đường ngắn nhất để đạt chất lượng và hiệu quả dạy học cao. Con đường này không có sẵn, không bằng phẳng mà có cả chông gai, khúc khuỷu gập ghềnh, với sự đan xen giữa cái cũ và cái mới. Vì vậy đổi mới PPDH bao gồm cả hai mặt: phải đưa vào các PPDH mới đồng thời tích cực phát huy những ưu điểm của PPDH truyền thống. Vấn đề trọng tâm của đổi mới PPDH là nhằm phát huy tính năng động sáng tạo của học sinh.
Mục tiêu của GD Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân.
Muốn đạt được mục tiêu trên ta phải bắt đầu từ các lớp dưới như lớp 1 và lớp 2. Đó là các lớp cần cung cấp kiến thức sơ đẳng, cơ bản cho các em trong các môn học. Trong đó việc rèn chữ viết cho học sinh là rất quan trọng, nhìn vào chữ viết ta có thể đánh giá được tính cách con người. Chính vì vậy, mục đích của việc rèn chữ viết là hình thành cho học sinh năng lực viết thành thạo, thành thục chữ viết tiếng Việt theo các chuẩn chính tả nghĩa là giúp học sinh hình thành các kỹ năng viết chữ đúng mẫu (theo mẫu chữ viết ban hành tại Quyết định số 31/2002/QĐ-BGD&ĐT ngày 14/6/2002 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). Để việc rèn chữ có hiệu quả, ngoài việc nắm vững nội dung PPDH phân môn, GV cần phải có kỹ năng viết chữ đúng mẫu, GV hướng dẫn HS tập viết chủ yếu qua các hoạt động thực hành luyện tập, tránh thiên về giảng giải nặng nề; có ý thức sử dụng đồ dùng dạy học (Bìa mẫu chữ, bảng lớp...) và hướng dẫn HS sử dụng có hiệu quả các đồ dùng học tập (Bảng con, vở tập viết...). Đó là con đường ngắn nhất và đạt hiệu quả tốt nhất trong việc dạy HS lớp 2 viết chữ.
II.2. Chương 2: Nội dung vấn đề nghiên cứu
Chương trình giảng dạy môn tiếng Việt lớp 2 được thực hiện theo văn bản Hướng dẫn phân phối chương trình lớp 2 do Vụ Giáo dục Tiểu học chỉ đạo từ năm học 2003- 2004, cụ thể:
- Mỗi tuần học 10 tiết; mỗi tiêt 40 phút. Cả năm học 350 tiết.
- Trong tổng số 35 tuần học, có 31 tuần học bài mới , 4 tuần dành cho ôn tập và kiểm tra định kỳ.
- Nội dung 31 bài học Tập viết trong SGK Tiếng Việt 2 được cụ thể hóa trong vở Tập viết 2 theo yêu cầu cơ bản của chương trình môn học. Ngoài yêu cầu dạy kiểu chữ đứng, nét đều, GV có thể giới thiệu thêm kiểu chữ viết nghiêng và khuyến khích HS luyện tập trong vở Tập viết 2 để rèn chữ viết đẹp, nâng cao chất lượng dạy học viết chữ ở lớp 2.
II.2.1 Nắm chắc đối tượng học sinh để có biện pháp rèn chữ viết đạt kết quả cao nhất:
Ngay từ đầu năm học, tôi tiến hành khảo sát, phân loại học sinh về mọi mặt: Về nhận thức, về tính cách, về phát âm, về chữ viết… Tìm ra đối tượng học sinh tiếp thu chậm như em Hùng, Ngoan, Nguyệt. Những học sinh viết chữ chưa chuẩn như em Hùng, Cần, Tẩy Dương... Ghi dấu thanh chưa đúng vị trí như em Hoàng Dương, Thúy Lương, Trường... Chưa biết cách trình bày bài viết như em Nguyệt, Đức…
Sau khi tiến hành khảo sát, tôi lập sổ ghi chép những ưu, nhược điểm của từng học sinh trong mỗi tháng, để có kế hoạch kèm cặp sửa chữa, đồng thời luôn nhắc nhở, động viên kịp thời mọi cố gắng của học sinh.
II.2.2 Xây dựng nề nếp học tập và hướng dẫn tư thế ngồi viết :
Nề nếp học tập quyết định lớn đến chất lượng chữ viết. Vì vậy ngay sau khi nhận lớp, tôi xây dựng cho lớp có thói quen:
* Giữ trật tự khi ngồi học.
