Theo quan điểm của nhân học hiện đại thì về mặt sinh học, toàn thể nhân loại hiện nay trên trái đất làm thành một loài duy nhất – loài Hômo sapiens. Phân cấp trực tiếp dưới loài là chủng tộc.
Vậy chủng tộc là gì? Trước đây nhân học coi chủng tộc là một tập hợp cá thể có những đặc điểm tương dồng. Do đó, đã hình thành nguyên tắc loại hình trong phân loại các chủng tộc mà nội dung chủ yếu là chỉ dựa vào sự kết hợp trừu tượng các đặc điểm hình thái. Cách phân loại đó không phải là sự tập hợp đúng đắn các chủng tộc căn cứ trên quan hệ gần gũi thực giữa chúng.
Hiện nay, những hạn chế của định nghĩa cổ điển về chủng tộc đã được bổ sung trên cơ sở những nhận thức mới. Đó là vai trò của khu vực địa lý trong quá trình hình thành chủng tộc. Nhiều nhà khoa học đã có lý khi cho rằng, chủng tộc xuất hiện do kết quả của sự sống cách biệt của một nhóm người này đối với một nhóm người khác. Nói đến sự sống cách biệt chính là đề cập đến khu vực địa lý và các điều kiện tự nhiên. Việc gắn chủng tộc với khu vực địa lý được các nhà nhân học Xô Viết gọi là nguyên tắc địa lý trong phân loại chủng tộc. Gần đây, việc phát hiện quần thể sinh học lại góp phần hoàn chỉnh hơn một định nghĩa về chủng tộc. Quần thể sinh học được hiểu là quá trình phát triển chung nhau và được đặc trưng bởi những đặc điểm hình thái sinh lý nhất định với những đặc tính sinh thái nhất định Có thể thấy từng cá thể riêng biệt không thể có những đặc trưng này. Chủng tộc không phải là một tập hợp cá thể gộp lại căn cứ vào những tương đồng mà là một tập hợp quần thể.
23 trang |
Chia sẻ: trangtt2 | Ngày: 23/06/2022 | Lượt xem: 815 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Vấn đề chủng tộc, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vấn đề chủng tộc
Khái niệm – Nguồn gốc – Phân loại chủng tộc
Khái niệm chủng tộc
Nguồn gốc hình thành chủng tộc
Nguyên nhân dẫn đến việc hình thành các chủng tộc
Phân loại chủng tộc
Đặc điểm- Sự phân bố các chủng tộc trên thế giới
Liên hệ khu vực Đông Nam á và Việt nam
Các chủng tộc ở Đông Nam á
Các chủng tộc ở Việt Nam
Mối quan hệ giữa chủng tộc với dân tộc, văn hoá
V. Tài liệu tham khảo
Khái niệm - Đặc điểm chủng tộc
1. Khái niệm chủng tộc
Theo quan điểm của nhân học hiện đại thì về mặt sinh học, toàn thể nhân loại hiện nay trên trái đất làm thành một loài duy nhất – loài Hômo sapiens. Phân cấp trực tiếp dưới loài là chủng tộc.
Vậy chủng tộc là gì? Trước đây nhân học coi chủng tộc là một tập hợp cá thể có những đặc điểm tương dồng. Do đó, đã hình thành nguyên tắc loại hình trong phân loại các chủng tộc mà nội dung chủ yếu là chỉ dựa vào sự kết hợp trừu tượng các đặc điểm hình thái. Cách phân loại đó không phải là sự tập hợp đúng đắn các chủng tộc căn cứ trên quan hệ gần gũi thực giữa chúng.
Hiện nay, những hạn chế của định nghĩa cổ điển về chủng tộc đã được bổ sung trên cơ sở những nhận thức mới. Đó là vai trò của khu vực địa lý trong quá trình hình thành chủng tộc. Nhiều nhà khoa học đã có lý khi cho rằng, chủng tộc xuất hiện do kết quả của sự sống cách biệt của một nhóm người này đối với một nhóm người khác. Nói đến sự sống cách biệt chính là đề cập đến khu vực địa lý và các điều kiện tự nhiên. Việc gắn chủng tộc với khu vực địa lý được các nhà nhân học Xô Viết gọi là nguyên tắc địa lý trong phân loại chủng tộc. Gần đây, việc phát hiện quần thể sinh học lại góp phần hoàn chỉnh hơn một định nghĩa về chủng tộc. Quần thể sinh học được hiểu là quá trình phát triển chung nhau và được đặc trưng bởi những đặc điểm hình thái sinh lý nhất định với những đặc tính sinh thái nhất định Có thể thấy từng cá thể riêng biệt không thể có những đặc trưng này. Chủng tộc không phải là một tập hợp cá thể gộp lại căn cứ vào những tương đồng mà là một tập hợp quần thể..
