Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử, một hình thái ý thức xã hội, tồn tại lâu đời trong lịch sử xã hội loài người. Nếu chỉ kể những tôn giáo lớn đang tồn tại hiện nay, tôn giáo đã có lịch sử tồn tại hàng nghìn năm (Phật giáo 25 năm, Ki Tô giáo 2500 năm, Hồi giáo khoảng 1300 năm). Nếu kể cả những hình thức tôn giáo sơ khai nguyên thuỷ thì có thể nói (mà không thể cường điệu rằng) tôn giáo tồn tại gần xuyên suốt lịch sử xã hội loài ngưòi. Tôn giáo là một bộ phận quan trọng trong đời sống con người, là một bộ phận trong nền văn hoá của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia.
79 trang |
Chia sẻ: lephuong6688 | Lượt xem: 847 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử, một hình thái ý thức xã hội, tồn tại lâu đời trong lịch sử xã hội loài người. Nếu chỉ kể những tôn giáo lớn đang tồn tại hiện nay, tôn giáo đã có lịch sử tồn tại hàng nghìn năm (Phật giáo 25 năm, Ki Tô giáo 2500 năm, Hồi giáo khoảng 1300 năm). Nếu kể cả những hình thức tôn giáo sơ khai nguyên thuỷ thì có thể nói (mà không thể cường điệu rằng) tôn giáo tồn tại gần xuyên suốt lịch sử xã hội loài ngưòi. Tôn giáo là một bộ phận quan trọng trong đời sống con người, là một bộ phận trong nền văn hoá của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia.
Thời gian gần đây, tình hình tôn giáo trên thế giới có những diễn biến phức tạp, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần được lý giải trên cơ sở khoa học. Do đó, tôn giáo đang trở thành một trong những vấn đề thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học cũng như những nhà hoạt động thực tiễn.
Nước ta là nước có nhiều tôn giáo và trong lĩnh vực tôn giáo, bên cạnh những yếu tố tích cực cũng có nhiều yếu tố tiêu cực; bên cạnh những nội dung, nghi thức lành mạnh, cũng còn không ít những điều mê tín, những hủ tục. Sự hiểu biết về tôn giáo và những hình thức tôn giáo cụ thể chưa đầy đủ.
Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề về tôn giáo trên thế giới cũng như ở Việt Nam là việc làm cần thiết, nhằm ứng xử cho đúng đắn với các hình thức tôn giáo khác nhau ở cấp độ Nhà nước hay trong quần chúng nhân dân. Các chính sách tôn giáo với những chủ trương, biện pháp của Đảng và Nhà nước cần được xác định và bổ sung cho đầy đủ, nhằm hạn chế sự lợi dụng tôn giáo vào những mục đích khác nhau: kinh tế, chính trị, xã hội..
PHẦN MỞ ĐẦU
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÔN GIÁO
I. Định nghĩa và sự ra đời của tôn giáo
I.1. Định nghĩa tôn giáo
I.1.1. Theo nghĩa rộng
Có rất nhiều định nghĩa tôn giáo theo nghĩa rộng được đưa ra, trong đó định nghĩa của nhà tôn giáo học Haichelin (người Pháp) đã thâu tóm được nguồn gốc và bản chất của tôn giáo, đó là:
“ Tôn giáo là một sự phản ánh đặc biệt, hoang đường và sai lệch trong ý thức xã hội, những mối quan hệ giũa con người với nhau và với tự nhiên. Bởi con người trong xã hội nguyên thuỷ cũng như trong các xã hội được phân chia thành giai cấp. Xã hội Cổ đại, Phong kiến, Tư bản cũng đều đặt dưới sự thống trị của những sức mạnh ở bên ngoài mà họ không nhận biết được cũng như không chi phối và kiểm soát được. Vì thế mà đối với chúng, họ cảm thấy có sự sợ hãi, bí ẩn. Sự sợ hãi này theo giải thích của các nhà thờ sẽ sản sinh ra các vị thần”.
