Như chúng ta đã biết giáo dục mầm non là khâu đầu tiên giáo dục của qua trình giáo dục con người, mà trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục mầm non là ngành học quan trọng, đặt nền móng đầu tiên cho sự hình thành và phát triển nhân cách con người, là đơn vị cấu trúc cơ bản, là nơi chuyên trách việc xây dựng con người mới đáp ứng yêu cầu của đất nước trong từng giai đoạn. Để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đáp ứng thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì mỗi giáo dục ở mỗi nhà trường phải kết hợp với giáo dục gia đình, giáo dục xã hội. Hay nói cách khác là thực hiện tốt công tác xã hội hoá giáo dục. Như câu thơ của Bác hồ nói:
“Trẻ em như búp bê trên cành
Biết ăn, ngủ, biết học hành là ngoan”
13 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1231 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I - Đặt vấn đề
Như chúng ta đã biết giáo dục mầm non là khâu đầu tiên giáo dục của qua trình giáo dục con người, mà trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục mầm non là ngành học quan trọng, đặt nền móng đầu tiên cho sự hình thành và phát triển nhân cách con người, là đơn vị cấu trúc cơ bản, là nơi chuyên trách việc xây dựng con người mới đáp ứng yêu cầu của đất nước trong từng giai đoạn. Để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đáp ứng thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì mỗi giáo dục ở mỗi nhà trường phải kết hợp với giáo dục gia đình, giáo dục xã hội. Hay nói cách khác là thực hiện tốt công tác xã hội hoá giáo dục. Như câu thơ của Bác hồ nói:
“Trẻ em như búp bê trên cành
Biết ăn, ngủ, biết học hành là ngoan”
Biết ăn, biết ngủ như thế nào là ngoan? Đó chính là trách nhiệm của mỗi chúng ta, vì trẻ là nguồn hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của mỗi dân tộc, của mỗi quốc gia và của nhân loại. Điều 22 luật giáo dục đã chỉ rõ: “Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố hàng đầu tiên về nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp Một”.
Như vậy trường mầm non có vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân, là ngành học thực hiện việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các cháu từ 3- 72 tháng tuổi, nhằm tạo ra những mầm mống về phẩm chất, về năng lực của con người mới. Muốn làm được như vậy thì việc huy động các lực lượng xã hội tham gia vào công tác giáo dục. Trong bối cảnh của đất nước ta hiện nay, việc thực hiện xã hội hoá giáo dục đã mang lại những hiệu quả thiết thực. Nhờ vậy mà chúng ta đã huy động được cộng đồng tham gia vào giáo dục trên cả hai mặt: Tiếp nhận giáo dục và đóng góp với Nhà nước vào sự phát triển giáo dục, dần từng bước nâng cao sự hưởng thụ giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và làm cho giáo dục thực sự là của dân, do dân và vì dân. Trong những năm gần đây, hiệu quả của việc thực hiện xã hội hoá giáo dục là rất to lớn. Cộng đồng xã hội đã quan tâm đến giáo dục, đến nhà trường nhiều hơn. nhờ đó mà các trường học được trang bị tốt hơn về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy và học.
Giáo viên và học sinh được quan tâm hơn về nhiều mặt như: vật chất, tinh thần nên đã dần nâng cao được chất lượng dạy và học. Song còn một số địa phương thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục còn mờ nhạt, sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội làm chưa tốt, mọi lực lượng xã hội còn chú ý đến việc phát triển kinh tế tăng thu nhập , chưa thực sự quan tâm đến giáo dục đào tạo khoán trắng việc giáo dục cho nhà trường. Người cán bộ quản lý trong nhà trường chưa thực sự năng động trong việc huy động các lực lượng làm công tác xã hội hoá giáo dục.
Do vậy chính quyền địa phương chưa nhận thức đúng vai trò giáo dục mầm non cho sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương, dẫn đến sự đầu tư cho giáo dục là chưa thoả đáng, còn trông chờ vào sự đầu tư của Nhà nước. Chính vì vậy mà việc huy động trẻ ra lớp chưa đạt tỷ lệ cao, chất lượng giáo dục còn nhiều bất cập, cơ sở vật chất còn tạm bợ, chủ yếu còn học nhờ nhà dân, học nhờ trường tiểu học. Đặc biệt là ngành giáo dục mầm non còn hạn chế rất nhiều mặt.
