Đề tài Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn Ngữ Văn 8

- Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới dạy học môn Ngữ Văn luôn được các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Nhiều phương pháp, biện pháp mới liên tục được đưa ra dù có khác nhau nhưng đều thống nhất khẳng định vai trò của người học không phải là những bình chứa thụ động mà là những chủ thể nhận thức tích cực trong quá trình học tập. Như vậy dạy Văn là dạy cách tư duy, dạy cách đi tìm và tự chiếm lĩnh lấy kiến thức. Đó là một định hướng giáo dục quan trọng hiện nay.Cho nên tôi chọn đề tài" Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn ngữ văn 8".

doc18 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 13987 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn Ngữ Văn 8, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. PHẦN MỞ ĐẦU. I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: - Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới dạy học môn Ngữ Văn luôn được các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Nhiều phương pháp, biện pháp mới liên tục được đưa ra dù có khác nhau nhưng đều thống nhất khẳng định vai trò của người học không phải là những bình chứa thụ động mà là những chủ thể nhận thức tích cực trong quá trình học tập. Như vậy dạy Văn là dạy cách tư duy, dạy cách đi tìm và tự chiếm lĩnh lấy kiến thức. Đó là một định hướng giáo dục quan trọng hiện nay.Cho nên tôi chọn đề tài" Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn ngữ văn 8". 1.Cơ sở lí luận: - Bộ môn Ngữ Văn trong nhà trường THCS là một trong những bộ môn có dung lượng kiến thức và số tiết dạy nhiều. Chính vì vậy, việc dạy Văn cũng gặp nhiều khó khăn. Dung lượng kiến thức mỗi tiết rất dài và có độ khái quát rất lớn. Để giờ dạy có hiệu quả thì cả người dạy và người học đều phải tập trung cao độ, chuẩn bị kĩ nếu không sẽ không đủ thời gian. Trong khi đó, kiến thức lại khó và rộng, nên không phải người học nào cũng tạo cho mình một tâm lí thoải mái, hưng phấn khi học, thậm chí còn thấy mệt mỏi, kém hứng thú. Bên cạnh đó, nhiều học sinh chưa biết cách học, cách ghi kiến thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm được “sự kiện nổi bật” hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau… - Chính điều đó, bản thân là một giáo viên Ngữ văn, tôi không khỏi băn khoăn, suy nghĩ: “Làm thế nào để xây dựng được một giờ dạy Ngữ văn tốt nhất vừa đáp ứng được yêu cầu của môn học, vừa giúp cho các em học sinh có hứng thú khi học môn này, yêu Văn và tìm thấy niềm say mê đối với bộ môn?”. - Nhờ sự quan tâm giúp đỡ của Phòng Giáo dục Càng Long, Ban giám hiệu Trường THCS Bình Phú và các đồng nghiệp. Tôi đã được tham dự và lắng nghe buổi hội thảo chuyên đề về hướng dẫn giảng dạy có sử dụng Bản đồ tư duy. Từ những điều đã tiếp thu được, tôi nhận thấy cần mạnh dạn sử dụng Bản đồ tư duy vào việc giảng dạy bộ môn Ngữ văn nhằm giúp cho việc nâng cao chất lượng dạy học văn ở nhà trường THCS. 2. Cơ sở thực tiễn. -Từ thực tế những việc đã làm được tôi mạnh dạn đưa ra những ý kiến của mình và chọn viết đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn ngữ văn 8". - Để các tiết dạy Văn có sử dụng Bản đồ tư duy đạt hiệu quả. Trước tiên, tôi giới thiệu cho học sinh làm quen với Bản đồ tư duy mà tôi đã vẽ trên máy, trên giấy ( vẽ sẵn ở nhà ) hoặc trên bảng (vẽ trực tiếp trên