Vậy chủng tộc là một quần thể (hay tập hợp quần thể mà ta quen gọi là những nhóm người) hình thành trong lịch sử trên một lãnh thổ nhất định có một số dặc điểm chung trên cơ thể mang tính chất di truyền. Các nhóm người này có những đặc trưng, đặc điểm di truyền về hình thái – sinh lý mà nguồn gốc và quá trình hình thành của chúng liên quan đến một vùng địa vực nhất định. Hay nói một cách khác, chủng tộc là những nhóm người có một số đặc trưng hình thái giống nhau. Những đặc trưng đó được di truyền lại. Chủng tộc là yếu tố sinh vật học, không phải là yếu tố xã hội. Chủng tộc và quốc gia không liên quan với nhau. Nhiều dân tộc có thể ở trong một chủng tộc.
2. Nguồn gốc hình thành chủng tộc
Quá trình hình thành, thời gian hình thành các đại chủng tộc là vấn đề phức tạp. Hịên nay còn rất nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc loài người, vai trò của lao động trong việc chuyển biến từ vượn thành người.
Với sự ra đời của chủ nghĩa Mác thì vấn đề nguồn gốc loài người đã được giải quyết đúng đắn, khoa học. Trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Mác và Ănghen đã dựa vào tài liệu của sinh vật học và các khoa học xã hội, dựa vào các học thuyết về tự nhiên và xã hội để giải quyết vấn đề hình thành con người. Vai trò của lao động đã được Ănghen trình bày trong tác phẩm “Tác động của lao động trong sự chuyển biến từ vượn thành người”. Mác trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” cũng chỉ ra rằng “Con người bằng lao động của mình đã tách ra khỏi trạng thái thú vật”.
Như vậy có thể kết luận rằng: nguồn gốc hình thành loài người là từ vượn thông qua lao động sản xuất. Theo các nhà khoa học thì hiện nay trên thế giới có 4 loài vượn có thể liên quan đến nguồn gốc loài người là:
+ Gipbông (vượn tay dài)
+ Ôrăngôtăng (đười ươi)
+ Simpangiê (vượn đen)
+ Gôrila
Trong đó, loài Simpangiê về cấu tạo cơ thể là giống người hơn cả.
Các nhà nhân học, khảo cổ học căn cứ vào sự biến đổi về đặc điểm cơ thể con người đã chia quá trình hình thành con người như sau:
Vượn người (tiền thân của con người)
Người tối cổ (người vượn), Pitêcantrốp
Người cổ: Nêanđéctan
Người hiện đại: Hômôsapiens
Bằng những thành tựu khoa học ngày nay, chúng ta biết rằng con người tách ra khỏi thế giới động vật cách đây trên dưới 2 triệu năm. Đến thời kỳ đá cũ cách đây chừng 5 vạn năm, con người thuộc loại hình hiện đại xuất hiện. Người hiện đại Hômôsapiens được hình thành từ quá trình tiến hoá của người Nêanđéctan .Theo các tài liệu cổ nhân học cho biết, người Nêanđéctan đã cư trú trên một phạm vi rất rộng ở châu A, châu Phi và châu Âu. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là chuyển biến từ người cổ Nêanđéctan thành người hiện đại đã diễn ra ở khắp các vùng có sự tồn tại của người Nêanđéctan ? Vấn đề này hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất và vẫn tồn tại 3 quan điểm khác nhau về vấn đề này
* Thuyết nhiều trung tâm:
Thuyết này do nhà nhân chủng học người Mỹ đề xướng năm 1939. Theo ông có 4 trung tâm là Đông Nam á, Đông á, Tây Nam á và Nam Phi. Theo thuyết này, các chủng tộc loài người hiện nay không phải là kết quả của sự tiến hoá nội tại từ một giống người tối cổ duy nhất mà là kết quả tiến hoá đồng thời và biệt lập của từng loại người tối cổ khác nhau. Quan điểm này có thể thể hiện bằng sơ đồ:
Người tối cổ
1 2 3 4
Người cổ
1 2 3 4
Hômô Sapiens
1 2 3 4
Các đại chủng
Tuy nhiên có nhiều quan điểm cho rằng thuyết nhiều trung tâm không có cơ sở khoa học, không phù hợp với thực tế.
*Thuyết một trung tâm:
Thuyết này do các nhà khoa học Liên Xô đưa ra đầu tiên. Quan điểm này cho rằng, các chủng tộc hiện nay là do kết quả của một quá trình tiến hoá nội tại, ngày càng hoàn thiện của một dòng người cổ trước đó. Từ người khéo léo đến người Pitêcantrôp, đến người Nêanđéctan, đến người Hômôsapiens và từ đó phân hoá thành các chủng tộc như hiện nay. Ban đầu, người hiện đại chỉ xuất hiện trong một khu vực nhất định rồi từ đó lan toả đi khắp nơi.