Xuất phát từ những lý do trên, là một người hiệu phó, cán bộ quản lý nhà trường, tôi hiểu và nhận thức được trách nhiệm của mình trong sự giáo dục nói chung và công tác giáo dục mầm non xã Văn Luông nói riêng.
Để góp phần của mình vào xã hội hoá công tác giáo dục. Tôi đã tiến hành điều tra thực trang xã hội hoá công tác giáo dục ở địa phương mình để giúp các cấp lãnh đạo nhận ra những điểm mạnh, điểm yếu, những bài học kinh nghiệm về xã hội hoá công tác giáo dục, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu của trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Qua những năm làm quản lý trong nhà trường mầm non tôi đã thực hiện các biện pháp trên, hiệu quả của xã hội hoá công tác giáo dụcđã đem lại nhiều sự đổi thay về cơ sở vật chất và chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
Do đó tôi đã chọn sáng kiến : “Thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục” với hy vọng những biện pháp đã ở trường mầm non xã Văn Luông chúng tôi có thể áp dụng ở các trường mầm non nông thôn có điều kiện tương tự.
Phần II – Giải quyết vấn đề
I. Cơ sở lý luận và thực tiễn:
1. Cơ sở lý luận:
Xuất phát từ yêu cầu của Đảng, Nhà nước đối với sự nghiệp Giáo dục - Đạo tào mà Nghị quyết TW 2 Đảng ta đã khẳng định rõ “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài nhằm phát triển nguồn nhân lực con người phục vụ cho sự nghiệp công hiện hoá, hiện đại hoá đất nước. Đồng thời xuất phát từ mục tiêu chung của giáo dục là : “Hình thành phát triển phẩm chất và năng lực của công dân Việt Nam tự chủ, năng động, sáng tạo, có kiến thức văn hoá, có sức khoẻ, có tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội”
Xuất phát từ vị trí và mục tiêu của giáo dục mầm non. Thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Là nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển nhân cách như lời Bác Hồ dạy:
“Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”
“Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, cần phải phát huy đông đủ, dân chủ, xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy với thầy, giữa thầy với trò, giữa trò với nhau, giữa cán bộ và các cấp nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó. Trường học phải liên hệ chặt chẽ giữa gia đình và xã hội, các đoàn thể, cơ quan chính quyền các cấp uỷ Đảng phải thật sự quan tâm đến nhà trường đến việc học tập của các con em mình”
Nghị quyết 14 của Bộ chính trị (khoá IV) về cải cách giáo dục đã chỉ rõ: “Trong việc chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục thế hệ trẻ phải phát huy phấn đấu để thực hiện chế độ cho cả xã hội chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em làm cho mọi trẻ em đều được học tập một cách bình đẳng không phụ thuộc vào hoàn cảnh riêng của gia đình, dân tộc, địa phương” và như các sách báo đã viết: Trong hệ thống giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội. Nhà trường là khoa học trung tâm của tổ chức phối kết hợp và dẫn dắt công tác giáo dục của các tổ chức và các đoàn thể ở trong xã hội. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, chính quyền địa phương nắm được đường lối quan điểm giáo dục xã hội chủ nghĩa, có đội ngũ chuyên gia về sư phạm để chủ động kết hợp với các ban ngành, đoàn thể, các bậc cha mẹ trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Tuyên truyền phổ biến những kiến thức về nuôi dạy trẻ theo khoa học cho gia đình và cộng đồng. Xây dựng môi trường giáo dục thống nhất nhằm mục tiêu giáo dục con người mới phát triển toàn diện.
Xã hội hoá công tác giáo dục ở địa phương, đặc biệt là giáo dục mầm non thì người cán bộ quản lý mầm non là một hạt nhân quan trọng, là nhân tố quyết định tích cực, là người tham mưu , đề xuất các giải pháp tổ chức thực hiện phối hợp các lực lượng xã hội nhà trường, gia đình tham gia vào giáo dục, Chính vì vậy vai trò của người cán bộ quản lý trường mầm non trong xã hội hoá giáo dục, có ý nghĩa phát triển đến sự ổn định và phát triển ngành học mầm non của địa phương. Làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục sẽ tạo điều kiện để ai cũng được học hành , người nghèo cũng như người tàn tật cũng phải được Nhà nước, xã hội, cộng đồng giúp đỡ để học tập.