I.1.2. Theo nghĩa hẹp
Sự ra đời của một tôn giáo theo đúng nghĩa đầy đủ của nó được gọi là tôn giáo theo nghĩa hẹp hay còn gọi là đạo. Tôn giáo hẹp ra đời cùng với sự thiết lập xã hội có giai cấp, các quốc gia dân tộc ra đời. Các nhà nghiên cứu thường cho rằng một tôn giáo theo nghĩa hẹp cần hội tụ ba hoặc bốn yếu tố
* Y Lam bert: Điều cốt lõi của một tôn giáo là ý thức phản ánh mối quan hệ giũa cái trần tục và cái siêu nhiên, tác động đến một cộng đồng người hay một nhóm xã hội có tổ chức cho dù tôn giáo ấy phát sinh ở buổi sơ khai của nhân loại hay muộn hơn. Hay nói cách khác cái cốt lõi chính là niềm tin tôn giáo phải có ba yếu tố:
+) Sự tồn tại như giả định của các vật thể các lực lưỡng hay cái thực thể nằm ngoài những giói hạn khách quan trong điều kiện của con ngưòi.
+) Sự tồn tại của những phương tiện biểu tượng để giao tiếp với những sức mạnh đó.
+) Sự tồn tại của những hình thức quản lý chung của các cộng đồng.
* Đặng Nghiêm Vạn cho rằng cần có bốn yếu tố :
+) Có giáo lý phản ánh một thế gii quan rõ rệt
+) Có người sáng lập, có đấng tối cao với một thiên thần
+) Có tổ chức
+) Có lễ thức phức tạp, định kỳ, kiêng cự.
I.2. Sự ra đời của các tôn giáo
Khi nào tôn giáo xuất hiện? Có phải rằng khi con người xuất hiện trên Trái Đất thì đồng thời tôn giáo cũng ra đời hay không? Thực tế lịch sử đã cho thấy đã có thời kỳ lịch sử hàng triệu năm con ngưòi tồn tại và phát triển chưa hề có tôn giáo. Tôn giáo chỉ xuất hiện và tồn tại khi trình độ nhận thức và trình độ xã hội của con người đến một mức độ nhất định. Trình độ của con người tương ứng với trình độ sức sản xuất phát triển. Các nhà khoa học cho rằng trong suốt thời kỳ Bầy người nguyên thuỷ con người chưa hề biết đến tôn giáo. Đến cuối thời Bầy người đã có một hiện tượng đáng lưu ý đó là ở người Neamđertan đã xuất hiện mộ táng chứng tỏ con người đã biết chôn đồng loại.
Trước hiện tượng mộ táng có nhiều kiến giải khác nhau. Có người cho rằng đó là thể hiện một ý tưởng tâm linh nào đó về thế giới bên kia. Một số người khác lai cho rằng đó chỉ xuất phát từ tình thương hoặc sợ hãi, sự thối rữa
Nhưng các nhà khoa học đã thống nhất tới hậu kỳ đá cũ khi xuất hiện người Hômesapien gắn với sự ra đời của Công xã thị tộc thì tôn giáo xuất hiện với bằng chứng là trong nhiều mộ táng của người chết có chôn theo lương thực, trang sức, đồ dùng, vũ khí.thể hiện sự bất tử về linh hồn, về thế giới bên kia.
II. Bản chất - cơ cấu, nguồn gốc, tính chất và các bước phát triển của tôn giáo.
II.1. Bản chất - cơ cấu
- Tôn giáo là một hiện tượng xã hội, một hình thái ý thức xã hội, là "thế giới quan lộn ngược" trong giải quyết mối quan hệ giữa con người và siêu nhiên, cái hiện thực với cái hư ảo, cái trần tục với cái thiêng liêng, cái trần gian với cái siêu trần gian; là sự phản ánh hư ảo, hoang tưởng những sức mạnh bên ngoài (cả tự nhiên và xã hội), trong đó sức mạnh trần gian mang hình thức sức mạnh siêu tưởng, tưởng tượng bằng sức mạnh siêu nhiên chi phối toàn bộ đời sống con người và cả cộng đồng người.
- Tôn giáo với hình thức phát triển hoàn chỉnh, hiện đại của nó bao giờ cũng bao gồm các yếu tố: quan niệm, niềm tin tôn giáo; tình cảm tôn giáo; hành vi tôn giáo (gắn với tổ chức và hoạt động của tổ chức tôn giáo, của những nhà tu hành chuyên nghiệp, với những cơ sở hạ tầng như: nhà thờ, thánh thất, chùa chiền, )
II.2. Nguồn gốc
II.2.1. Nguồn gốc nhận thức:
Ý kiến của Phơ Bách, Mác, E.ghen, Lê Nin đều khẳng định con người sáng tạo ra tôn giáo.
