Câu hỏi 1: Đồng chí hãy cho biết, tổ chức Công đoàn Việt Nam được thành lập vào ngày, tháng, năm nào? Do ai sáng lập?
Trả lời:
Ngày 28/7/1929, Tổng Công hội Đỏ ra đời. Từ ấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã có quá trình liên tục xây dựng, phát triển, trưởng thành, nhịp bước với lịch sử giải phóng dân tộc, lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hơn 70 năm.
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1187 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Dự thi tìm hiểu công đoàn Việt Nam 80 năm, một chặng đường lịch sử, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HƯỚNG DẪN
dự thi tìm hiểu
Công đoàn Việt nam 80 năm, Một chặng đường lịch sử
------***-------
Câu hỏi 1: Đồng chí hãy cho biết, tổ chức Công đoàn Việt Nam được thành lập vào ngày, tháng, năm nào? Do ai sáng lập?
Trả lời:
Ngày 28/7/1929, Tổng Công hội Đỏ ra đời. Từ ấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã có quá trình liên tục xây dựng, phát triển, trưởng thành, nhịp bước với lịch sử giải phóng dân tộc, lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hơn 70 năm.
Đại hội lần thứ 5 - Công đoàn Việt Nam (tháng 2 năm 1983) đã quyết định lấy ngày 28/7/1929, ngày thành lập Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ làm ngày truyền thống của Công đoàn Việt Nam. Quá trình hình thành và ra đời của tổ chức Công đoàn Việt Nam gắn liền với tên tuổi và cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam.
Những năm tháng hoạt động trong phong trào công nhân và Công đoàn Quốc tế, Bác đã nghiên cứu hình thức tổ chức Công đoàn ở các nước tư bản, thuộc địa và nửa thuộc địa. Từ đó rút ra kinh nghiệm thực tiễn, đặt cơ sở lý luận và hình thức tổ chức cho Công đoàn Việt Nam.
Trong tác phẩm "Đường Kách mệnh”, Bác viết: "Tổ chức Công hội trước là để cho công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là để giữ gìn quyền lợi cho công nhân, năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới" .
Có thể nói, trên bước đường đi tới chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đã quan tâm rất sớm đến tổ chức quần chúng của giai cấp công nhân. Quá trình Người chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức cho sự thành lập một chính Đảng vô sản cũng là quá trình Người xây dựng cơ sở lý luận và biện pháp tổ chức Công đoàn Cách mạng.
Từ năm 1925 đến 1928, nhiều Công hội bí mật đã hình thành do sự hoạt động mạnh mẽ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Đặc biệt từ năm 1928, khi kỳ bộ Bắc kỳ của Việt Nam Cách mạng Thanh niên đồng chí Hội chủ trương thực hiện "Vô sản hoá" thì phong trào đấu tranh của công nhân Việt Nam ngày càng sôi nổi, thúc đẩy sự phát triển của tổ chức công hội lên một bước mới cả về hình thức lẫn nội dung hoạt động.
Năm 1929 là thời điểm phong trào công nhân và hoạt động công hội ở nước ta phát triển sôi nổi nhất, đặc biệt là ở miền Bắc. Các cuộc đấu tranh của công nhân nổ ra liên tục ở nhiều xí nghiệp, có sự phối hợp chặt chẽ và thống nhất hành động giữa các cuộc đấu tranh ở xí nghiệp này với xí nghiệp khác trong cùng một địa phương và giữa địa phương này với địa phương khác trong toàn xứ.