* Ngồi học đúng tư thế.
* Cầm bút, để vở đúng quy định.
* Chuẩn bị đồ dùng học tập trước khi đến lớp.
Trước khi viết bài, tôi nhắc các em nhớ lại tư thế ngồi viết (lưng thẳng, không tì ngực vào bàn; đầu hơi cúi; mặt cách vở khoảng 25- 30cm; tay phải cầm bút; tay trái tì nhẹ lên mép vở để giữ; hai chân để song song, thoải mái.) và cách cầm bút (cầm bút bằng ba ngón tay: ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa; khi viết, dùng ba ngón di chuyển bút từ trái sang phải, cán bút nghiêng về phải, cổ tay, khuỷu tay và cánh tay cử động mềm mại, thoải mái.)
II.2.3 Chuẩn bị đồ dùng học tập :
Để giờ học đạt hiệu quả, thì đồ dùng học tập của học sinh đóng vai trò rất quan trọng. Vì vậy tôi rèn cho các em có ý thức đem đầy đủ đồ dùng học tập như: bút mực, vở tập viết, vở có 5 dòng kẻ ô li, giấy kê tay, bảng con, giẻ lau, phấn, thước kẻ…
II.2.4 Coi trọng việc rèn chữ cho học sinh :
Chương trình tiếng Việt lớp 2 yêu cầu học sinh vừa tập viết chữ cái hoa, vừa củng cố kĩ năng viết chữ thường đã học ở lớp 1 với mức độ cao hơn. Kết quả cuối cùng là học sinh viết đúng mẫu chữ và đều nét các cụm từ ứng dụng có chữ cái hoa, phục vụ trực tiếp cho bài viết chính tả.
II.2.4.1 Rèn cho học sinh viết đúng cỡ chữ:
Để đảm bảo yêu cầu viết đúng cỡ chữ, học sinh phải phân biệt được độ cao của các chữ cái viết theo cỡ vừa, cỡ nhỏ. Trong quá trình dạy tập viết, bước đầu tôi cho các em quan sát và nhận xét độ cao, chiều rộng của chữ, từ đó học sinh xác định và ghi nhớ độ cao của chữ cỡ vừa, chữ cỡ nhỏ.
Ví dụ: Dạy viết bài chữ hoa L- Tuần 13
. Đối với chữ cỡ vừa, độ cao là 5 li :
. Đối với chữ cỡ nhỏ, độ cao là 2 li rưỡi:
II.2.4.2 Rèn cho học sinh viết đúng mẫu chữ :
Do đặc điểm cấu tạo của mẫu chữ cái viết hoa là có nhiều nét cong, nét lượn. Để hướng dẫn học sinh viết được đúng mẫu chữ; trước hết tôi yêu cầu học sinh quan sát kĩ mẫu chữ, để xác định độ cao, chiều rộng, các nét cơ bản của chữ. Sau khi nghe giáo viên phân tích cấu tạo của chữ và quan sát giáo viên viết mẫu, học sinh sẽ được thực hành bằng phấn trên bảng con, từng học sinh đều được làm việc một cách tích cực “chuyển” biểu tượng chữ viết “trong đầu” thành “sản phẩm” nhìn thấy và đánh giá được.Thông qua việc thực hành luyện viết của học sinh trên bảng con, giáo viên nhanh chóng nắm bắt được những thông tin phản hồi trong quá trình dạy học để kịp thời xử lý, tác động bằng nhận xét, hướng dẫn, sửa trực tiếp.
Bước tiếp theo là hướng dẫn học sinh viết bài vào vở. Trước khi viết, tôi yêu cầu các em quan sát và nhớ lại quy trình viết: Điểm đặt bút, rê bút, lia bút, dừng bút; sau đó các em sẽ viết lại chữ bằng tay không. Cuối cùng, học sinh ngồi đúng tư thế, để vở đúng vị trí, cầm bút bằng ba ngón tay: Ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa, rồi bắt đầu viết bài.
Ví dụ: bài dạy tập viết chữ hoa B- Tuần 3.