Tôn giáo nảy sinh trong một xã hội mà trình độ sản xuất hết sức thấp kém, con người vừa mới thoát khỏi thế giới động vật, còn lệ thuộc vào tự nhiên. Cho nên, trên cơ sở ban đầu của tôn giáo là sự phản ánh sai lầm của con nguời về thế giới vật chất trước những hiện tượng bão táp, sấm sét, bão lụt, động đất,.Còn từ cả những trạng thái của con người như giấc mơ, ốm đau, bệnh tật,..
Theo E.ghen: từ thời đại nguyên thuỷ, tôn giáo đã sinh ra từ những biểu tượng hết sức ngu muội, tối tăm và nguyên thuỷ của con người về bản chất của chính họ nói về tự nhiên bên ngoài bao quanh họ.
II.2.2. Nguồn gốc xã hội:
Bên cạnh các hiện tượng tự nhiên, con người còn luôn phải đối mặt với những lực lượng tự phát trong quan hệ xã hội, ví dụ như trong xã hội thị tộc, bộ lạc vấn đề chiến tranh dành đất đai, phân công lao động trong cộng đồng..... Trước những vấn đề đó những sức mạnh xã hội này cũng xa lạ, đối lập với con người và trước những sức mạnh xã hội người ta không tìm ra lối thoát, trong thực tế phải tìm lối thoát bằng ảo tưởng, bằng tôn giáo, đặc biệt trong các xã hội có giai cấp đối kháng. Ngoài sự bất lực của con người trước những hiện tượng xã hội diễn ra tự phát đa dạng, còn có sự áp bức bóc lột giai cấp mà trong đó quần chúng nhân dân lao động là người phải gánh chịu những bất công. Những người bị bóc lột không những bị bóc lột về kinh tế, lệ thuộc về chính trị mà còn bị nô dịch về tinh thần, tình trạng sống thiếu thốn, lao động cưỡng bức, o ép về tinh thần buộc họ phải tìm lối thoát nhưng không thể tìm được lối thoát trong cuộc sống trần gian nên đành phải hy vọng vào một cuộc sống nơi thiên đường, thế giới bên kia.
II.2.3. Nguồn gốc tâm lý
Lòng biết ơn những người khám phá, tấn công vào cường quyền cũng đẻ ra tôn giáo. Từ lòng biết ơn, ngưỡng mộ đó, họ tôn sùng những người có tính cách siêu phàm, xuất chúng có công đức to lớn.
II.3. Tính chất
- Tính chất lịch sử.
- Tính chất quần chúng: biểu hiện ở số lượng các tín đồ tôn giáo chiếm tỉ lệ cao trong dân số thế giới và tôn giáo đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận đông đảo quần chúng nhân dân lao động.
- Tính chất chính trị.
II.4. Các bước phát triển của tôn giáo (các hình thức tôn giáo trong lịch sử)
II.4.1. Các hình thức tôn giáo sơ khai trong thời kì xã hội nguyên thuỷ
Đây là dạng tôn giáo thứ nhất gắn với xã hội thị tộc, bộ lạc. Bao gồm:
Bái phật giáo (thờ vật)
Tôtem giáo (thờ vật tổ)
Ma thuật giáo (phù thuỷ)
Vật linh giáo
Tục thờ cúng tổ tiên
Saman giáo (là hình thức lên đồng của các thầy phù thuỷ)
II.4.2. Các dạng thức tôn giáo trong thời kì xã hội có giai cấp và nhà nước
- Tôn giáo quốc gia dân tộc: là kiểu tôn giáo thứ hai trong lịch sử xã hội loài người, gắn liền với sự ra đời xã hội có giai cấp nhà nước đầu tiên và chiếm nô. Đặc trưng của tôn giáo này là tính chất quốc gia nhà nước của nó, sức mạnh cuả các vị thần vượt ra ngoài biên giới quốc gia dân tộc. Ví dụ: Bàlamôn, Hinđu, Do thái, Sintô, Khổng, Lão.
- Tôn giáo thế giới: là kiểu tôn giáo thứ ba trong lịch tôn giáo loài người. Đó là những tôn giáo vượt ra khỏi khu vực mang tính thế giới. Tôn giáo thế giới ra đời gắn với giao lưu văn hoá, xung đột quốc gia, bành trướng của các đế chế.