2. Cơ sở thực tiễn:
Văn Luông là một xã nằm ở huyện miền núi Tân Sơn, nghề chính chủ yếu là nông nghiệp và chăn nuôi, đời sống kinh tế của nhân dân trong xã còn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp, do vậy phần nào cũng ảnh hưởng đến phong trào giáo dục trong xã. Song cán bộ và nhân dân xã Văn Luông vẫn vượt lên mọi điều kiện để chăm lo cho các cháu được học hành. Các lực lượng xã hội, các đoàn thể đã quan tâm đến sự nghiệp giáo dục nói chung và bậc mầm non nói riêng. Đã triển khai chính sách của Đảng và Nhà nước về xã hội hoá công tác hoá giáo dục đến các cấp các ngành, các tổ chức làm tốt công tác giáo dục trong nhà trường.
II. Giả thuyết:
Nếu áp dụng một cách đồng bộ, đúng quy trình các bước tiến hành đã nêu trong sáng kiến kinh nghiệm thì việc thực hiện xã hội hoá công tác giáo dục trong các trường mầm non thuộc vùng nông thôn sẽ đạt được kết quả cao. Nhờ có hoạt động thực tiễn ở môi trường xã hội mà cán bộ lãnh đạo những năm gần đây về nề nếp, kỷ cương, học đường đã xây dựng và củng cố phát triển. Nghề dạy học được tôn vinh vị trí người giáo viên được coi trọng. Từ đó công tác giáo dục được phát triển và đạt hiệu quả đáng kể.
III. Qúa trình thực nghiệm giải pháp mới:
1. Quy trình tiến hành thực hiện sáng kiến:
Tham mưu với chính quyền địa phương triển khai các Chỉ thị, chủ trương, chính sách của Đảng về xã hội hoá công tác hoá giáo dục cụ thể hơn.
Tiếp nhận chủ trương, chính sách các văn bản Nghị quyết của cấp trên về xã hội hoá công tác giáo dục tương đối đầy đủ, đồng thời một số văn bản khác như:
- Nghị quyết TW2 về giáo dục.
- Quyết định số 121/HĐCP ngày 29/03/1991 về việc thành lập hội đồng giáo dục các cấp.
- Nghị quyết của tỉnh uỷ về xã hội hoá các hoạt động tham gia, đa dạng hoá các loại hình trường lớp và đầu tư nguồn lực cho giáo dục. Cơ sở vật chất của trường có nhiều chuyển biến do huy động nguồn lực ngân sách nhân dân đóng góp, các đoàn thể ủng hộ.
Tham gia các ý kiến xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục của UBND xã, thực hiện các Nghị quyết của Hội đồng giáo dục. Làm tốt công tác tuyên truyền nhằm xây dựng, nâng cao nhận thức cho dân về xã hội hoá công tác giáo dục.
Nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường. Cơ sở vật chất từng bước đã được xây dựng, công tác tổ chức phối hợp chính trị, xã hội cho việc nuôi dạy ở các gia đình. Tham gia lập quỹ khuyến học, khuyến khích động viên tài năng kịp thời. Tham gia xây dựng gia đình văn hoá mới.
2. Kết quả đạt được:
Kết quả kết hợp hoạt động trong những năm qua đặc biệt là từ năm 2003 trở về đây đã tạo được phong trào tham gia rộng khắp ở khắp tổ chức đoàn thể quần chúng nhân dân ủng hộ cho sự nghiệp giáo dục, số học sinh không đến trường đã giảm xuống. Việc huy động trẻ ra lớp đạt tỷ lệ cao, đặc biệt là trẻ 5 tuổi ra lớp đạt 100%.