Theo Lêvin và Kôghinxki khu vực đó bao gồm Tiền á, Nam á, một phần Đông Bắc châu Phi. Ban đầu ở đó xuất hiện 2 chủng tộc cơ bản là Tây Nam và Đông Bắc. Hai nhóm người này bị ngăn cách bởi dãy Himalaya. Từ 2 nhóm đó đã phân hoá thành các đại chủng.
Đại chủng xích đạo
Nhóm Tây Nam
Ơrôpêôit
Nhóm Đông Bắc : Môngôlôit
Sơ đồ :
Ơrôpôit Nêgrô-Ôxtralôit Môngôlôit
Nhóm Tây Nam
Nhóm Đông Bắc
Dãy Himalaya
Nêanđéctan ở vùng giáp ranh á, Âu, Phi
*Thuyết 2 trung tâm
Môngôlôit
Ôxtralôit
Căn cứ vào đặc điểm chủngtộc hiện nay, đặc bịêt các đặc điểm không có tính thích nghi như nhóm máu, hình thái răng, đường vân bàn tay thì người ta thấy sự gần gũi giữa người Môngôlôit và Ôxtralôit, giữa người Ơrôpêôit và Nêgrôit. Theo A. ngay từ thời đá cũ đã xuất hiện 2 trung tâm hình thành chủng tộc, sớm nhất là Đông Bắc Phi và Tây Nam á. Và trên cơ sở đó hình thành các chủng tộc người hiện nay.
Phương Đông
Sơ kỳ đá cũ
Phương Tây
Ơrôlôit
Nêgrôit
Cũng theo các tác giả của quan điểm này, dù xuất hiện ở 2 trung tâm với thời gian sớm muộn chút ít, nhưng ở cả hai đã thuộc về loài hiện đại. Hômôsapiens dần dần phân bố rộng khắp nơi trên Trái đất, tiếp tục thích nghi với các điều kiện tự nhiên khác nhau để phân hoá thành các chủng tộc hiện nay.
Quan điểm này có nhiều điểm trùng với những phát hiện mới về cổ nhân học và dần có sức thuyết phục hơn, nhưng vấn đề hiện nay chưa thống nhất là thời gian hình thành và phân hoá chủng tộc
3. Nguyên nhân dẫn đến việc hình thành các chủng tộc.
Sự hình thành chủng tộc có rất nhiều nguyên nhân nhưng có 3 nguyên nhân cơ bản sau:
3.1 Sự thích nghi với hoàn cảnh tự nhiên
Tự nhiên đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành đặc điểm chủng tộc. Nhiều đặc điểm chủng tộc là kết quả sự chọn lọc tự nhiên và sự thích nghi với môi trường, vì lúc bấy giờ sức sản xuất thấp và những thiết chế của con người chưa được hoàn chỉnh, chưa đủ sức chống lại những điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên.
Màu da là một ví dụ rõ ràng về sự thích ứng tự nhiên. Màu da người đậm nhạt là do lượng sắc tố mêlanin trong da quyết định. Sắc tố mêlanin có khả năng hấp thụ tia tử ngoại mặt trời, do đó có tác dụng bảo vệ các kết cấu quan trọng trong da. Người da đen sống ở vùng xích đạo Châu Phi và Tây Thái Bình Dương quanh năm ánh sáng chói chang tất nhiên phải có nhiều mêlanin trong da và da phải đen. Tóc người da đen thường xoăn, là một hình thức thích ứng để chấp nhận với môi rrường đó.
Người Môngôlôit (Mông Cổ) khe mắt nhỏ thường là mắt một mí hay có mí góc che hạch nước mắt. Những đặc điểm đó có liên quan với điều kiện sống trong vùng nhiều gió cát ở Trung á và Xibia. Cũng cần nói thêm rằng, hoàn cảnh tự nhiên chỉ có tác dụng đối với quá trình hình thành chủng tộc, khi kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật phát triển thì sự thích ứng tự nhiên không còn là nguyên nhân xuất hiện chủng tộc nữa.