III. Vai trò (tác động) của tôn giáo trong đời sống xã hội.
Trước đây các nhà khoa học thường chỉ thấy mặt tác hại, xu hướng đi về đánh giá mặt hạn chế của tôn giáo mà không thấy ở tôn giáo sự tích cực nào. Gần đây các nhà nghiên cứu đã có nhiều thay đổi. Bên cạnh sự phê phán những hạn chế đã thấy được những tiến bộ, đóng góp của tôn giáo với xã hội.
Thế giới là một hình thái ý thức xã hội nằm trong kiến trúc thượng tầng nên luôn tác động trở lại hạ tầng đã sản sinh ra nó. Nhưng tôn giáo khác với các hình thái ý thức xã hội khác như triết học, ở chỗ tôn giáo nó ở xa cơ sở hạ tầng hơn. Vì vậy nhiều khi nó tác động trở lại cơ sở hạ tầng thông qua các yếu tố trung gian chứ không tác động trực tiếp. Do vậy, tác động của tôn giáo ở nhiều lĩnh vực khác nhau và hết sức phức tạp. Có những tác động lớn, sâu sắc nhưng cũng rất khó lường hậu quả của nó.
III.1. Tác động tiêu cực:
Theo Mac: Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của một thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.
- Tôn giáo là “thuốc phiện" của nhân dân - chức năng đền bù hư ảo. Tôn giáo cho rằng con người khổ đau là một tất yếu và con người muốn tho¸t khổ thì không có phương thuốc nào mà chỉ bằng cách là thực hiện những hiện những lời dạy của tôn giáo. Trong lúc con người muốn giải thoát mình khỏi nỗi khổ trần thế thì tôn giáo vẽ ra cho mình một tương lai sáng sủa nơi thiên đường, vẽ ra một hy vọng trong thất vọng. Mỗi khi con người gặp sự bất hạnh, trắc trở, khổ đau trong trần thế tôn giáo lại khuyên họ có thần thánh phù hộ.
- Tính chất tiêu cực của tôn giáo được thể hiện đặc biệt rõ nét khi có sự sóng đôi của chính trị và tôn giáo. Khi tôn giáo bị lợi dụng trở thành công cụ của giai cấp thống trị.
- Mỗi một tôn giáo có một hệ thống giáo lý, lễ nghi riêng và tôn giáo nào cũng có niềm tự hào riêng. Các tín đồ của tôn giáo đều coi tôn giáo của mình là ưu việt, chính thống, độc tôn. Chính tính cứng rắn, bảo thủ của các tôn giáo và niềm tự kiêu của các tín đồ tôn giáo là nguồn gốc cho các xung đột sắc tộc kéo theo xung đột chính trị.
- Bất kì một giáo lý, nội dung tôn giáo nào dù là tôn giáo sơ khai hay phát triển, tôn giáo với tư cách là một hệ thống đều bao hàm trong nó nhiều yếu tố bảo thủ, những sức ì không theo kịp thời đại, nhiều điều mê tín, nhiều yếu tố ý thức hệ đối lập với chủ nghĩa khoa học, ít nhiều mang tính hoang tưởng cho nên nó kìm hãm sự phát triển của khoa học, chống đối khoa học ở một số thời kì lịch sử.
III.2. Tác động tích cực:
- Sự ra đời của mỗi tôn giáo là sự phản ứng, chống đối lại cái trật tự xã hội đương thời, nó thể hiện khát vọng được giải phóng của quần chúng bị áp bức. Bởi vì trong các cuộc đấu tranh của quần chúng, tôn giáo cũng là công cụ, là phương tiện.
- Tính hướng thiện: trong mọi thời kì lịch sử, mọi chế độ xã hội con người luôn mong muốn sống trong xã hội bình đẳng, công bằng, nhân ái. Sự xuất hiện của một tôn giáo nào đó là biểu hiện của sự khát vọng của con người. Trong mọi tôn giáo, đều chứa đựng mọi đạo đức, luân lý tôn giáo. Đạo dức đó được thể hiện trong các điều răn, cấm trong tôn giáo. Trong những điều răn cấm đó có những điều không hề liên quan tới tôn giáo mà nó biểu hiện của các mối quan hệ thuần tuý trần thế. Ví dụ: không giết người, không trộm cắp,....