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân và tổ chức công hội đòi hỏi phải có một tổ chức Mác xít, một Đảng thực sự Cách mạng của giai cấp công nhân có khả năng tập hợp, lãnh đạo công nhân đấu tranh giành độc lập tự do. Tháng 3/1929, chi bộ cộng sản đầu tiên được thành lập ở Hà Nội. Tiếp đến, ngày 17/6/1929, Đông Dương cộng sản Đảng ra đời. Đông Dương Cộng sản Đảng giao cho đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, ủy viên lâm thời phụ trách công tác công vận của Đảng triệu tập Đại hội thành lập Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ vào ngày 28/7/1929 tại nhà số 15, phố Hàng Nón, Hà Nội. Đại hội bầu đồng chí Nguyễn Đức Cảnh là người đứng đầu Ban Chấp hành lâm thời Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ.
Sự kiện thành lập Tổng Công hội đỏ miền Bắc Việt Nam là một mốc son chói lọi trong lịch sử phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam. Lần đầu tiên giai cấp công nhân Việt Nam có một đoàn thể Cách mạng rộng lớn, hoạt động có tôn chỉ, mục đích, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của đông đảo công nhân lao động. Chính vì ý nghĩa đó, theo đề nghị của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bộ chính trị TW Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định lấy ngày 28/7/1929 là ngày truyền thống của Công đoàn Việt Nam.
Câu hỏi 2: : Đồng chí hãy cho biết từ khi thành lập đến nay Công đoàn Việt Nam đã trải qua mấy kỳ Đại hội? Mục tiêu, ý nghĩa của các kỳ Đại hội?
Trả lời: Từ khi thành lập đến nay, Công đoàn Việt Nam đã trải qua 10 kỳ Đại hội.
Từ khi thành lập Tổng Công hội Đỏ Bắc kỳ đến lúc họp Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ nhất ( 1950 ) là 21 năm. Trong thời gian này, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nước Việt Nam đã độc lập, Công đoàn Việt Nam đã trở thành Công đoàn của một quốc gia độc lập, có chủ quyền.
Ngày 20/7/1946, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tuyên bố chính thức thành lập. Lần đầu tiên trong lịch sử, Công đoàn Việt Nam hoạt động công khai với những quyền hạn, chức năng mới. Đến tháng 1/ 1949, trở thành hội viên chính thức của Liên hiệp Công đoàn Thế giới.
Năm 1949, Công đoàn đã tập hợp được hơn 28 vạn đoàn viên và hơn 3 vạn đoàn viên trong quân đội. So với hơn 1 triệu công nhân trong cả nước thì tỷ lệ đoàn viên chiếm hơn 40%. Lúc này, Tổng Liên đoàn Lao động đã có 1.012 Công đoàn cơ sở, 50 Liên hiệp Công đoàn cấp tỉnh, 5 Liên hiệp Công đoàn khu, 2 Công đoàn ngành Trung ương là Công đoàn Sản xuất vũ khí và Công đoàn Bưu điện Việt Nam.
Sự liên lạc và chỉ đạo, hướng dẫn công tác đã thông suốt Bắc, Trung, Nam.
1/ Đại hội lần thứ I Công đoàn Việt Nam đã họp từ ngày 1 đến ngày 15/1/1950 tại xã Cao Vân, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, chiến khu Việt Bắc. Tham dự có gần 200 đại biểu của giai cấp công nhân Việt Nam.
“ Công đoàn Việt Nam chiến đấu cho độc lập, dân chủ và hoà bình”. Đó là tiêu đề của Báo cáo chính trị tại Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ nhất.
Đại hội đã bầu Đồng chí Hoàng Quốc Việt làm Chủ tịch, đồng chí Trần Danh Tuyên được bầu làm Tổng Thư ký.
Ban Thường vụ Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, gồm 5 đồng chí:
Trần Danh Tuyên
Nguyễn Hữu Mai
Hoàng Hữu Đôn
Nguyễn Duy Tính
Trần Quốc Thảo
Ban Giám sát Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, gồm 5 đồng chí:
Trần Bảo ( Trưởng ban )
Trần Đăng Ninh
Đặng Thiết Hân
Nguyễn Hào
Nguyễn Hàng.