3.2 Sự sống biệt lập giữa các nhóm người
Do dân số ít, mỗi quần thể ban đầu chỉ vài trăm người ở các môi trường khác nhau đã tạo nên sự khác biệt về một số đặc điểm cấu tạo bên ngoài của cơ thể. Theo các nhà dân tộc học, do sự sống biệt lập, họ tiến hành nội hôn trong nhóm, điều đó đóng vai trò to lớn trong việc hình thành chủng tộc. Di truyền học cho biết nếu lấy nhau trong nội bộ thì khoảng 50 thế hệ, mỗi thế hệ khoảng 25 năm thì 1250 năm có thể làm biến đổi một số đặc điểm của chủng tộc ban đầu
3.3 Sự lai tạo giống giữa các nhóm người.
Là nguyên nhân quan trọng và là yếu tố để hình thành, hợp nhất các chủng tộc. Thời kỳ đầu, những đặc điểm chủng tộc được hình thành do sự thích nghi với môi trường địa lý, nhưng về sau khi các điều kiện kinh tế xã hội phát triển thì các yếu tố có tính chất xã hội càng được tăng cường, sự lai giống ngày một đẩy mạnh, đóng vai trò quan trọng để hình thành các loại hình nhân chủng mới
4. Phân loại chủng tộc
Khái niệm chủng tộc ra đời hầu như cùng một lúc với việc phân loại chủng tộc. Có nhiều cách phân loại khác nhau, tuỳ thuộc vào những đặc điểm cụ thể trên thể.
Francois Bernier là một trong những người đi đầu trong việc phân loại chủng tộc. Theo ông (năm 1684) có thể chia nhân loại thành 4 chủng tộc :
1/ Chủng tộc cư trú ở châu Âu, Bắc Phi, Tiền á, ấn Độ
2/ Chủng tộc cư trú ở phần còn lại của châu Phi
3/ Chủng tộc cư trú ở Đông á và Nam á
4/ Chủng tộc cư trú ở vùng Bắc cực
Dựa trên những tài liệu giải phẫu học, nhà y học người Đức đã phân biệt 5 chủng tộc (1775) :
1/ Cápca (da trắng) gồm người châu Âu, Tây á và Bắc Phi
2/ Mông cổ (da vàng) gồm những người châu á và người Exkimô
3/ Êtiôpi (da đen) gồm người châu Phi, trừ Bắc Phi
4/ Mỹ gồm người Anhđiêng
5/ Mã lai gồm những người sống trên các đảo phía Nam Thái Bình Dương
Năm 1800 Cuvier cũng phân chia 3 chủng tộc (da trắng, da vàng, da đen) dựa vào các màu sắc của da. Như vậy, một số chủng tộc chủ yếu trên trái đất đã được phát hiện từ thế kỷ XVIII. Đó là chủng Âu (hay Cápca hoặc Ơroopêôit), chủng Phi (Êtiôpi hay Nêgrôit), chủng á (Mông Cổ hoặc Môngôlôit) và chủng Mỹ (Amêricanôit). Ngoài ra, người ta còn phát hiện một vài nhóm loại hình như Laplandi (cực Bắc) Nam á hoặc Mã Lai. Riêng chủng úc (Ôxtralôit) cho tới lúc này chưa có ai đề cập tới. Đến thế kỷ XIX chủng này mới được Thôma Huxlaay (1870) đưa vào hệ phân loại.
Sang thế kỷ XX bắt đầu hình thành các hệ phân loại nhiều cấp. Một trong những hệ phân loại có cơ sở khoa học và ra đời sớm là hệ phân loại của J.Deniker (1900) theo cách phân loại này, phân loại có 6 nhóm gồm 29 chủng tộc đượcêsắp xếp như sau : theo thứ tự A,B,C,D,E,F
Nhóm chủng tộc có tóc bông, đen, mũi rộng gồm 4 chủng tộc Bôsman, Nêgritô, Negơrơ, Mêlanêdiên.
Nhóm tóc xoăn và uốn có 4 chủng tộc : Êtiôpien (Êtiôpi), Ôtralieen (úc), Dravidieen, Axirôit.
Nhóm tóc đen, uốn, mắt đen gồm 7 chủng tộc : Inđô Aphơgan, Arập, Bébe, Địa Trung Hải, Ibêrieen-đảo, Tây Nam Âu, Ađriatich.
Nhóm tóc hung, thẳng hoặc uốn, mắt màu sáng có 2 chủng tộc : Bắc Âu, Đông Âu
Nhóm tóc đen, thẳng hoặc uốn, mắt đen có 4 chủng tộc : Ainu, Pôliêndiên, Anhđônêdiên, Nam Mỹ
Nhóm tóc thẳng gồm 8 chủng tộc : Bắc Mỹ, Trung Mỹ, Pâtgôn, Exkimoo, Lôparieen, Ugô-Exnixây, Turan, Mông Cổ.
Từ nửa sau thế kỷ XX nhiều hệ phân loại chủng tộc tiếp tục được công bố và hoàn thiện. Người có nhiều cống hiến trong lĩnh vực này là tiến sĩ nhân học và dân tộc học Nga N.N.Tchêbôxarôv (1951). Theo hệ phân loại của ông (xem sơ đồ 2), nhân loại được chia thành 3 đại chủng : Xích đạo hay úc-Phi (Ôxtralônêgrooit), Âu (Ơrôpêôit) và á (Mônggôlôit), mỗi đại chủng bao gồm một số tiểu chủng. Còn nhóm loại hình là cấp phân loại cơ sở.