- Tôn giáo góp phần vào sự phát triển của các ngành khoa học cơ bản và khoa học thực nghiệm. Con người một khi có niềm tin, cảm xúc, đạo đức, tôn giáo thì trở thành động lực cực mạnh thúc đẩy con người, biểu lộ nhiệt thành của mình bằng các hành động cụ thể được biểu hiện ra qua các công trình kiến trúc, hội hoạ, âm nhạc, thơ văn, nghệ thuật, Tôn giáo tạo ra nhiều di sản văn hoá to lớn, vĩ đại, không kém gì những công trình văn hoá xuất phát từ nhu cầu phục vụ đời thường.
- Chức năng giao lưu văn hoá: các tôn giáo trong quá trình phát triển, truyền lan trên bình diện thế giới không chỉ đơn thuần là sự truyền tải niềm tin với vị thế là một sự kiện văn hoá, một bộ phận trong nền văn hoá mỗi quốc gia. Qua quá trình giao lưu tiếp xúc với nhau tôn giáo có vai trò truyền tải, hoà nhập văn hoá, văn minh giữa các dân tộc, quốc gia, châu lục.
IV. Sự biến động của tôn giáo trên thế giới.
IV.1.Thực trạng, nguyên nhân biến động của tôn giáo
IV.1.1. Thực trạng
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, đồng thời cũng là một thực thể ý thức xã hội. Kể từ khi xuất hiện đến nay, tôn giáo luôn biến động phản ánh sự biến đổi của lịch sử. Một tôn giáo cụ thể ở một quốc gia nhất định có thể suy tàn, hưng thịnh, thậm chí tiêu vong, song tôn giáo nói chung, từ khi ra đời cho đến nay chưa có khi nào vắng bóng trong xã hội loài người. Vị trí vai trò của mỗi tôn giáo ở từng khu vực, ở từng quốc gia trong các thời kỳ lịch sử khác nhau cũng không như nhau.
Việc đánh giá thực trạng tôn giáo trên thế giới hiện nay đang còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng tựu trung lại có mấy cách đánh giá sau đây:
- Tôn giáo đang khủng hoảng và suy tàn
- Tôn giáo ở Tây Âu suy tàn nhưng tôn giáo ở các nước, các châu lục còn lại đang có xu hướng phát riển.
- Tín ngưỡng, tôn giáo đang phục hồi và phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia, châu lục.
IV.1.2. Nguyên nhân:
- Những mâu thuẫn về kinh tế, chính trị, xã hội ngày càng gay gắt
- Khủng hoảng niềm tin về mô hình xã hội tương lai.
- Những hậu quả tiêu cực của sự phát triển kinh tế - xã hội và công nghệ mới.
IV.2. Các xu hướng biến động của tôn giáo.
IV.2.1. Toàn cầu hoá tôn giáo
Hiện nay hầu hết các tôn giáo đều mong muốn trong thiên niên kỷ mới sẽ là thời đại của tôn giáo mình (trừ tôn giáo dân tộc)
Vấn đề toàn cầu hoá tôn giáo chủ yếu phụ thuộc vào chính sách cường quốc muốn gắn nhân quyền với tự do tôn giáo cho từng dân tộc, từng tộc người. Muốn thông qua đó, can thiệp nội bộ các nước, bắt các nước đi theo con đường chúng vạch sẵn.Ngay trong tổ chức của một tôn giáo đã không hợp nhất được với nhau, phân rẽ thành nhiều phái kể cả chính trị và tôn giáo: Bảo thủ cực đoan, Ôn hoà cải cách, Tiến bộ.....
IV.2.2. Đa dạng hoá tôn giáo
* Nguyên nhân: Dân trí toàn cầu nâng cao, không gian xã hội của từng cá nhân không bị bó hẹp trong một quốc gia, khu vực mà đã mở rộng toàn cầu. Do đó con người không chỉ tiếp xúc với một hoặc một số tôn giáo truyền thống mà còn với nhiều tôn giáo khác. Người ta tiếp cận với tôn giáo không thụ động mà có phê phán, chọn lọc. Nếu các tôn giáo truyền thống không có sự cải cách, cách tân, đổi mới, .mà cứ giữ sự lỗi thời, khắt khe lễ nghi, mê tín, hũ tục thì sẽ mất dần vị thế.
*Biểu hiện:
-Trong từng tôn giáo có sự phân rẽ tín đồ để thành ba loại: khô đạo, nhạt đạo, tâm đạo.
- Sự song hành nhiều tôn giáo trong một con ngưòi. Một người cùng một lúc tin theo nhiều tôn giáo khác nhau ngay cả ở các nước có truyền thống tôn giáo độc thân.