Phát huy tính thường xuyên liên tục: Các hoạt động đều được duy trì thường xuyên và có hiệu quả tốt. Qua hệ thống các phương pháp chỉ đạo và các hoạt động sau một năm, nội dung xã hội hoá công tác giáo dục trường mầm non xã Văn Luông đã đem lại kết quả hàng năm tăng rõ dệt. Các lực lượng xã hội tham gia ngày càng tích cực vào việc huy động trẻ đến trường, xây dựng cơ sở vật chất, đầu tư mở trường, đóng góp kinh phí cho giáo dục dưới hình thức khác nhau cụ thể: Năm học 2006 – 2007 đã huy động được một số tiền đáng kể là và đến năm học 2007 – 2008 trường sẽ sửa sang và đóng thêm 20 bộ bàn ghế mới cho học sinh. Vậy từ đó cho ta thấy xã hội hoá công tác giáo dục giữ vai trò quan trọng trong công tác phát triển cho sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo. Kết quả huy động các nguồn lực xã hôi cho trường mầm non được thông qua biểu sau:
Biểu 1:
Năm học
Nguồn kinh phí các đoàn thể xã hội
Hội phụ huynh
Các ngành
Ngân sách xã
Quỹ khuyến học
2005-2006
4.500.000
1.000.000
1.300.000
400.000
2006-2007
5.000.000
1.500.000
2.000.000
600.000
2007-2008
6.000.000
1.600.000
2.200.000
800.000
Nhận xét: Từ kết quả Biểu 1 cho thấy: Nhờ sự thực hiện xã hội hoá công tác giáo dục, các lực lượng xã đã tham gia vào việc huy động ủng hộ kinh phí cho giáo dục dưới nhiều hình thức khác nhau ở từng năm tăng dần lên. Ngoài các chế độ tiền lương của giáo viên thì đây là các khoản thu để chi phí thêm cho các hoạt động giáo dục trong nhà trường, giúp cho nhà trường mua sắm thêm trang thiết bị, đồ dung phục vụ giảng dạy đạt kết quả cao.
Biểu 2:
Chất lượng đội ngũ, cán bộ giáo viên – học sinh
Năm học
Cán bộ giáo viên
Học sinh
Tổng số giáo viên
Giỏi
Khá
TB
Trẻ ra lớp
Chất lượng
TS
Tỷ lệ%
Tốt
Khá
TB
2005-2006
19
10
9
0
218
81
70
22
8
2006-2007
21
16
5
0
226
85
75
20
5
2007-2008
26
20
6
0
235
86
78
18
4
Nhận xét: Qua biểu trên cho ta thấy: Chất lượng của đội ngũ giáo viên và học sinh trường mầm non xã Văn Luông cùng với sự nỗ lực chung của ngành, sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ngành. Trong những năm qua về mặt chất lượng chuyên môn đã được nâng cao và đạt kết quả tốt. Việc huy động trẻ ra lớp đạt tỷ lệ cao.
3. Kết quả được kiểm chứng và ý kiến đánh giá:
Từ công tác thực trạng của năng lực quản lý, người cán bộ quản lý trường mầm non đối với xã hôi hoá công tác giáo dục trong những năm qua. Qua việc kiểm tra thanh tra toàn diện của Phòng giáo dục huyện Tân Sơn – tỉnh Phú Thọ. Kết quả đánh giá của trường được nâng lên rõ dệt. Trường nhiều năm đạt trường tiên tiến cấp huyện. Các hoạt động được duy trì thường xuyên công tác tuyên truyền xã hội hoá giáo dục phát triển đồng đều. Các lực lượng tham gia ngày càng tích cực và đạt kết quả tốt.
IV. Hiệu quả mới và ý nghĩa của sáng kiến:
1. Hiệu qủa mới:
Từ bảng thống kế số liệu trên cho ta thấy kết quả chăm sóc giáo dục đã được tăng lên rõ rệt, đặc biệt từ năm học 2005 – 2006 trở về đây.
Để có định hướng tổ chức thực hiện tốt công tác xã hội hoá giáo dục trên địa bàn, trong những năm vừa qua nhà trường đã tổ chức tốt việc xây dựng kế hoạch năm học trên cơ sở điều kiện kinh tế của địa phương, trong bản kế hoạch đã ghi rõ: Thực hiện tốt các Chỉ thị của Đảng, tăng cường công tác tham mưu với Đảng uỷ, chính quyền địa phương và phối kết hợp tốt với các tổ chức đoàn thể, cha mẹ học sinh để thực hiện tốt công tác chăm sóc giáo dục và các cháu trong nhà trường.
Tập trung công tác tuyên truyền vận động học sinh ra lớp đạt tỷ lệ cao, đúng và vượt chỉ tiêu kế hoạch giao, duy trì ổn định sĩ số học sinh, đảm bảo tỷ lệ chuyên cần. Tập trung huy động các nguồn lực ủng hộ để củng cố nâng cao chất lượng cơ sở vật chất và trang thiết bị cho nhà trường, đồng thời kết hợp với hội phụ huynh, trạm y tế xã kiểm tra thường xuyên việc thực hiện chăm sóc nuôi dưỡng.
2. ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm:
Bằng những việc làm cụ thể đã nêu ở trên đã giúp cho các lực lượng xã hội, cha mẹ học sinh, các đoàn thể thấy rõ trách nhiệm của mình cũng như trách nhiệm của nhà trường trong công tác chăm lo giáo dục trẻ.
Qua đó giúp cho mỗi cán bộ giáo viên trong trường càng thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục. Mỗi giáo viên thực hiện là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
Phần III – Bài học kinh nghiệm
I. Kinh nghiệm cụ thể:
Để làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục nói chung, trường mầm non nói riêng, người cán bộ phải làm tốt công tác tham mưu, có tầm hiểu biết rộng, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng có tri thức và kinh nghiệm quản lý, năng động, sáng tạo và linh hoạt tháo vát, dám nghĩ, dám làm.
Muốn làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục, ngoài việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phải kết hợp với nâng cao đời sống cho nhân dân trong cộng đồng.
Ngoài việc nâng cao nhận thức phải tạo ra môi trường thuận lợi cho giáo dục. Trước tiên là môi trường gia đình vì mỗi gia đình là một tế bào xã hội. Có như vậy thì xã hội mới là môi trường trong sáng và lành mạnh, tránh được tiêu cực ảnh hưởng đến giáo dục thế hệ trẻ. Xây dựng môi trường từ cảnh quan cơ sở hạ tầng, đến nề nếp kỷ cương, mối quan hệ giữa thầy và trò, với nhân dân và các tổ chức trong cộng đồng.
Thực hiện tốt công tác dân chủ hoá giáo dục trong nhà trường tạo điều kiện để nhân dân phát huy quyền làm chủ sự nghiệp giáo dục, mặt khác đảm bảo cho mọi người phát triển nhân cách toàn diện. Nâng cao nhận thức về xã hội hoá công tác giáo dục trong cộng đồng, quan hệ mật thiết với các tổ chức kinh tế, chính trị trong xã hội làm cho mỗi cá nhân, mỗi đơn vị thấy được ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với tương lai của đất nước. Qua đó huy động được các nguồn lực dồi dào cho giáo dục.
Là người cán bộ quản lý cần thấy rõ vai trò trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp giáo dục của địa phương, phát truyền tải các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, công tác chỉ đạo của ngành mầm non đến đội ngũ giáo viên trong nhà trường và tổ chức có liên quan. Việc đào tạo cán bộ giáo viên từ lý thuyết đến thực tiễn, cần có sự phối kết hợp chặt chẽ thích hợp giữa gia đình và xã hội, đảm bảo sự bình đẳng xã hội, quyền bình đẳng trẻ em.
II. Cách sử dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Sáng kiến kinh nghiệm này của tôi đã đạt được hiệu quả đáng kể thực tế ở trường mầm non Văn Luông Do đó có thể sử dụng ở các trường mầm non nông thôn những trường có điều kiện tương tự với trường mầm non Văn Luông.
Khi thực hiện sáng kiến này không nhất thiết phải dùng tất cả các giải pháp trên mà có thể chọn lọc các giải pháp cụ thể phù hợp với điều kiện địa phương mình, trường mình mà thực hiện có hiệu quả trong công tác xã hội hoá giáo dục.
ở mỗi giải pháp có thể điều chỉnh một vài điểm nhỏ cho phù hợp để nhằm đạt được mục tiêu kế hoạch, để ra. Từ thực tiễn mỗi nhà trường, mỗi sáng kiến kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện xã hội hoá công tác giáo dục ở địa phương góp phần đắc lực xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
III. Đề xuất hướng phát triển sáng kiến kinh nghiệm:
Để giáo dục đạt được mục tiêu cơ bản trong nhà trường không thể không có kế hoạch phát triển sáng kiến kinh nghiệm. Bản thân tôi là người cán bộ quản lý xin được tiếp tục nghiên cứu để đề ra những biện pháp phù hợp để ứng dụng nhằm bổ sung cho những kinh nghiệm đã có.
Khi làm rõ công tác xã hội hoá giáo dục cần có sự chỉ đạo chặt chẽ của Đảng uỷ, uỷ ban nhân dân xã sự quan tâm của ngành giáo dục. Tham mưu với địa phương mở đại hội giáo dục cấp cơ sở để chọn những người có năng lực, có phẩm chất, có tâm huyệt với sự nghiệp giáo dục địa phương. Tổ chức quy chế phối hợp tốt giữa hội đồng giáo dục với nhà trường, hội cha mẹ học sinh với các lực lượng xã hội cùng tham gia. Có tổng kết đánh giá việc thực hiện xã hội hoá công tác giáo dục trong từng giai đoạn gắn với chiến lược phát triển giáo dục ở địa phương.