Mục tiêu của Đại hội:
Đại hội đã nhất trí thông qua Nghị quyết chung, các Nghị quyết về những vấn đề cụ thể, thông qua Điều lệ Công đoàn Việt Nam.
Về công tác đối ngoại, Đại hội khẳng định giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam phải chung sức với lao động và các lực lượng dân chủ Thế giới đấu tranh chống phản động quốc tế, nhất là phản động Mỹ, để bảo vệ hoà bình, dân chủ cho nhân loại. Góp phần tăng cường đoàn kết, ủng hộ Liên Xô và các nước dân chủ mới trong cuộc đấu tranh chống Đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai của chúng. Ra sức học tập kinh nghiệm phong trào cách mạng của Liên Xô và các nước dân chủ mới. Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chống bọn lãnh tụ công đoàn phản động, tay sai Đế quốc đang có những hành động khiêu khích chia rẽ hàng ngũ giai cấp công nhân thế giới, chống hành động đàn áp quyền tự do Công đoàn của chính phủ phản động của các nước Tư bản, thuộc địa và nửa thuộc địa. Liên kết ủng hộ phong trào đấu tranh giành độc lập của công nhân và nhân dân các nước thuộc địa.
Về nhiệm vụ kháng chiến, Đại hội nhận định rằng: “ Cuộc kháng chiến của ta đang ở thời kỳ tiến tới tổng phản công. Muốn đánh thắng giặc Pháp, giai cấp công nhân phải đi tiên phong trong việc thực hiện chiến tranh nhân dân cho rộng rãi, làm tròn nhiệm vụ chuẩn bị tổng phản công và tổng phản công thắng lợi. Giai cấp công nhân phải đặc biệt tăng cường sức sản xuất về mọi mặt ở vùng tự do và đấu tranh phá hoại làm tê liệt kinh tế địch ở vùng tạm chiếm”.
Đối với chính quyền nhân dân, Đại hội xác định: “ Chính quyền nhân dân được xây dựng sau Tổng khởi nghĩa Cách mạnh Tháng 8 và được củng cố trong kháng chiến là chính quyền nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. Giai cấp công nhân phải luôn luôn đề cao, củng cố và phát triển chính quyền nhân dân, tham gia đông đảo vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính, kinh tế các cấp..., chú trọng việc lãnh đạo, phát triển chế độ uỷ ban xí nghiệp, đả phá các chính quyền bù nhìn tay sai của Pháp và phản động quốc tế, triệt để ủng hộ Chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh. Tham gia việc xây dựng Quân đội nhân dân bằng cách đưa thành phần công nhân vào các binh chủng, đặc biệt là binh chủng chuyên môn..., giúp đỡ Chính phủ củng cố Bộ Lao động
Đối với nhiệm vụ củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất, giai cấp công nhân phải liên kết với nông dân thành lực lượng trụ cột của Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời giúp đỡ các đoàn thể trong mặt trận. Trong khi thi hành chính sách Cách mạng của dân tộc mình, giai cấp công nhân phải đoàn kết rộng rãi với các tầng lớp nông dân, nhân nhượng quyền lợi giữa các giai cấp một cách hợp lý, chống lối đấu tranh qua loa và lối thủ tiêu đấu tranh vì đoàn kết một chiều.
Đối với nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế, Đại hội nhận định nền kinh tế dân chủ nhân dân là nền kinh tế chuẩn bị tiến lên Chủ nghĩa xã hội ( CNXH ) do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nền kinh tế đó gồm nhiều thành phần: kinh tế Nhà nước, kinh tế Hợp tác xã, kinh tế cá thể của nhân dân, tiểu thương, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước. Trong giai đoạn hiện tại, nhiệm vụ kháng chiến giành độc lập còn nặng nề, giai cấp công nhân ra sức xây dựng kinh tế phục vụ kháng chiến, đồng thời chuẩn bị điều kiện cần thiết để xây dựng nền kinh tế dân chủ nhân dân, phát triển kỹ nghệ quốc phòng, gây dần các cơ sở công nghiệp mỏ, hoá chất, đúc, gang..., thực hiện chính sách lao tư lưỡng lợi, khuyến khích các nhà tư sản bỏ vốn kinh doanh, phát triển tiểu công nghệ. Đoàn kết chặt chẽ với nông dân, thực hiện chính sách ruộng đất, phát triển dần Hợp tác xã sản xuất, vận tải, điều hoà nguyên vật liệu, hàng hoá, tham gia vào các chương trình kiến thiết của Chính phủ và chính quyền các cấp.