- Ở từng tôn giáo có tổ chức cũng bị phân rẽ thành nhiều giáo phái, nhiều nhánh, đặc biệt là Tin Lành có tới khoảng 30 hệ phái.
- Ở mỗi cá nhân muốn thờ trực tiếp Chúa của mình, muốn hiểu Chúa và giáo lý theo cách hiểu riêng của mình. Đặc biệt từ khi chủ nghĩa cá nhân cực đoan nảy sinh hiện tượng phổ biến ở Mỹ và Tây Âu có rất nhiều giáo phái mới đi theo những tôn giáo với giáo lý riêng.
- Sự xuất hiện phong trào tôn giáo mới - bắt nguồn từ phong trào thời đại mới ở Mỹ (1967 -1968), sau đó lan rộng ra châu Âu và các nước đang phát triển. Đây là một phong trào xuất hiện những con người tự nhận là nhà tiên tri có phép màu đứng ra lập đạo mới.
* Nguyên nhân ra đời tôn giáo mới: Mỗi khi xã hội khủng hoảng niềm tin chưa tìm ra lối thoát; vào lúc khủng hoảng cả hai ý thức hệ Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa; khi niềm tin vào các tôn giáo cổ truyền bị suy giảm do tín đồ bị gò bó vào các lễ giáo khắt khe, cứng nhắc, nghi thức rườm rà, lỗi thời;..
* Khuynh hướng tôn giáo mới:
- Phân rẽ từ một tôn giáo, nhiều khi vượt xa giáo lý ban đầu hoặc rút ra một đặc điểm trong giáo lý để tôn thờ.
- Xoay quanh trục một tôn giáo có sẵn rồi nhào trộn, lắp ráp những yếu tố của tôn giáo khác vào và tạo ra một tôn giáo mới.
- Có thể dựng lên từ một nhu cầu trần tục và gắn vào đó một hương thơm tôn giáo tạo thành một phong trào.
* Đặc điểm của hình thức tôn giáo mới:
- Mang tính toàn cầu, giáo phái lớn có chi nhánh ở nhiều nước, chỉ đạo sát sao, tín đồ cuồng tín, nội dung giáo lý nửa tục, nửa thiêng. Nhiều giáo phái tham gia tích cực vào kinh tế, văn hoá.
- Lan toả rất nhanh, thu hút tín đồ của các tôn giáo có sẵn, phá vỡ tổ chức của các tôn giáo, gây mất ổn định cho nhiều nước, thậm chí lũng đoạn chính phủ bằng cách thành lập các chính Đảng, chính trị, quân đội.
IV.2.3. Thế tục hoá tôn giáo:
Là một xu thế nổi trội trong giai đoạn hiện nay, biểu hiện đa dạng phong phú, đó là:
- Nhập thể của các tôn giáo bằng cách tham gia vào các hoạt động trần tục, phi tôn giáo như: tham gia hoạt động xã hội, giáo dục, y tế,.
- Vai trò tôn giáo giảm sút ở các nước công nghiệp phát triển, nhất là cư dân thành thị và thanh niên.
- Con người dường như ra khỏi những tôn giáo nhất định nhưng trở lại với một tâm thức bàng bạc. Qua những lời cầu khấn, những cuộc hành hương mà không hẳn theo giáo lý, giáo luật đã quy định sẵn hoặc có khi lại gửi niềm tin vào nội dung, hành vi vào các tôn giáo khác.
- Không nhưng dẫn đến việc thể chế chế tục hoá của các nhà nước, làm mềm dẻo các thể chế thoả hiệp, thay quốc giáo bằng việc để cho các tôn giáo khác cùng hoạt động với việc đăng ký với nhà nước. Đồng thời hướng các hoạt động tôn giáo gắn với hoạt động thế tục.
IV.2.4. Dân tộc hoá tôn giáo
- Nguyên nhân: Có một số cường quốc có thế lực kinh tế, quân sự,. Có âm mưu toàn cầu hoá, muốn áp đặt nền văn hoá của mình trong đó có tôn giáo đối với các dân tộc, các quốc gia trên thế giới. Đứng trước xu thế toàn cầu hoá, nhiều quốc gia dân tộc đối phó lại sự uy hiếp của tôn giáo ngoại lai bằng việc trở lại với tôn giáo dân tộc, muốn bảo vệ văn hoá sắc thái dân tộc, không muốn tự đánh mất mình, không muốn hoà tan trong một trào lưu văn hoá thế giới.