lớp). Qua đó, nhằm dẫn dắt để các em làm quen với Bản đồ tư duy và biết cách vẽ nó. - Tập “đọc hiểu” Bản đồ tư duy, sao cho chỉ cần nhìn vào Bản đồ tư duy bất kỳ học sinh nào cũng có thể thuyết trình được nội dung một bài học hay một chủ đề, một chương theo mạch lôgic của kiến thức. - Hướng cho học sinh có thói quen khi tư duy lôgic theo hình thức sơ đồ hoá trên Bản đồ tư duy. - Các em có thể vẽ Bản đồ tư duy theo nhóm hoặc từng cá nhân và có thể vẽ ở trên lớp hay ở nhà tùy theo bài học và sự phân công của giáo viên. Nếu vẽ ở nhà, khi đem đến lớp tôi sẽ sửa chữa và bổ sung nếu cần thiết. II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 1.Mục đích nghiên cứu. Nhằm hướng các em đến một phương cách học tập tích cực và tự chủ, không chỉ giúp các em khám phá các kiến thức mới mà còn phải giúp các em hệ thống được những kiến thức đó. Việc xây dựng được một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức sẽ mang lại những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo…Một trong những công cụ hết sức hữu hiệu để tạo nên các “hình ảnh liên kết” là Bản đồ tư duy. 2. phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu việc thiết kế và sử dụng Bản đồ tư duy ở trường THCS Bình phú, tôi sử dụng các phương pháp sau: 1. Phương pháp điều tra giáo dục: Qua các câu hỏi điều tra để có thể tìm ra nguyên nhân làm cho học sinh hứng thú khi học các tiết học có sử dụng Bản đồ tư duy và hiệu quả của tiết học đó. 2. Phương pháp trò chuyện phỏng vấn để nắm được những thuận lợi, khó khăn khi dạy các tiết Ngữ văn có sử dụng Bản đồ tư duy. 3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động sư phạm: tìm hiểu sự chuẩn bị của giáo viên trong các tiết Ngữ văn có bản đồ tư duy, quá trình học tập cũng như sự hứng thú của học sinh, mức độ tiếp thu kiến thức và vận dụng kiến thức vẽ Bản đồ tư duy. 4. Phương pháp quan sát sư phạm: quan sát các thiết bị cần thiết để phục vụ các tiết Ngữ văn có Bản đồ tư duy, dự giờ các tiết có thiết kế và sử dụng Bản đồ tư duy để biết được tinh thần và thái độ học tập của học sinh. III. Giới hạn của đề tài. Đối tượng nghiên cứu là các em học sinh lớp 8/1,8/2, 8/3 trường THCS Bình Phú do tôi trực tiếp giảng dạy, kết hợp với các giáo viên dạy Ngữ văn 8, Ban Giám Hiệu và các tổ chức đoàn thể của nhà trường. IV. Kế hoạch thực thiện Khảo sát việc thiết kế và sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn ở trường THCS Bình Phú. Tìm hiểu thái độ học tập của học sinh khi học những tiết có sử dụng Bản đồ tư duy. Tìm hiểu sự chuẩn bị và cách truyền đạt kiến thức của giáo viên khi dạy các tiết học có Bản đồ tư duy. Tìm hiểu nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động tới việc tiếp thu kiến thức của học sinh cũng như sự vận dụng thiết kế và sử dụng Bản đồ tư duy của các em. - Thời gian thực thiện là trong năm học 2012 - 2013. B. PHẦN NỘI DUNG I.Cơ sở lý luận. - Bản đồ tư duy (Mind Map) còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy,… là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó dưới dạng Bản đồ tư duy theo một cách riêng, do đó việc lập Bản đồ tư duy phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người. II. Cơ sở thực tiễn.  - Bản đồ tư duy giúp học sinh học được phương pháp học tập chủ động, tích cực. Thực tế ở trường phổ thông cho thấy, một số học sinh có xu hướng không thích học môn Ngữ văn hoặc ngại học môn Ngữ văn do đặc trưng môn học thường phải ghi chép nhiều, khó nhớ. Một số em học tập chăm chỉ nhưng thành tích học tập chưa cao. Các em thường học bài nào biết bài nấy, học phần sau không biết liên hệ với phần trước, không biết hệ thống kiến thức, liên kết kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước vào bài học sau. Do đó, việc sử dụng thành thạo Bản đồ tư duy trong dạy - học, sẽ giúp học sinh có được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. - Bản đồ tư duy giúp học sinh học tập tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc học sinh vẽ Bản đồ tư duy có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học sinh, các em được tự do chọn màu sắc ( xanh, đỏ, tím, vàng…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong..), các em tự “ sáng tác” nên trên mỗi Bản đồ tư duy thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và Bản đồ tư duy do các em tự thiết kế nên các em sẽ yêu quý, trân trọng “ tác phẩm” của mình. - Bản đồ tư duy giúp học sinh ghi chép rất hiệu quả. Do đặc điểm của Bản đồ tư duy nên người thiết kế Bản đồ tư duy phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp bố cục để ghi thông tin cần thiết nhất và lôgic. Vì vậy, sử dụng Bản đồ tư duy sẽ giúp học sinh dần dần hình thành cách ghi chép hiệu quả. II. Thực trạng và những mâu thuẫn. 1. Thực trạng. Phương tiện để thiết kế Bản đồ tư duy khá đơn giản, chỉ cần giấy, bìa cứng, bảng phụ, phấn màu, bút chì màu, tẩy,…hoặc dùng phần mềm Mindmap, vì vậy có thể vận dụng với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay. Điều quan trọng là giáo viên hướng cho học sinh có thói quen lập Bản đồ tư duy trước hoặc sau khi học một bài hay một chủ đề, một chương, để giúp các em có cách sắp xếp kiến thức một cách khoa học, lôgic. 2. Những mâu thuẫn. - Bản đồ tư duy không phải là một tác phẩm hội họa nên cần tránh rơi vào việc trang trí cầu kì, trau chuốt thay cho ghi chú. - Không nên quá cực đoan cho rằng Bản đồ tư duy có thể giúp người học tất cả. Trên cơ sở những kiến thức được hệ thống hoá, sơ đồ hoá, người học còn phải biết thực hành ngôn ngữ bằng việc đọc, nói và viết. - Đối với văn bản nghị luận, việc sử dụng Bản đồ tư duy hỗ trợ đọc hiểu các văn bản sẽ là thuận lợi. Nhưng với văn bản nghệ thuật, muốn dùng Bản đồ tư duy để biểu hiện một văn bản, người học phải tìm ra mạch của văn đó. - Bản đồ tư duy không tái hiện được cảm xúc, không chuyển tải hết sự tinh tuý trong cách dùng từ, đặt câu, trong nghệ thuật cấu trúc tác phẩm. Vì vậy, sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học là cần thiết, nhưng phải tránh được sự suy diễn khô khan . IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề. Cho dù vẽ bằng tay hay bằng phần mềm tôi đều thực hiện theo các bước sau: - Bước 1: Vẽ chủ đề ở trung tâm trên một mảnh giấy (đặt nằm ngang) hoặc trên máy. + Người vẽ sẽ bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Hình ảnh có thể thay thế cho cả ngàn từ và giúp chúng ta sử dụng tốt hơn trí tưởng tượng của mình. Sau đó có thể bổ sung từ ngữ vào hình vẽ chủ đề nếu chủ đề không rõ ràng. + Nên sử dụng màu sắc vì màu sắc có tác dụng kích thích não như hình ảnh. + Có thể dùng từ khóa, kí hiệu, câu danh ngôn, câu nói nào đó gợi ấn tượng sâu sắc về chủ đề. - Bước 2: Vẽ thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm + Tiêu đề phụ có thể viết bằng chữ in hoa nằm trên các