Đối với cải thiện đời sống cho công nhân lao động, Đại hội xác định: cải thiện đời sống cho công nhân, lao động là cần thiết, để công nhân có đủ sức sản xuất phục vụ kháng chiến lâu dài. Đảm bảo thực hiện những chế độ đã ban hành và chuẩn bị những thể lệ, chế độ đầy đủ hơn trong thời gian tới. Xúc tiến tự cải thiện sinh hoạt, tổ chức Hợp tác xã mua bán của công nhân, phát triển tăng gia trồng trọt, chăn nuôi..., chú trọng nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, chuyên môn, kỹ thuật cho công nhân. Giáo dục cho công nhân hiểu biết về chủ nghĩa xã hội khoa học, về vai trò tiên phong cách mạng của giai cấp công nhân, về tinh thần Quốc tế vô sản. Mở các lớp chính trị trong xí nghiệp, thanh toán nạn mù chữ trong công nhân..., đẩy mạnh phong trào trao đổi phổ biến kinh nghiệm sản xuất, đào tạo thợ mới. Đại hội đặc biệt chú trọng phát động phong trào Thi đua ái quốc, lấy thi đua ái quốc làm trọng tâm công tác Công đoàn, làm cho công nhân, lao động thấm nhuần mục đích thi đua ái quốc là sản xuất và xây dựng kinh tế để kháng chiến mau thắng lợi, kiến thiết quốc gia, thông qua thi đua mà xây dựng giai cấp, xây dựng Đảng, xây dựng Công đoàn.
Về công tác xây dựng tổ chức Công đoàn, phương châm là chấn chỉnh toàn bộ hệ thống tổ chức Công đoàn, kiện toàn các cấp, tăng cường sự lãnh đạo, liên lạc thông suốt toàn quốc. Đặc biệt coi trọng củng cố Công đoàn cơ sở, chấn chỉnh và thống nhất Công đoàn các ngành kỹ nghệ. Tập hợp lao động trí óc vào Công đoàn, chấn chỉnh tổ chức thanh niên công nhân và nữ lao động. đào tạo cán bộ và chuyên môn hoá cán bộ Công đoàn.
Điều lệ Công đoàn đã được Đại hội lần thứ nhất thông qua, ghi rõ: “ Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là tổ chức đoàn kết hết thảy lao động trí óc và chân tay trong nước, không phân biệt dân tộc, màu da, tôn giáo, nam, nữ để:
Bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất cho lao động Việt Nam, nhằm mục đích giải phóng hoàn toàn cho giai cấp và dân tộc.
Đoàn kết với hết thảy các tầng lớp nhân dân trong nướcđể kháng chiến thắng lợi và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân ở Việt Nam
Chung sức cùng lao động các dân tộc bị áp bức và các lực lượng dân chủ trên Thế giới để chiến đấu chống phản động quốc tế, chống mọi áp bức bóc lột, chia rẽ thợ thuyền và mưu đồ gây chiến tranh của chúng, để bảo vệ quyền lợi cho lao động, bảo vệ nền hoà bình và dân chủ trên Thế giới.”