Bốn xu thế trên đan xen lẫn nhau, xu thế này là hệ quả của xu thế kia, trong đó xu thế thế tục hoá chiếm chủ đạo.
PHẦN NỘI DUNG
I. ĐẠO HỒI (ISLAM)2
Đặng Thị Hiền
I.1. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẠO HỒI
Đạo Hồi là theo cách gọi của người Trung Hoa. Tên gốc là Islam, có nghĩa là “Phục tùng Thượng Đế”. Vì Đạo Hồi theo chân người Hồi Hột (một bộ lạc ở Tây Á xưa) truyền bá vào Trung Hoa nên Trung Hoa gọi là Đạo Hồi. Sự xuất hiện của Đạo Hồi ở bán đảo A Rập vào thế kỷ VII sau Công nguyên là một sự kiện tinh thần quan trọng, một biến cố lạ lùng ở thời Trung Cổ. Trước khi Đạo Hồi ra đời, bán đảo A Rập là một khu vực đa dạng, phong phú và đầy huyền thoại, là xứ sở “Nghìn lẻ một đêm”Cuộc sống tạo cho cư dân A Rập đầu óc mê tín, sợ hãi thần linh. Tín ngưỡng “vạn vật hữu linh” biểu hiện rõ nét ở việc thờ rất nhiều thần như: Thần Mặt Trăng, thần Mặt Trời,Người A Rập có tục thờ các phiến đá thiêng, nhất là các thiên thạch rơi xuống sa mạc. Trung tâm thờ đá là thánh địa Mecca - nơi có điện Kasba với hơn 300 ngẫu tượng.
Bán đảo A Rập thời “tiền Hồi giáo” đang ở trong thời kì tan rã của xã hội thị tộc, sự phân biệt giàu nghèo bắt đầu nảy sinh. Dân nghèo đang có xu hướng ngày càng bị phụ thuộc vào tầng lớp thống trị. Chiến tranh liên miên, các cuộc chinh phục lẫn nhau giữa các bộ lạc. Trong lúc đó sự đe doạ xâm lược của 2 quốc gia lớn là Bigiăngtin và Iran diễn ra thường xuyên. Sự phân tán về chính trị, kinh tế – xã hội của bán đảo A Rập đến thế kỷ VI đã nảy sinh nhu cầu cấp bách phải được mở mang, thống nhất để tạo điều kiện phát triển. Trước tình hình đó, Mohamed (570 - 632) - một thanh niên thông minh, là thương nhân ở Mecca - đã nhạy bén phát hiện ra nhu cầu này và khởi xướng một đức tin mới với tham vọng thống nhất tất cả các bộ lạc, thị tộc trên đất A Rập thành một khối với một tôn giáo duy nhất và một vị thần tối cao duy nhất.
Theo truyền thuyết, khi Mohamed vừa ra khỏi bụng mẹ đã đứng bật dậy và kêu to: “Ta đây là Mohamed ”, và ngay từ nhỏ Mohamed đã ham mê nghiên cứu tôn giáo. Tương truyền khi 40 tuổi (năm 610) Mohamed đã từng một mình vào trong hang nhỏ ở núi Hira, ngoại thành Mecca, tu luyện, trầm ngâm suy tưởng
Trong một đêm, Thánh Ala – chân chủ đã cử thiên sứ Gabriel đến truyền đạt Thần dụ và lần đầu tiên “Khải thị ” cho ông chân lý của Kinh Coran, khiến ông trở thành “Thánh thụ mệnh”. Từ đó về sau, ông tự xưng là tiếp thụ “sứ mệnh” của chân chủ trao cho, bắt đầu truyền bá đạo Islam. Đầu tiên, ông bí mật truyền giáo, một số bạn bè thân thiết trở thành những tín đồ sớm nhất, về sau dần dần chuyển sang công khai, đối tượng truyền đạo mở rộng tới quần chúng Mecca nói chung.
Mohamed - người sáng lập Đạo Hồi
Trong thời kỳ đầu truyền giáo, Mohamed đã khuyên bảo mọi người từ bỏ việc sùng bái đa thần và sùng bái thờ tượng thần, đồng thời cũng từ bỏ thuyết tam vị nhất thể của Đạo Cơ Đốc, yêu cầu mọi người thờ Thánh Ala độc nhất vô nhị. Ông cũng không ngừng tuyên giảng quan niệm về ngày phán xét cuối cùng và sống lại sau khi chết, cảnh cáo các giáo đồ đa thần nếu không thay đổi phương pháp và thái độ thì sau ngày phán xét cuối cùng sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc của Ala, ngược lại sẽ có thể được ban thưởng vào đời sau.