Hệ phân loại này đến nay vẫn thông dụng. Ưu thế của nó là sự cấu tạo của hệ thống vừa theo chiều dọc (thời gian), vừa theo chiều ngang (không gian)
Đại chủng
Tiểu chủng
Nhóm loại hình
Xích đạo hay úc Phi
(Ôxtralô-Nêgrôit)
Phi(hay Nêgrôit)
úc(hay Ôxtralôit)
Nam Phi(Bôsman)
Trung Phi(Nêgrin)
Xu Đăng(Negơrơ)
Đông Phi(Êthiôpiê)
Anđaman(Nêgritô)
Mêlamêdiên
Ôxtraliên
Curilieen(Ainu)
Xâylôđônxki(Veđôit)
Âu(Ơrôpêôit)
Nam Ơrôpêôit (hay ấn Độ-Địa Trung Hải)
Nam ấn (Dravidiên)
ấn Độ-Pamia
Tiền á
Địa Trung Hải-Ban Căng
Đại Tây Dương-Biển Đen
Đông Âu
Đại Tây Dương- Ban Tích
Uran
Nam Xibêri
Trung Tâm châu á
Xibêri (Baican)
Địa cực
Viễn Đông (Đông á)
Nam á
á (Môngôlôit)
Nam Môngôlôit hay (Thái Bình Dương)
Mỹ hay Amêrican
Nam Mỹ
Pôlinêdiên
Bắc Mỹ
Trung Mỹ
* Nhóm lai:
Hệ phân loại chủng tộc thế giới (N.N.Tchêbôxarôv, 1951 )
Các đại chủng hình thành vào cuối thời kỳ đồ đá cũ, cách đây khoảng 30 ngàn năm. Sau đó chúng phân hoá thành các tiểu chủng và đến thời kỳ đồ đá mới xuất hiện các nhóm loại hình nhân chủng do sự hoà huyết giữa các nhóm người trước đó sống cách biệt.
Vì thế, về cơ bản sự phân chia các chủng tộc trên thế giới chủ yếu dựa vào đặc điểm cơ thể con người. Một số những đặc điểm chủ yếu được sử dụng để phân loại các đại chủng được cụ thể hoá ở bảng sau:
Bảng: Phân loại các đại chủng theo đặc điểm cụ thể
Đặc điểm
Môngôit
Ơrôpêôit
Nêgrô - Ôxtralôit
Da
Tóc
Lông cấp 3
Khuôn mặt
Dạng mắt
Dạng mũi
Môi
Dạng đầu
Vóc người
Tỉ lệ thân hình
Vàng, nâu nhạt
Thẳng, cứng
Vừa- ít
Bẹt, rộng, ít râu
Nếp trên, mi góc
Thấp, lỗ bầu dục
đặt chéo nhau
Vừa
Vừa, Trung bình
Ngắn
Trắng xanh
Dạng sóng, mềm
Vừa- nhiều
Dài, cằm dô
Tròn
Cao, dài nhô phía trước
Mỏng
Dài
Vừa, cao
Vừa
Nâu, nâu đậm, đen
Xoăn
ít
Hàm dô
Tròn
Bẹt, rộng, lỗ tròn nằm ngang
Dầy- rất dầy
Dài – tròn
Lùn – cao
Dài
Qua những đặc điểm trên có thể thấy chủng tộc được hình thành dưới tác động trực tiếp của điều kiện tự nhiên. Sự ra đời đồng loạt của các nhóm loại hình trong các đại chủng và tiều chủng lại là sự chấm dứt của việc hình thành chủng tộc. Địa vực của chủng tộc bị phá vỡ, rang giới giữa các chủng tộc bị xoá nhoà dần.
Đặc điểm – sự phân bố các chủng tộc trên thế giới
1.Đại chủng Môngôlôit
Đại chủng Môngôlôit bao gồm phần lớn cư dân sống ở châu á và cả thổ dân da đỏ châu Mỹ, nên còn gọi là đại chủng á Mỹ.
Môngôlôit bắt nguồn từ chữ Mongol có nghĩa là Mông Cổ vì gốc của đại chủng này có lẽ là những cư dân cổ sống ở Mông Cổ và Nam Sibir. Người Mông Cổ hiện nay vẫn còn có những nét điển hình của đại chủng Môngôlôit.
Đại chủng Môngôlôit có màu da từ hơi vàng đến nâu nhạt nên còn gọi là đại chủng da vàng. Tóc đen và thẳng, lông và râu ít phát triển. Mắt đen, mí trên rất phát triển, có mí lót (nếp mi Mông Cổ). Khuôn mặt to, bẹt, gò má cao, xương gò má phát triển. Mũi rộng trung bình, sống mũi không cao, môi dày trung bình. Đầu tròn hoặc ngắn, răng cửa hình xẻng, chân tay ngắn.