IV. Kết luận và kiến nghị:
1. Kết luận:
Trên cơ sở lý luận và thực tế xã hội công tác xã hội hoá giáo dục ở xã Văn Luông – huyện Tân Sơn. Tôi nhận thấy giáo dục đào tạo là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương trong thời kỳ đổi mới. Giáo dục - Đào tạo được chuyển biến mạnh mẽ, kịp thời phù hợp với yêu cầu ngày càng cao. Là người cán bộ quản lý trường mầm non thì vai trò này lại càng quan trọng. Vì vậy người cán bộ quản lý phải nhận thức được của mình trong việc chăm sóc giáo dục trẻ. Thực hiện đúng cuộc vận động : “Kỷ cương – Tình thương – Trách nhiệm”. Làm tốt xã hội hoá công tác giáo dục ở địa phương sẽ tạo điều kiện tốt cho nhà trường trong việc chăm sóc giáo dục học sinh, tạo uy tín của người cán bộ quản lý: Dân tin, dân ủng hộ trong sự nghiệp giáo dục.
2. Kiến nghị:
Cán bộ quản lý nhà trường phải được thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực quản lý. Được tham gia xây dựng các mô hình tiên tiến trong sự nghiệp giáo dục của địa phương.
Các cấp Uỷ Đảng, các ban ngành đoàn thể ở địa phương, các lực lượng xã hội, các tổ chức trên địa bàn cùng các gia đình phụ huynh học sinh phát triển toàn diện.
Ngành giáo dục cần có văn bản liên ngành để chỉ đạo kịp thời đối với các loại hình trường nhất là quy chế phối hợp với các tổ chức ban ngành đoàn thể ở địa phương.
Địa phương, nhà trường phải phối kết hợp, làm tốt xã hội hoá công tác giáo dục. Có tổng kết đánh giá, rút kinh nghiệm và đề ra phương hướng hoạt động cho phù với tình hình thực tiễn ở địa phương.
Nhà nước cùng địa phương quan tâm hỗ trợ kinh phí cho giáo dục nói chung, giáo dục mầm non nói riêng nhất là các trường nông thôn vùng sâu, vùng xa. Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng để các trường như trường mầm non Tam Thanh chúng tôi mở được lớp bán trú, có như vậy mới nâng cao được chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ.
Đội ngũ cán bộ giáo viên được tập huấn nhiều hơn nữa để nâng cao tay nghề, vững vàng trong công tác giảng dạy.
* Do thời gian và khả năng trình bày có hạn, bản sáng kiến này có thể chưa đầy đủ và cụ thể về xã hôi hoá công tác giáo dục. Chất lượng nội dung trình bày chưa khoa học. tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp, các đồng chí cán bộ nghiệp vụ để bản sáng kiến của tôi được hoàn thiện và có tác dụng thực thi tốt hơn.
Văn Luông, ngày 8 tháng 11 năm 2007
Người thực hiện
Phùng Thị Hương
mục lục
Thứ tự
Nội dung
Trang
1
Phần I: Đặt vấn đề
1
2
Phần II: Giải quyết vấn đề
3
3
I. Cơ sở lý luận và thực tiễn
3
4
1. Cơ sở lý luận
3
5
2. Cơ sở thực tiễn
4
6
II. Giả thuyết
4
7
III. Quá trình thực nghiệm giải pháp mới
5
8
1. Quy trình tiến hành thực hiện SKKN
5
9
2. Kết quả đạt đựơc
5
10
3. Kết quả được kiểm chứng và ý kiến đánh giá
7
11
IV. Hiệu quả mới và ý nghĩa của SKKN
7
12
1. Hiệu quả mới
7
13
2. ý nghĩa của SKKN
8
14
Phần III: Bài học kinh nghiệm
8
15
I. Kinh nghiệm cụ thể
8
16
II. Cách sử dụng SKKN
9
17
III. Đề xuất hướng phát triển SKKN
9
18
IV. Kết luận và kiến nghị
10
19
1. Kết luận
10
20
2. Kiến nghị
10
File đính kèm:
- SKKN Cong tac xa hoi hoa Giao duc.doc