nhánh to để làm nổi bật. + Tiêu đề phụ được gắn với trung tâm. + Tiêu đề phụ nên được vẽ chéo góc để nhiều nhánh phụ khác có thể được vẽ tỏa ra một cách dễ dàng. - Bước 3: Trong từng tiêu đề phụ vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ + Khi vẽ các ý chính và các chi tiết hỗ trợ chỉ nên tận dụng các từ khóa và hình ảnh. + Nên dùng những biểu tượng, cách viết tắt để tiết kiệm không gian vẽ và thời gian. + Mỗi từ khóa, hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp khúc riêng trên nhánh. Trên mỗi khúc nên chỉ có tối đa một từ khóa. + Sau đó nối các nhánh chính cấp 1 đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh cấp 2 đến các nhánh cấp 1, nối các nhánh cấp 3 đến các nhánh cấp 2…bằng đường kẻ. Các đường kẻ càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn. + Nên dùng các đường kẻ cong thay vì các đường kẻ thẳng vì đường kẻ cong được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt nhiều hơn. + Tất cả các nhánh tỏa ra cùng một điểm nên có cùng một màu. Chúng ta thay đổi màu sắc khi đi từ ý chính ra đến các ý phụ cụ thể hơn. - Bước 4: Người viết có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan trọng thêm nổi bật cũng như giúp lưu chúng vào trí nhớ tốt hơn. 1. Các hình thức sử dụng Bản đồ tư duy hỗ trợ quá trình dạy – học: Có thể sử dụng Bản đồ tư duy ở bất kì phần nào trong tiết dạy dưới bất kì hình thức nào. 1.1. Sử dụng Bản đồ tư duy để Kiểm tra bài cũ: Giáo viên đưa ra một từ khoá nêu lên nội dung kiến thức của bài cũ rồi yê u cầu học sinh vẽ Bản đồ tư duy bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em tìm ra các nội dung liên quan đến từ khóa đó để các em có thể vẽ các nhánh con và hoàn thiện Bản đồ tư duy. Qua Bản đồ tư duy đó, học sinh sẽ nhớ lại các nội dung đã học và từ đó khắc sâu kiến thức. *Ví dụ: Khi dạy bài “ Nói giảm nói tránh” - Ngữ văn 8, thay vì kiểm tra bài cũ bằng cách đặt câu hỏi cho học sinh trả lời hoặc cho học sinh làm một bài tập nào đó rồi cho điểm. Tôi sẽ cho từ khoá “NÓI QUÁ” rồi yêu cầu học sinh vẽ Bản đồ tư duy trên bảng bằng cách đặt câu hỏi khác gợi ý cho em để em có thể vẽ tiếp các nhánh con và bổ sung dần các ý nhỏ ( nhánh con cấp 2, cấp 3…), sau khi học sinh vẽ xong, em sẽ thuyết trình trước lớp. Các học sinh khác theo dõi, nhận xét, bổ sung nếu cần thiết. Tôi sẽ nhận xét và cho điểm. Qua đó, giúp các em tự ôn lại kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng rất hiệu quả, đồng thời kích thích hứng thú học tập của học sinh. Dưới đây là Bản đồ tư duy bài “ Nói quá” – Ngữ văn 8 mà tôi đã vẽ lại trên máy bằng phần mềm Mindmap: 1.2. Sử dụng Bản đồ tư duy để dạy bài mới: Tôi đã sử dụng Bản đồ tư duy như là một đồ dùng trực quan phục vụ cho việc giảng bài mới. Đặc biệt khi dạy bằng giáo án điện tử. Đối với việc dạy bài mới, để sử dụng Bản đồ tư duy có hiệu quả, tôi phải chuẩn bị bài kĩ ở nhà. Từ nội dung bài học, tôi đúc kết thành một Bản đồ tư duy rồi vẽ trên máy (nếu dạy bằng Giáo án điện tử) hoặc trên giấy roki (nếu dạy Giáo án thường). Khi lên lớp, tôi sẽ sử dụng Bản đồ tư duy đó để hướng dẫn học sinh khai thác từng nội dung của bài học. Mỗi nội dung ứng với một nhánh con của Bản đồ. *Ví dụ: Khi dạy bài “Quê hương” của Tế Hanh, ban đầu tôi đưa ra từ khóa chính là “QUÊ HƯƠNG”, rồi lần lượt hướng dẫn học sinh phát hiện, khai thác từng nội dung chính của bài, các nhánh biểu hiện những nội