Đại chủng Môngôlôit chiếm hơn một nửa dân số trên thế giới. Đại chủng này ra đời ở trung tâm châu á rồi di lên phương Bắc, xuống phương Nam và sang châu Mỹ, tạo thành 3 nhóm : Môngôlôit phương Bắc, Môngôlôit phương Nam và Môngôlôit châu Mỹ.
Nhóm Bắc Môngôlôit có 2 loại hình : Xibiarian và Đông á bao gồm cư dân Mông Cổ, Bắc Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản có tầm vóc cao lớn, da màu sáng.
Người Môngôlôit thiên di xuống phía Nam rồi hợp huyết với người Ôxtralôit ở đấy làm thành nhóm Nam Môngôlôit gồm người Choang, người Việt, người Thái, người Miama và người MãLai sống ở Nam Trung Quốc và Đông Nam á.
Cách đây khoảng hơn 2 vạn năm, người Môngôlôit ở Đông Bắc á thiên di sang châu Mỹ qua eo biển Bêrinh trong thời kỳ băng hà tạo thành nhóm thổ dân châu Mỹ (Môngôlôit châu mỹ), còn gọi là người da đỏ hay người Inđian. Họ có màu da vàng sẫm, có ánh đỏ, tóc đen và thẳng, người ít lông, mặt rộng và bẹt, mí mắt trên ít phát triển, mũi dài và khoằm. Họ có một số đặc điểm khác với người Môngôlôit châu á, có thể do những người Môngôlôit di cư từ châu á sang muộn hơn, nên đã có điều kiện hỗn chủng với người Địa Trung Hải hoặc người Ôxtralôit (người bản xứ châu Đại Dương). Do sự thích nghi với môi trường địa lý, nên có sự khác nhau đôi chút giữa thổ dân Bắc Mỹ, Trung Mỹ và Nam Mỹ nên nhiều người chia nhóm người Môngôlôit châu Mỹ làm 3 loại hình : Môngôlôit Bắc Mỹ, Môngôlôit Trung Mỹ và Môngôlôit Nam Mỹ.
Hiện nay, người da đỏ châu Mỹ đã bị tiêu diệt gần hêt, chỉ còn một ít dồn lại sống ở miền hoang mạc phía Tây Nam Hoa Kỳ và trong rừng rậm lưu vực sông Amadôn.
2.Đại chủng Ơrôpôit
Đại chủng Ơrôpôit còn gọi là đại chủng châu Âu hoặc đại chủng da trắng vì họ sống tập trung chủ yếu ở châu Âu và có nhiều loại hình da trắng. Đại chủng này chiếm khoảng 40% dân số thế giới, phân bố chủ yếu ở châu Âu, Bắc Phi, Tây á, ấn Độ.
Đại chủng Ơrôpôit có những đặc điểm hình thái chủ yếu sau : Da từ trắng đến ngăm đen, lông trên mình phát triển, đặc biệt là râu. Tóc mềm, màu vàng nhạt đến đen, thẳng hay uốn làn sóng. Mắt to, mắt thường màu xanh nhạt, màu tro hoặc nâu nhạt. Mặt hẹp và dài, gò má không cao, mũi cao và hẹp, môi thường mỏng, cằm dài lại vểnh. Tầm vóc người thường cao hoặc trung bình. Đầu thường tròn, răng hàm trên có núm.
Đại chủng Ơrôpôit ra đời ở châu á, địa bàn đầu tiên có lẽ là ấn Độ, sau mở rộng ra Tây á, Bắc Phi và Nam Âu, tạo thành nhánh Nam Ơrôpôit hay nhóm “ấn Độ - Địa Trung Hải” bao gồm người ấn Độ, Iran, ả Rập, Do Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, Anbani, Italia, Pháp
Sau thời kỳ băng hà tan, người Ơrôpôit di cư lên phương Bắc, tạo thành nhánh Bắc Ơrôpôit hay còn gọi là nhóm “ Đại Tây Dương – Ban Tích” có thân hình cao lớn hơn và màu da, màu mắt, màu tóc sáng hơn nhánh phía Nam. Họ thường có da trắng, tóc vàng, mắt xanh, bao gồm người Bắc Đức, Hà Lan, Anh, Đan Mạch, Thuỵ Điển, Phần Lan, Nga. Càng lên phương Bắc thì màu da, màu tóc, màu mắt càng sáng hơn, tầm vóc cao lớn hơn. Nhánh Bắc Ơrôpôit gồm 2 loại hình: Phương Bắc và Đông Âu (Nga, Phần lan).
Những khu vực mà hai chủng tộc Ơrôpôit và Môngôlôit sống gần nhau, hợp huyết sinh ra những chủng tộc lai như người Côdắc, Kiêcghidi ở Trung á.