Tóm lại: Mục tiêu của Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ nhất là: “Động viên công nhân viên chức cả nước, nhất là công nhân ngành Quân giới sản xuất nhiều vũ khí, khí tài phục vụ cho kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi”. Vận động công nhân viên chức lao động đẩy mạnh mọi mặt sản xuất, tích cực tham gia phong trào thi đua “ kháng chiến kiến quốc”, xây dựng và phát triển chế độ uỷ ban xí nghiệp để công nhân lao động tham gia và quản lý xí nghiệp.
ý nghĩa:Sự kiện Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ Nhất tháng 01/1950 đánh dấu bước trưởng thành to lớn của giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam. Những văn kiện được Đại hội thông qua là sự vận dụng đúng đắn, cụ thể và sáng tạo đường lối cách mạng của Đảng vào phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, là điều kiện thuận lợi cho giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn hoàn thành những nhiệm vụ mới của cuộc kháng chiến và mở ra một thời kỳ mới của công tác Công đoàn ở Việt Nam. Đại hội đã giải quyết những vấn đề lớn trong thống nhất nhận thức và hành động, sửa đổi Điều lệ Công đoàn, bầu cử chính thức Ban Chấp hành. Đại hội lấy việc thi đua ái quốc làm trọng tâm công tác
2/ Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ II
Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ 2 được chuẩn bị từ những tháng cuối năm 1960 dưới ánh sáng cuả Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 3. Tất cả các Công đoàn cơ sở, Liên hiệp Công đoàn tỉnh, thành phố, khu, và một số Công đoàn ngành Trung ương đã lần lượt mở Đại hội để thảo luận Dự thảo báo cáo chung, dự thảo Điều lệ sửa đổi và bầu Đại biểu đi dự Đại hội Công đoàn cấp trên.
Đại hội đã họp từ ngày 23 đến ngày 27/2/1961 tại Trường Thương nghiệp, Thủ đô Hà Nội.
Tổng số Đại biểu Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ 2 là 752 người, trong đó có 666 đại biểu chính thức và 86 đại biểu dự thính.
Đại hội đặc biệt phấn khởi được đón mừng Hồ Chủ tịch, Bí thư Lê Duẩn, Phó Chủ tịch Tôn Đức Thắng, Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Trường Chinh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đến dự.
Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam.
Đoàn Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam: gồm 19 đ/c
Đồng chí Hoàng Quốc Việt – Uỷ viên Trung ương Đảng - được bầu lại làm Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam.
Đồng chí Trần Danh Tuyên được bầu lại làm Phó Chủ tịch, kiêm Tổng Thư ký Tổng Công đoàn Việt Nam.
Ban Thư ký Tổng Công đoàn Việt Nam: gồm 9 đ/c
Uỷ viên chính thức Ban chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam: gồm 55 đ/c
Uỷ viên dự khuyết Ban chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam : gồm 10 đ/c
Mục tiêu của Đại hội là: “Động viên cán bộ, công nhân, viên chức thi đua lao động sản xuất, xây dựng CNXH ở miền Bắc, với tinh thần “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt” góp phần đấu tranh thống nhất nước nhà”.
Đại hội đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ chung là: đoàn kết, tổ chức, giáo dục toàn thể công nhân viên chức phát huy khí thế cách mạng, khí thế làm chủ và tính tích cực sáng tạo của quần chúng, làm cho quần chúng mau chóng nắm vững kỹ thuật tiên tiến để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá XHCN, trước mắt là thi đua hoàn thành toàn diện và vượt mức kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH, làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình, thống nhất Tổ quốc.
Đại hội xác định rõ: công nghiệp hoá XHCN gắn chặt với tiền đồ phát triển của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn. Đại hội đề cao vai trò của Công đoàn trong việc đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước theo đúng đường lối, phương châm mà Đảng đã vạch ra, đồng thời vận động quần chúng tham gia quản lý xí nghiệp để đẩy mạnh sản xuất.