Hoạt động sáng lập Đạo Islam của Mohamed, tất sẽ dẫn tới sự phản ứng của các giai tầng trong xã hội, từ lúc mới bắt đầu đã không thuận buồm xuôi gió vì nó đe doạ trực tiếp tới đặc quyền và thu nhập kinh tế của quý tộc Corai nắm quản Kasba. Các hoạt động đả kích và bức hại đã giáng xuống đầu Mohamed và Muslim. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy ở Mecca, Mohamed truyền đạo được 13 năm (610 - 622). Mùa thu năm 622, Mohamed đưa những người ủng hộ mình đến thành phố Iaxrip (sau này là thành phố Međina). Cuộc di chuyển này mang tên Hijra, đánh dấu sự khởi đầu của kỷ nguyên Hồi giáo. Do đó năm 622 được coi là năm mở đầu kỷ nguyên Đạo Hồi , là năm thứ nhất của lịch Đạo Hồi (một thứ lịch riêng ít có tính khoa học).
Ở Iaxrip, Mohamed có điều kiện thuận lợi để truyền bá tín ngưỡng của ông. Vì vậy tín đồ Đạo Hồi theo Mohamed tăng lên nhanh. Sau nhiều cuộc giao tranh, cuối cùng Mohamed cùng tín đồ trở về Mecca một cách hoà bình vào năm 630. Thắng lợi này là tiền đề cho Mohamed phát huy ảnh hưởng của Đạo Hồi, đến cuối năm 630 phần lớn bán đảo A Rập đã nằm dưới quyền kiểm soát của “sứ giả Thánh Ala”. Ở Mecca, Mohamed cho vứt bỏ hết các ngẫu tượng trong đền Kasba, chỉ để lại một phiến “đá đen” được ông coi là báu vật của Ala ban cho Đạo Hồi để cho Muslim triều bái. Từ đó Kasba trở thành chùa Đại Thanh chân của Đạo Hồi. Mohamed tuyên bố tha thứ cho tất cả mọi người ngoại trừ một số nhỏ những kẻ thù cũ của ông, và ông bắt đầu mở rộng Đạo Hồi ra ngoài vùng đất A Rập. Năm 632, ông qua đời ở tuổi 62, sau khi truyền lại toàn bộ những điều đã được Thượng Đế khải truyền.
Bức hoạ về cảnh Mi’raj – sự lên trời của Mohamed
I.2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠO HỒI
I.2.1. Vấn đề kế vị Mohamed
Sau khi Mohamed chết, cộng đồng Hồi giáo có nguy cơ tan rã. Các vị thân cận của Giáo chủ Mohamed hiểu rõ nguy cơ này nên quyết tâm bảo vệ cộng đồng Hồi giáo, tức là thay thế Mohamed để lãnh đạo tôn giáo và chính trị.
Người đầu tiên kế vị Mohamed là Abu Bahr, một cha vợ của Mohamed, chức vụ lãnh đạo đó được gọi là Calife. Abu Bahr tại vị được 2 năm (632 - 634) đã duy trì được nền thống nhất của cộng đồng Hồi giáo.
Kế đó là Omar, một cha vợ khác của Mohamed, ông cầm quyền được 10 năm (634 - 644), Omar dốc toàn lực vào các cuộc bành trướng Hồi giáo bằng đoàn Thánh quân chinh phục các nước: Xiri, Ba Tư, Ai Cập,làm chủ vùng Địa Trung Hải. Sau đó, Omar bị một tên nô lệ ám sát chết.
Lên thay Omar là Othman, một người con rể của Mohamed, nhưng Othman bất tài làm nội bộ Hồi giáo chia rẽ trầm trọng, các phe nhóm được lập ra để chống đối nhau. Năm 656, Othman bị một đám đông vây và giết chết.
Ali lên thay, Ali cũng là một con rể của Mohamed. Tình trạng phân tán trong nội bộ vẫn tiếp tục. Đến năm 661, Ali bị ám sát chết. Người lên thay là Muawiya – sáng lập
File đính kèm:
- De tai SV nam thu 3 Van de ton giao.doc