Trước hết tôi đưa bìa mẫu chữ cho học sinh quan sát, học sinh xác định chữ hoa B cỡ vừa cao 5 li ( 6 đường kẻ) rộng 4 ô. Gồm 2 nét: nét 1 giống móc ngược trái, nhưng phía trên hơi lượn sang phải, đầu móc cong hơn; nét 2 là kết hợp của 2 nét cơ bản: cong trên và cong phải nối liền nhau, tạo vòng xoắn nhỏ giữa thân chữ. Tiếp theo tôi nêu cách viết trên bìa chữ mẫu: Nét 1 đặt bút trên đường kẻ 6, dừng bút trên đường kẻ 2. Nét 2 từ điểm dừng bút của nét 1, lia bút trên đường kẻ 5, viết 2 nét cong liền nhau, tạo vòng xoắn nhỏ gần giữa thân chữ, dừng bút ở giữa đường kẻ 2 và đường kẻ 3. Sau đó giáo viên vừa viết mẫu, vừa nhắc lại cách viết. Tiếp theo học sinh sẽ được thực hành trên bảng con. Qua đó tôi có thể kiểm tra, nhận xét, sửa trực tiếp cho những học sinh viết chưa chuẩn các nét.
II.2.4.3Rèn cho học sinh viết liền mạch:
Khi viết, để thực hiện yêu cầu nối chữ và đảm bảo tốc độ viết nhanh, ta thường viết liền mạch.Viết liền mạch là viết tất cả các hình cơ bản của chữ cái trong một chữ ghi tiếng rồi sau đó mới đặt dấu thanh, kể cả dấu phụ của con chữ.
VD: khi dạy viết chữ ghi tiếng nước- Bài chữ hoa D, tuần 5 :
Tôi hướng dẫn học sinh viết liền mạch các hình cơ bản của chữ cái thành nuoc sau đó viết nét móc (dấu phụ) trên ư, ơ và dấu sắc (dấu thanh) trên ơ để thành chữ ghi tiếng nước.
II.2.4.4 Rèn cho học sinh viết đều nét:
Bên cạnh việc rèn cho học sinh viết đúng mẫu chữ, đúng cỡ chữ, viết liền mạch, tôi rất quan tâm đến việc hướng dẫn cho các em viết đều nét.
Để viết một chữ ghi tiếng cho đều, tôi hướng dẫn cho học sinh cách rê bút (nhấc nhẹ đầu bút nhưng vẫn chạm mặt giấy), lia bút (chuyển dịch đầu bút sang điểm đặt bút khác, không chạm vào mặt giấy) để có thể viết liền mạch, tạo sự kết nối hài hoà giữa các chữ ghi tiếng. Việc nối chữ chủ yếu được thực hiện ở các chữ viết thường, tôi xác định cho học sinh 4 trường hợp nối chữ:
. Trường hợp 1: Nét móc cuối cùng của chữ cái trước nối với nét móc hoặc nét hất đầu tiên của chữ cái sau.
Ví dụ: Chữ Anh – Bài chữ hoa A, tuần 1.
Tôi lưu ý cho học sinh viết khoảng cách giữa chữ A, chữ n và chữ h hơi hẹp lại, bằng khoảng cách giữa a và i, tránh cách xa quá.
. Trường hợp 2: Nét cong cuối cùng của chữ cái trước nối với nét móc hoặc nét hất đầu của chữ cái sau. Ví vụ: Chữ Em, một
Tôi lưu ý học sinh điều chỉnh khoảng cách giữa hai chữ cái sao cho không gần quá hay xa quá. Ví dụ: Chữ em – Bài chữ hoa A, tuần 1.
Hoặc chỉ hướng ngòi bút ở cuối nét cong sang nét hất sao cho hình dạng hai chữ vẫn rõ ràng, khoảng cách hợp lí. Ví dụ: chữ một – Bài chữ hoa H, tuần 10
. Trường hợp 3: Nét móc hoặc nét khuyết của chữ cái trước nối với nét cong của chữ cái sau.
Ví dụ: Chữ góp – Bài chữ hoa G, tuần 8.
Tôi lưu ý học sinh xác định điểm dừng bút ở chữ cái trước để lia bút viết liên tiếp chữ cái sau sao cho liền mạch.
. Trường hợp 4: nét cong của chữ cái trước nối với nét cong của chữ cái sau.
Ví dụ: Chữ hoà - Bài chữ hoa A, tuần 1.
Tôi lưu ý học sinh cách rê bút từ điểm cuối của chữ o sang ngang rồi lia bút viết tiếp chữ cái a để thành oa sao cho khoảng cách giữa o và a hợp lí, không gần quá hay xa quá.