Đại hội xác định: bất cứ mỗi xí nghiệp, công trường, nông trường hay cơ quan hành chính sự nghiệp đều có thể thi đua theo khẩu hiệu chung: nhanh, nhiều, tốt, rẻ và an toàn lao động. Công đoàn các ngành nắm vững khẩu hiệu thi đua chung, tuỳ theo đặc điểm của từng ngành mà vận dụng cho thích hợp, nhằm mục tiêu chính là phục vụ sản xuất, phục vụ đời sống nhân dân.
Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ 2 nêu ra luận điểm: Công đoàn là trường học CNXH và CNCS của giai cấp công nhân. Tăng cường tổ chức Công đoàn, đào tạo bồi dưỡng cán bộ Công đoàn là những công tác quan trọng được Đại hội đưa lên thành vấn đề mấu chốt để đảm bảo cho Công đoàn hoàn thành nhiệm vụ.
Về nhiệm vụ Quốc tế của Công đoàn Việt Nam, Đại hội nhấn mạnh lời dạy của Hồ Chủ tịch: “ Giai cấp công nhân nước ta và giai cấp công nhân Quốc tế chỉ là một, cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta là một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng Thế giới”
ý nghĩa: Lần đầu tiên trong lịch sử, Đại hội Công đoàn Việt Nam họp ở Thủ đô Hà Nội, trong bầu không khí hoà bình. Cũng lần đầu tiên trong lịch sử, Đại hội Công đoàn Việt Nam có các đoàn đại biểu quốc tế được mời và Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự. Đại hội đổi tên Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thành Tổng Công đoàn Việt Nam. Đại hội là cuộc sinh hoạt chính trị quan trọng của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn nhằm đưa đường lối của Đảng vào quần chúng công nhân viên chức. Những vấn đề mà Đại hội quyết định là những vấn đề quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân ta.
3/ Đại hội lần thứ III Công đoàn Việt Nam
Đến Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ 3, số công nhân viên chức ( CNVC) ở miền Bắc tăng gấp 2,5 lần so với năm 1961, trong đó lực lượng cán bộ khoa học - kỹ thuật ( KH – KT ) tăng 14 lần, chiếm hơn 15% tổng số CNVC. Số công nhân kỹ thuật tăng 4 lần chiếm 4% tổng số CNVC, Tỷ lệ thanh niên trong CNVC chiếm từ 60% đến 70%, phụ nữ lao động chiếm 42%, trong đó nữ công nhân kỹ thuật chiếm 25% tổng số công nhân kỹ thuật.
Tổ chức Công đoàn ngày càng lớn mạnh, hoạt động phong phú hơn nhiều.
Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ 3 khai mạc 8h sáng ngày 11/2/1974 tại Hội trường Ba đình – Hà Nội, trong khí thế thắng Mỹ vang dội trên khắp 2 miền Nam, Bắc. Đại hội Công đoàn Việt Nam họp trong 4 ngày, từ 11/2/1974 đến hết ngày 14/2/1974, gồm 500 đại biểu chính thức, gần 100 đại biểu dự thính.
Đại hội phấn khởi được đón tiếp Chủ tịch Tôn Đức Thắng; Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng CSVN Lê Duẩn; đồng chí Trường Chinh – Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch uỷ ban Thường vụ Quốc hội; Chủ tịch HĐBT Phạm Văn Đồng; cùng nhiều đại diện các Bộ, các Uỷ ban, Tổng cục, đại diện Uỷ ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam. Đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Công hoà miền Nam Việt Nam và đoàn đại biểu Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam Việt Nam cũng ra dự Đại hội. Các đoàn đại biểu Quốc tế cũng tới dự Đại hội.
Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ 3 có sự kiện: thay đổi Huy hiệu Công đoàn.Huy hiệu mới được in trang trọng ở trang thứ nhất Văn kiện Đại hội.
Đại hội đã bầu Ban chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam, gồm 71 đồng chí.