3. Đại chủng Nêgrôit
Đại chủng Nêgrôit sống tập trung chủ yếu ở lục địa châu Phi và có màu da đen nên còn được gọi là đại chủng Phi hay đại chủng da đen.
Tổng cộng số dân của đại chủng này chỉ chiếm 1/10 dân số thế giới, phân bố chủ yếu từ sa mạc Xahara trở về phía Nam lục địa Phi, ngoài ra còn có ở miền Nam ấn Độ, các đảo thuộc ấn Độ Dương và châu Mỹ.
Đặc điểm nhân chủng điển hình của đại chủng này là có da màu từ tối đến đen sẫm, tóc đen, xoăn tít, lông trên thân rất ít, mắt đen, to, mũi rộng, môi rất dày, mặt hẹp, vóc người thường cao, chân dài (trừ người lùn Pichmê ở Trung Phi), đầu dài, răng hàm trên có núm phụ.
Đại chủng Nêgrôit chia làm 3 tiểu chủng : Nêgrô, Nêgrilô và Busơmen.
Tiểu chủng Nêgrô hay Xuđan là tiểu chủng điển hình nhất, chiếm hầu hết những đặc điểm hình thái chung của chủng tộc đã nêu trên. Họ có màu da rất tối hoặc đen, tầm vóc cao, sống chủ yếu từ phía Nam Xahara tới xích đạo, mà diển hình là dân cư sống ở các lưu vực sông Nigiê, sông Cônggô và thượng sông Nin.
Tiểu chủng Nêgrilô chủ yếu sống trong vùng rừng xích đạo Trung Phi, đại biểu là người Picmê - có tầm vóc thấp bé, cao trung bình 141 – 142cm, chân ngắn, da sáng hơn người Nêgrô, lớp lông trên mặt khá phát triển, đầu to và tròn, mặt ngắn, hốc mắt rất to, môi không dày lắm, trán dô, mũi rộng.
Tiểu chủng Busơmen hiện nay còn rất ít, gồm có người Busơmen và người Hốttentốt sống ở vùng bán hoang mạc và hoang mạc ở Tây Nam Phi và Nam Phi. Họ có da màu lá khô, tầm vóc trung bình hoặc thấp, chân ngắn, mặt bẹt hơn, đặc biệt có mí trên rất phát triển, có nếp mí Mông Cổ.
Ngoài ra ở châu Phi còn có loại hình đặc biệt nữa, đó là người Êtiôpia ở Đông Phi (chủng tộc Đông Phi). Họ có nhiều nét giống người Nêgrôit như mặt hẹp, môi dày, tóc xoăn, ít lông trên thân mình nhưng lại có một số nét giống người Ơrôpôit như mũi hẹp và thẳng. Họ là kết quả của sự hỗn chủng giữa người Ơrôpôit với người Nêgrôit nên có khuôn mặt giống người Âu, nhưng da tối hơn. Vì vậy, nhiều ý kiến cho rằng đây là một chủng tộc lai giữa hai đại chủng Nêgrôit và Ơrôpôit.
4. Đại chủng Ôxtralôit
Đại chủng Ôxtralôit bao gồm đa số các thổ dân sinh sống ở lục địa Ôxtrâylia và trên các đảo lân cận phía Nam Thái Bình Dương, họ có da màu sẫm (đen hoặc nâu đen), lớp lông trên người rất phát triển, đặc biệt có râu rất rậm. Mặt ngắn và hẹp, gò má thấp, trán vát, gờ trên ổ mắt khá phát triển, mũi rộng, sống mũi gẫy, môi dầy và hàm trên vẩu, đầu dài. Vóc dáng người trung bình (trừ người lùn Nêgritô gần giống người lùn Picmê ở châu Phi). Về đặc điểm huyết học, họ có nhóm máu khác hẳn người Nêgrôit ở châu Phi.
Đại chủng Ôxtralôit gồm nhiều tiểu chủng có đặc điểm hơi khác nhau tuỳ theo vùng như : Người Mêlanêdiêng, người Nêgritô, người Ôxtraliêng
Người Mêlanêdiêng là đại diện điển hình của đại chủng Ôxtralôit. Họ hiện sống rải rác ở châu Đại Dương trên đảo Papua, Niu Ghinê và một số đảo phía Nam Thái Bình Dương.
Người Nêgritô có thân hình thấp bé, giống người lùn Picmê ở châu Phi. Họ sống chủ yếu ở Niu Ghinê, Niu Hêbrit, Tân Caliđôni và một số đảo khác.
Người Ôxtraliêng mà đại diện là những thổ dân trên lục địa Ôxtrâylia. Họ có đặc điểm hình thái gần giống người Mêlanêdiêng, cũng có lông trên người và râu rậm, tóc uốn làn sóng, trán vát hơn. Hiện nay họ chỉ còn khoảng vài vạn người, sống biệt lập trong những vùng núi hoang vu ở trung tâm lục địa.