Khi dạy viết từ ứng dụng các chữ ghi tiếng có chữ cái hoa đứng đầu, tôi lưu ý học sinh: chỉ một số chữ cái hoa có điểm dừng bút hướng tới chữ cái viết thường kế tiếp mới có thể thực hiện được yêu cầu nối chữ, đó là các chữ cái hoa: A, Ă , Â, G, H, K, L, M, Q, R, U, Ư, Y; và A, M, N, Q (kiểu 2)
Ví dụ: dạy từ ứng dụng: Hai sương một nắng – Bài chữ hoa H, tuần 10
II.2.4.5 Rèn chữ viết qua các môn học khác – ngoài giờ học:
Ngoài việc rèn chữ viết cho học sinh trong giờ tập viết, tôi thường xuyên kiểm tra, uốn nắn chữ viết cho học sinh qua tất cả các phân môn học khác: Chính tả; Toán; khi làm bài tập ở phân môn Luyện từ và câu; Tập làm văn; hoặc các bài kiểm tra… Đặc biệt, trong giờ Chính tả tôi yêu cầu học sinh luyện viết nhiều lần vào bảng con để khắc phục những lỗi mà học sinh thường hay mắc phải.
Việc rèn cho học sinh viết đúng mẫu và đều nét, cũng là đã rèn cho học sinh viết đẹp. Tuy nhiên , tôi cần phải hướng dẫn học sinh cách trình bày vừa khoa học , vừa đảm bảo yêu cầu thẩm mĩ.
Để giúp các em có ý thức tự trọng đối với bản thân mình, và tôn trọng thầy cô giáo, bạn đọc bài vở của mình. Tôi rèn cho các em ý thức giữ gìn vở sạch, viết chữ đẹp. Bên cạnh đó tôi đặc biệt quan tâm sử dụng có hiệu quả 15 phút luyện viết đầu giờ…
II.2.5 Coi trọng việc vết mẫu của giáo viên và chuẩn bị đồ dùng dạy học:
Vì đặc điểm lứa tuổi của học sinh tiểu học là hay bắt chước. Nên chữ viết của giáo viên đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính điều này khiến tôi luôn ý thức bản thân phải tự trau dồi kiến thức, phải thường xuyên luyện viết, phải có quyển vở luyện chữ để mỗi ngày viết một bài. Có như vậy mới chuẩn về mẫu chữ, có thể viết đẹp, viết nhanh và đúng mẫu chữ khi viết trên bảng lớp, khi nhận xét xếp loại vở cho học sinh…
Bên cạnh đó, việc chuẩn bị đồ dùng dạy học của giáo viên là rất cần thiết. Vì vậy, trước khi lên lớp tôi nghiên cứu kĩ mục tiêu của từng bài dạy; lựa chọn đồ dùng phù hợp cho từng bài.
II.2.6 Thường xuyên chấm, chữa bài cho học sinh:
Để học sinh khắc phục hiện tượng viết sai mẫu, cỡ chữ thì khâu chấm, chữa bài của giáo viên rất quan trọng:Yêu cầu chấm bài, giáo viên phải sửa chữa tỉ mỉ, gạch chân những lỗi phổ biến mà học sinh viết sai, nét chữ chữa bài của giáo viên phải thật chuẩn. Tính lỗi cho điểm phải thật công bằng, chính xác, tránh đọc lướt qua mà cho điểm học sinh.
II.2.7 Kết hợp với phụ huynh học sinh:
Ngay từ đầu năm tôi đã điều tra cơ bản chất lượng chữ viết của học sinh qua các bài chính tả nghe viết và bài tập chép cụ thể. Sau đó thống kê chỉ ra những em nào hay sai mẫu chữ, cỡ chữ để qua đó tôi tổng hợp chung cả lớp tiến hành phân loại học sinh, tìm ra nguyên nhân viết sai. Nhân dịp cuộc họp phụ huynh đầu năm của trường, tôi thông báo kết quả học tập của từng em, để cùng tìm hiểu nguyên nhân và cách khắc phục hiện tượng sai mẫu chữ, cỡ chữ của các em. Việc kết hợp với phụ huynh học sinh để sửa cách viết đúng, viết đẹp cho từng em phải thường xuyên liên tục (trao đổi qua sổ liên lạc, đến nhà trò chuyện, gặp trực tiếp khi phụ huynh đưa con đến trường...) cho đến khi các em viết đúng, viết đẹp.