Bác Tôn Đức Thắng được bầu làm Chủ tịch danh dự Tổng Công đoàn Việt Nam
Đoàn Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam gồm 19 đồng chí.
Đồng chí Hoàng Quốc Việt được bầu làm Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam
Các đồng chí: Nguyễn Đức Thuận
Nguyễn Công Hoà
Trương Thị Mỹ.
được bầu làm Phó Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam
Ban Thư ký gồm 9 đ/c. Tổng thư ký là đ/c Nguyễn Đức Thuận
Ban Kiểm tra gồm 5 đ/c. Trưởng ban là đ/c Trương Thị Mỹ.
Mục tiêu của Đại hội
Dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị lần thứ 22 của Ban chấp hành Trung ương Đảng, phương hướng nhiệm vụ chung đã được Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ 3 đề cập tới là: “ Nâng cao giác ngộ XHCN, chủ yếu là tư tưởng làm chủ tập thể, ý thức làm chủ xã hội, làm chủ Nhà nước, phát huy vai trò làm chủ tập thể của CNVC, động viên phong trào sôi nổi trong CNVC thi đua lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng CNXH, tham gia quản lý xí nghiệp, quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước, thực hiện 3 cuộc cách mạng, thường xuyên nâng cao cảnh giác, săn sàng đập tan mọi âm mưu của Đế quốc Mỹ và bọn tay sai, làm tròn nghĩa vụ đối với miền Nam ruột thịt; ra sức tăng cường đoàn kết chiến đấu với lao động và nhân dân Lào và Cam Pu Chia anh em; tiếp tục phấn đấu cho sự đoàn kết, thống nhất của lao động và phong trào Công đoàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa Đế quốc, cầm đầu là Đế qốc Mỹ, chống bọn tư bản lũng đoạn, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.”
Đại hội nêu lên 3 vấn đề cấp thiết để Công đoàn vận động CNVC phấn đấu thực hiện nhằm đảm bảo hoàn thành kế hoạch:
Lao động với tinh thần làm chủ tập thể, có kỷ luật, có kỹ thuật, năng suất cao.
Tôn trọng và bảo vệ tài sản XHCN
Đề cao trách nhiệm trong việc khắc phục những khó khăn
ý nghĩa: Đại hội lần thứ III Công đoàn Việt Nam được tiến hành trong lúc ở nước ta cũng như ở trên khắp năm châu đang diễn ra những chuyển biến lớn lao có lợi cho phong trào cách mạng của nhân dân các nước.
Đại hội là một sự kiện trọng đại trong đời sống chính trị của đất nước. Đại hội tiêu biểu cho ý chí của hàng triệu người lao động làm chủ tập thể quyết tâm biến chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong sản xuất và chiến đấu thời kỳ chống Mỹ cưú nước thành phong trào sôi nổi thi đua lao động, sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
4/ Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ IV
Đại hội lần này được triệu tập sớm hơn 1 năm vì Cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới. Đất nước ta đã thống nhất, cả nước cùng đi lên CNXH.
Hội nghị thống nhất Công đoàn toàn quốc đã họp trong những ngày 6,7,8 tháng 6 năm 1976 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hội nghị đã nhất trí quyết định những vấn đề quan trọng:
Hợp nhất Tổng Công đoàn Việt Nam và Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam. Tên tổ chức Công đoàn toàn quốc là: Tổng Công đoàn Việt Nam.
Hợp nhất Ban chấp hành và các cơ cấu lãnh đạo khác của Công đoàn 2 miền vào cơ quan lãnh đạo thống nhất là Ban chấp hành, Đoàn Chủ tịch, Ban Thư ký, Ban Kiểm tra tài chính Tổng Công đoàn Việt Nam.
Lấy Điều lệ Công đoàn do Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ 3 thông qua làm cơ sở để xây dựng hệ thống Công đoàn trong cả nước.
Lấy Huy hiệu do Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ 3 thông qua làm Huy hiệu chung của Công đoàn cả nước.