dung nhỏ hơn tôi sẽ tạo hiệu ứng xuất hiện sau để lần lượt theo thứ tự mạch cảm xúc và nội dung của bài học, từ ý chính cho đến các ý phụ từng bước hướng dẫn học sinh phát hiện, khai thác từng chi tiết nội dung và nghệ thuật, từ đó giúp học sinh nắm vững nội dung của bài thơ. Cuối cùng khi phân tích xong tác phẩm, chúng ta sẽ có một Bản đồ tư duy hoàn thiện. . Không chỉ phần Văn bản mà khi dạy phần Tiếng Việt cũng có thể sử dụng Bản đồ tư duy. *Ví dụ: Khi dạy bài Nói giảm nói tránh, tôi đã vẽ sơ đồ ở trên máy hoặc bảng phụ, tôi cũng lần lượt đưa ra chủ đề trước rồi trong quá trình hướng dẫn các em học bài mới, tôi cho xuất hiện các nhánh con biểu hiện nội dung của bài cuối cùng hoàn thiện Bản đồ tư duy Nói giảm nói tránh như sau: Tương tự như thế, khi dạy phần Tập làm văn ở bài “Tìm hiểu chung về văn bản thuyết minh”, tôi đã vẽ Bản đồ tư duy về nội dung bài học và từng bước hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài học. Bản đồ như sau: Với phương pháp bản đồ tư duy trong giảng dạy từng bước giáo viên sẽ giúp học sinh tự mình phát hiện dần dần toàn bộ kiến thức bài học. Bắt đầu bằng những kiến thức tổng quát nhất - trọng tâm bài học - trung tâm bản đồ. Giáo viên giúp học sinh tái hiện những kiến thức lớn xoay quanh trọng tâm bài học, những ý nhỏ trong từng ý lớn cứ như vậy đến khi giờ học kết thúc cũng là lúc kiến thức tổng quát của bài học được trình bày một cách sáng tạo, sinh động trên bản đồ. Không những cung cấp cho học sinh kiến thức tổng thể, bản đồ tư duy còn giúp cho học sinh nhìn nhận đa chiều mọi mặt của vấn đề, từ đó đưa ra các ý tưởng mới, phát hiện mới, tìm ra sự liên kết, ràng buộc các ý tưởng trong bài tức tìm ra mạch lôgic của bài học. Sau khi hoàn thiện, học sinh nhìn vào bản đồ là có thể tái hiện, thuyết trình lại được toàn bộ nội dung kiến thức bài học. Đồng thời học sinh cũng có thể khẳng định được toàn bộ dung lượng kiến thức của bài, xác định ý chính, ý phụ và lên kế hoạch học tập hiệu quả. Trong quá trình dạy bài mới, tùy theo tiết dạy và thời gian, tôi còn cho học sinh thảo luận nhóm bằng cách vẽ Bản đồ tư duy theo các bước sau: -  Học sinh lập Bản đồ tư duy theo nhóm với sự gợi ý của giáo viên. - Học sinh đại diện của các nhóm lên báo cáo, thuyết minh về Bản đồ tư duy mà nhóm mình đã thiết lập. - Học sinh khác thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện Bản đồ tư duy về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh Bản đồ tư duy, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học. *Ví dụ: Khi dạy bài “Thông tin về ngày Trái đất năm 2000” tôi cho học sinh thảo luận bằng cách vẽ Bản đồ tư duy nêu rõ Tác hại của việc sử dụng bao bì ni lông. Dưới đây là một trong những Bản đồ tư duy của học sinh mà tôi đã vẽ lại trên máy: Học sinh sẽ căn cứ vào bản đồ tư duy mà nhóm mình thảo luận vẽ ra để thuyết trình về tác hại của việc sử dụng bao bì ni lông. Các học sinh khác bổ sung, nhận xét. Cuối cùng, tôi sẽ sửa chữa và rút ra nội dung bài học. Hoặc cũng có thể cho học sinh thảo luận nhóm để làm một bài tập nào đó. 1.3. Sử dụng Bản đồ tư duy để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học . Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ Bản đồ tư duy. Mỗi bài học được vẽ Bản đồ tư duy trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ dàng. *Ví dụ: Khi hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu xong bài “Chiếu dời đô”, thường thì giáo viên củng cố bằng cách đặt câu hỏi cho học sinh trả lời. Riêng tôi, tôi cho học sinh củng cố lại bài học bằng cách đặt câu hỏi gợi ý và yêu cầu học sinh vẽ Bản đồ tư duy về nội dung bài học (tất cả học sinh đều vẽ theo suy nghĩ của cá nhân mình). Qua bản đồ tư duy nhằm khái quát và khắc sâu kiến thức cho các em. 1.4. Sử dụng Bản đồ tư duy để ôn tập: Có thể sử dụng Bản đồ tư duy trong việc ôn tập và hệ thống lại những kiến thức đã học. *Ví dụ: Khi học xong Văn thuyết minh về một đối tượng nào đó, tôi cho học sinh hệ thống lại những kiến thức đã học bằng cách vẽ Bản đồ tư duy: Qua việc vẽ Bản đồ tư duy giúp cho học sinh nhớ lại những kiến thức đã học và khắc sâu được kiến thức. Tóm lại, Thiết kế và sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học kiến thức mới giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với sản phẩm độc đáo “kiến thức + hội họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của học và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh học sinh khi chứng kiến thành quả lao động của học trò của mình. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên Bản đồ tư duy), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống. Với những ưu điểm của mình, bản đồ tư duy trở thành một công cụ gợi mở, kích thích quá trình tìm tòi kiến thức của học sinh. Bước quan trọng nhất là giáo viên giúp học sinh phát hiện, tìm kiếm được trung tâm bản đồ - trọng tâm bài học. Sau đó theo nguyên lí bản đồ tư duy là ý nọ gợi ý kia dần dần giúp học sinh khám phá kiến thức bài học. Bằng trí tưởng tượng cùng sự tập hợp kiến thức từ các nguồn, học sinh phải biết cách phân tích tìm ra những từ khóa, hình ảnh chính xác nhất. Khi các nhánh lớn được xây dựng giáo viên cũng nên hướng dẫn học sinh sắp xếp theo thứ tự quan trọng bằng cách đánh số ở đầu mỗi nhánh. Điều đó giúp học sinh dễ dàng ôn tập sau này. Cứ làm việc theo cách đó học sinh sẽ biết cách tự mình vận động, tìm tòi khám phá, lĩnh hội tri thức một cách có hiệu quả. V. Hiệu quả áp dụng Qua một số tiết dạy có sử dụng Bản đồ tư duy, tôi nhận thấy: - Đa số các em đều phát huy được tính tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình học tập, các em lĩnh hội kiến thức vẽ Bản đồ tư duy rất hiệu quả, tiết học sôi nổi và các em rất thích thú. - Dạy học bằng Bản đồ tư duy giúp học sinh không nhàm chán về bài học mà luôn sôi nổi, hào hứng từ đầu đến cuối tiết học. Phương pháp dạy học này cũng có ích trong việc củng cố kiến thức và rèn luyện, phát triển tư duy logic, năng lực cho học sinh, nhất là những em khá, giỏi. học sinh có thể tự học ở nhà rất hiệu quả, không tốn kém.   Với những kinh nghiệm trên, kết quả cụ thể như sau: Lớp Tổng số Điểm TBM Học kì I Điểm TBM Học kì II Học kì I 2012 - 2013 8/1 30 6 24 8/2 30 10 20 8/3 32 11 21 Học kì II 8/1 30 2 28 8/2 30 2 28 8/3 32 1 31 C. PHẦN KẾT LUẬN I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác giảng dạy và học tập. 1.1. Đối với giáo viên. Là một giáo viên giảng dạy Ngữ văn thì cần phải có một trình độ kiến thức, nhất là kiến thức cơ bản về môn Ngữ văn. Ở nước ta, lên lớp giảng dạy là hình thức chủ yếu, chất lượng dạy học bộ môn Ngữ văn là do chất lượng giảng dạy trên lớp quyết định. Bài lên lớp phụ thuộc vào sự chuẩn bị của người giáo viên. Đó là quá trình suy nghĩ vận dụng kiến thức, kinh nghiệm giảng dạy cùng với