II.3 Chương 3: Phương pháp nghiên cứu, kết quả nghiên cứu
II.3.1 Các phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện được đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ.
- Phương pháp thực hành luyện tập.
II.3.2 Kết quả nghiên cứu
Sau một năm tìm tòi, vận dụng các biện pháp để rèn chữ viết cho học sinh lớp 2, tôi đã thu được một số kết quả ban đầu của lớp như sau:
Thời gian
Sĩ số
Kết quả chữ viết
Loại A
Loại B
Loại C
Đầu năm
23
4
6
13
Cuối năm
23
11
9
3
Về chất lượng chữ viết học sinh trong lớp viết tương đối đúng mẫu, đúng chính tả, ngồi viết đúng tư thế, cầm bút để vở đúng cách. Trong Hội thi viết chữ đẹp cấp trường, lớp tôi có 2 em tham dự và cả 2 em đều đạt giải: 1 giải nhất, 1giải nhì. Đến với Hội thi viết chữ đẹp cấp huyện lớp tôi có 1 em tham dự, tuy chưa đạt giải cao nhưng đó là một vinh dự lớn đối với học sinh vùng nông thôn như các em và cũng là nguồn động viên các em cố gắng hơn trong các Hội thi sau.
III/ Phần kết luận, kiến nghị
III.1 Kết luận
Qua một năm nghiên cứu áp dụng và thực hiện đề tài, tôi rút ra một vài kinh nghiệm sau:
* Bản thân giáo viên phải thực sự quan tâm đến việc rèn chữ cho học sinh.
* Xây dựng cho học sinh thói quen luyện chữ và thường xuyên kiểm tra đánh giá, chấm chữa bài một cách tỉ mỉ, công bằng. Động viên, khen ngợi kịp thời trước sự cố gắng của các em.
* Luôn tìm tòi mọi biện pháp tốt nhất cho từng đối tượng học sinh của lớp mình chủ nhiệm.
* Do đặc điểm tâm lí của học sinh lớp 2- lứa tuổi mang đặc điểm tâm sinh lý khá đặc biệt: Non nớt, ngây thơ, hồn nhiên, nhút nhát, sợ sệt trong giao tiếp... hiểu được điều này tôi luôn vui vẻ gần gũi với các em, tạo cho các em niềm tin đối với khả năng nhận thức của mình.
* Trong giờ Tập viết, Chính tả...cần hướng dẫn các em thực hiện đúng các nguyên tắc về tư thế ngồi viết, cách cầm bút vị trí để tay… Khi viết, yêu cầu học sinh đưa bút từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, không ấn mạnh ngòi bút vào mặt giấy…
III.2 kiến nghị
Để nâng cao chất lượng dạy chữ viết cho học sinh lớp 2 nói riêng và học sinh Tiểu học nói chung, tôi mạnh dạn đề xuất một số vấn đề sau:
III.2.1 Cần trang bị cho giáo viên một số tài liệu tham khảo cần thiết để bổ sung hỗ trợ trong quá trình giảng dạy.
III.2.2 Mỗi giáo viên phải nhận thức đúng đắn về việc dạy chữ viết sao cho có hiệu quả, giải quyết được những tồn tại của học sinh.
Trên đây là những cố gắng và một số kinh nghiệm bước đầu để rèn chữ viết cho học sinh lớp 2 qua phân môn Tập viết. Tôi rất mong nhận được sự quan tâm, giúp đỡ, đóng góp ý kiến của các đồng chí lãnh đạo, các đồng chí trong Hội đồng khoa học các cấp, để tôi phát triển và thực hiện đề tài này trong những năm học tới được tốt hơn, đạt kết quả cao hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn.
Hoành Bồ, ngày 12 tháng 05 năm 2005.
Người viết kinh nghiệm
Hoàng Thị Huyền
IV/ Tài liệu tham khảo, phụ lục
IV.1 Tài liệu tham khảo
- Đọc sách giáo trình "Phương pháp giảng dạy Tiếng Việt"
- Sách giáo viên lớp 2
- Bộ bài soạn của giáo viên
- Vở Tập viết lớp 2
- Tập san “Giáo dục tiểu học”
- Tập san “Thế giới trong ta”
IV.2 Phụ lục
V/ Nhận xét của trường, hội đồng cấp PGD-ĐT
File đính kèm:
- SKNK Lop 2.doc