Từ năm 1977, việc chuẩn bị Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ 4 đã được tiến hành theo 1 kế hoạch thống nhất. Ba triệu đoàn viên Công đoàn và CNVC trong cả nước tập hợp trong hơn 11.167 Công đoàn cơ sở đã hăng hái tham gia thảo luận các Văn kiện dự thảo của Đại hội.
Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ 4 họp từ ngày 8/5/1978 đến hết ngày 11/5/1978 tại Hội trường Ba Đình – Hà Nội.
Tổng số đại biểu Đại hội là 826 đ/c, trong đó có 26,4% là nữ; 7% là Đoàn viên Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; 53,7% là công nhân, cán bộ quản lý và cán bộ KH-KT.
Đại hội có 26 đoàn Đại biểu nước ngoài tới dự.
Đại hội đã bầu Ban chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam khoá 4 gồm 155 uỷ viên chính thức, trong đó có 25 người là Công nhân sản xuất, Anh hùng lao động, Chiến sỹ thi đua; 26 người là cán bộ KH-KT, cán bộ quản lý; 90 người là cán bộ chuyên trách công tác Công đoàn; 95 người thành phần bản thân là công nhân; 34 là phụ nữ; 8 người là dân tộc ít người; 61 người có trình độ Đại học và trên Đại học.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh – Uỷ viên Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam - được bầu làm Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam.
Đồng chí Nguyễn Đức Thuận, đồng chí Nguyễn Hộ được bầu làm Phó Chủ tịch Công đoàn Việt Nam.
Đồng chí Nguyễn Đức Thuận được bầu làm Tổng Thư ký Công đoàn Việt Nam.
Ban Thư ký Tổng Công đoàn Việt Nam gồm 12 người, trong đó có 1 đ/c là nữ.
Ban Kiểm tra tài chính gồm 7 đ/c. Đồng chí Nguyễn Văn Ưng làm Trưởng ban.
Mục tiêu của Đại hội
Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ 4 xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ của Công đoàn trong nhiệm kỳ tới:
Phát động phong trào CNVC thi đua lao động, sản xuất, cần kiệm xây dựng CNXH nhằm tăng năng suất lao động, hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước.
Đẩy mạnh phong trào CNVC thi đua phục vụ nông nghiệp.
Ra sức xây dựng và bảo vệ Nhà nước chuyên chính vô sản, củng cố quốc phòng.
Tổ chức và từng bước cải thiện đời sống, phát triển phúc lợi, bảo vệ lợi ích chính đáng của CNVC.
Vận động CNVC tích cực thực hiện cải tạo quan hệ sản xuất ở miền Nam.
Tích cực tham gia cải tiến quản lý xí nghiệp, quản lý Nhà nước nhằm củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN.
Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, văn hoá, kỹ thuật, nghiệp vụ cho CNVC.
Tích cực góp phần tăng cường đoàn kết lao động và phong trào Công đoàn Thế giới đấu tranh vì quyền lợi của những người lao động, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
Cải tiến phương pháp công tác, xây dựng Công đoàn vững mạnh.
ý nghĩa: Là Đại hội phát huy quyền làm chủ tập thể và ý chí tự lực tự cường của những người lao động chân tay và lao động trí óc đang hăng say lao động, tiến công nhằm xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc.
Đại hội là hình ảnh đẹp đẽ của đội ngũ giai cấp công nhân thống nhất, của tổ chức công đoàn thống nhất, trong nước Việt Nam thống nhất, thành quả của ngót nửa thế kỷ đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân ta.
Đây là sự kiện chính trị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng mở đầu một phong trào cách mạng mới có sức lôi cuốn đông đảo công nhân viên chức và quần chúng nhân dân trên khắp mọi miền Tổ quốc hăng hái làm việc, thi đua lao động sản xu
File đính kèm:
- Bai thi Tim hieu Cong doan Viet Nam.doc