việc vận dụng và sáng tạo ra nhiều phương pháp mới, sử dụng những trang thiết bị hiện đại và sáng tạo làm cho học sinh ham thích đối với môn học của mình. Trước hết, giáo viên phải nắm chắc nội dung bài dạy, nắm vững phương pháp, vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học mới, thường xuyên đổi mới và sáng tạo ra nhiều phương tiện dạy học mới nhằm tích cực hoá hoạt động của người học. Có như vậy thì tiết học mới đạt hiệu quả cao và từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy. Đối với học sinh: Luôn trau dồi, học hỏi thêm những điều mà mình chưa biết, chú ý tập trung và thực hiện theo sự hướng dẫn của thầy cô một cách tích cực, hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài và đề xuất ý kiến của mình. Ngoài việc học trên lớp, các em cần rèn luyện tính tự giác tự học thêm ở nhà, tìm thêm nhiều tài liệu để tham khảo. Bên cạnh đó, các em cần phải tích cực giao lưu, học hỏi thêm ở bên ngoài xã hội, đem kiến thức có được áp dụng vào cuộc sống, tập tính năng động, sáng tạo, tự rèn luyện mình trở thành người có ích cho xã hội. II.Khả năng áp dụng. Thiết kế và sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học có tác động mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp, phương thức dạy và học. Bản đồ tư duy là phương tiện để tiến tới một “xã hội học tập”. Việc thiết kế và sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy-học ở các trường phổ thông là rất cần thiết, đây là một trong những yêu cầu của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực”, đó là tích cực đổi mới phương pháp dạy học nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình học tập. Để có một giờ dạy – học có sử dụng Bản đồ tư duy đạt chất lượng đòi hỏi giáo viên phải tự tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu và tốn nhiều công sức mới có được, phải có đầu tư không chỉ kiến thức mà còn cả thời gian. Vì vậy mỗi thầy cô giáo cần có sự kiên trì, say mê nghề nghiệp mới có thể làm được. III.Bài học kinh nghiệm, hướng phát triển. Với những kết quả mà tôi đã đạt đuợc trong năm qua, từ việc đưa ra đề tài nghiên cứu này vào công tác giảng dạy, tuy khả quan nhưng tôi nhận thấy bản thân mình cần phải cố gắng hơn nữa, không ngừng học tập ở bạn bè, đồng nghiệp để kết quả giảng dạy Ngữ văn được tốt hơn. Đồng thời phải luôn tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo ra nhiều phương pháp, phương tiện dạy học để tạo sự say mê hứng thú của học sinh khi học Ngữ văn. Khi các em đã thấy yêu thích, gần gũi với môn học thì việc tự giác học tập là động lực rất lớn giúp cho người giáo viên trong công tác giảng dạy. IV. Đề xuất ,kiến nghị. - Cần bổ sung tranh ảnh cho bộ môn ngữ văn lớp . - Cần sắm thêm trang thiết bị, đồ dùng dạy học phục vụ cho bộ môn Ngữ văn, nhất là máy tính để các em có thể tự tay vẽ bản bản đồ tư duy. Đây chưa phải là một kinh nghiệm hoàn toàn mới mẻ vì những kiến thức tôi có được cũng chỉ là một giọt nước nhỏ bé trong đại dương kiến thức mênh mông. Nhưng tôi hy vọng nó sẽ giúp ích cho các anh (chị) đồng nghiệp (nhất là các giáo viên Ngữ văn) trong công tác giảng dạy của mình. Và tất nhiên đề tài này vẫn còn nhiều thiếu sót, rất mong các anh (chị) đồng nghiệp góp ý bổ sung thêm để đề tài của tôi ngày càng hoàn chỉnh hơn và có tác dụng tích cực đối với việc giảng dạy Ngữ văn. Người Viết Trần Văn phú

File đính kèm:

  • docSKKN.doc