Ngoài ra, trên quần đảo Pôlinêdi thuộc Nam Thái Bình Dương có một loại hình người đặc biệt, đó là người Pôlinêdiêng, hiện sống trên các đảo như Hawai, Samoa, Tahiti Họ có một số đặc điểm nhân chủng điển hình của người Ôxtralôit như tóc xoăn, môi dầy, trán hơi vạt Theo nghiên cứu của các nhà nhân chủng học thì đây là chủng tộc trung gian giữa 2 đại chủng Ôxtralôit và Môngôlôit, vì căn cứ vào vị trí địa lý cư trú của người Mêlanêdiêng và những đặc điểm hình thái của họ.
III. Sự phân bố chủng tộc ở Đông Nam á và Việt nam
1. Các chủng tộc ở Đông Nam á
Châu á là một trong những trung tâm hình thành con người, là địa bàn xuất hiện chủng tộc.Trên bản đồ nhân chủng học thế giới châu á nói chung và Đông Nam á nói riêng có vị trí rất quan trọng. Đây là địa bàn phân bố đại chủng Môngôlôit với các tiểu chủng Bắc á, Đại Dương, Viễn Đông, Nam á và hai nhóm trung gian Kurin, Pôlinêdiêng.
Tài liệu cổ nhân học của Đông Nam á cho ta biết Nam á là Anhđênêdiêng là hai nhóm loại hình nhân chủng chủ yếu ở Đông Nam á và bán đảo Đông Dương. Đó là những phân cấp của tiểu chủng Môngêlôit phương Nam. Sự hình thành các nhóm loại hình này diễn ra rất phức tạp. Trên cơ sở nghiên cứu cột sọ của người Anhđônêdiêng thời cổ, giáo sư Hà Văn Tấn đã kết luận: “Những xương sọ thời đại nguyên thuỷ phát hiện trên đất Việt Nam mà các học giả Pháp coi là thuộc giống Anhđênêđiêng chính là chủng tộc Môngêlôit và đại chủng Ôttalee – Nêgrôit. Như vậy, địa vực phát sinh ra người Anhđênêđiêng là vùng tiếp xúc đầu tiên giữa hai đại chủng, có thể là Đông Dương về sau phát triển khắp Đông Nam á lục địa và hải đảo. Vùng phân bố của loại hình Nam á hiện nay khá rộng lớn. Giữa người Anhđênêđiêng và Nam á vừa có quan hệ lịch sử vừa có quan hệ chủng tộc.
Các dân tộc ở nước ta đều nằm trong 2 nhóm loại nhân chủng Nam á và Anhđênêđiêng. Các dân tộc loại hình Anhđênêđiêng như: Các tộc thượng ở Tây Nguyên, người Bru – Vân Kiều. Các dân tộc thuộc nhóm loại hình Nam á như người Việt, Khơme và các dân tộc ít người ở phía Bắc.
Cả hai nhóm loại hình có những đặc điểm khác nhau như: tóc trắng và đen lông trên người ít phát triển, cánh mũi bè và dẹt,kích thước đầu và mặt thuộc loại trung bình. Tuy nhiên nếu so sánh cũng có những khác biệt.
Nam á
Anhđênêđiêng
Tầm vóc
Cao hơn
Thấp hơn
Màu da
Sáng hơn
Sẫm màu hơn
Hình dáng đầu
Đầu ngắn
Đầu dài hay dài trung bình
Mũi
Hẹp hơn
Rộng hơn
Tóc
Tỷ lệ uốn không đáng kể
Tỷ lệ uốn lớn hơn
Quá trình hình thành hai nhóm loại hình này có thể biểu diễn qua đồ sau:
Ôxtralôit + Môngêlôit
Anhđênêđiêng nguyên thủy
Nam á cổ
Mônglôit hóa
Nam á
hiện đại
Anhđênêđiêng hiện đại
Đồ đá giữa
Đồ đá mới
Đồng thau
Hiện nay
Tóm lại, nhiều nhà nghiên cứu khi bàn về Đông Nam á, trong đó có Việt Nam đều coi đây là một khu vực có đặc thù về nhiều mặt địa lý, kinh tế, văn hoá, xã hội, lịch sử, đồng thời có tính cách thống nhất về mặt nhân chủng.
2. Các chủng tộc ở Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia gồm nhiều dân tộc. Đại bộ phận là dân tộc Việt (còn được gọi là dân tộc Kinh) và khoảng hơn 50 dân tộc ít người sống rải rác từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau.
Dân tộc Việt sống khắp trê
File đính kèm:
- de_tai_van_de_chung_toc.doc