A. Mục tiêu bài học:
Giúp HS:
- Hiểu được tinh thần yêu nước và mối quan tâm đặc biệt tới vấn đề dân trí của Phan Châu Trinh khi kêu gọi gây dựng nền luân lí xã hội ở nước ta - một điều kiện thiết yếu để khôi phục ý thức về nghĩa vụ đối với quốc gia, dân tộc nhằm mục đích giành lại độc lập, tự do.
- Cảm nhận được sức thuyết phục của bài diễn thuyết thông qua một đoạn trích có lập luận tương đối chặt chẽ, có cách diễn đạt khá dung dị, dễ hiểu cùng với giọng điệu chân thành, nhiều khi thống thiết.
B. Phương pháp và hình thức tiến hành tổ chức dạy học:
Dành thời gian thích đáng cho HS đọc chú thích đầu tiên về văn bản. Đây là chú thích hết sức quan trọng giúp ta hiểu đúng tư tưởng bài diễn thuyết cũng như cách dùng khái niệm của tác giả.
C. Tiến trình tổ chức dạy học:
* Tổ chức kiểm tra bài cũ:
- Thế nào là bình luận ? Bình luận có tác dụng gì ?
- Anh ( chị ) hãy trình bày cách sử dụng thao tác lập lập bình luận ?
6 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 8997 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giảng văn Về luân lí xã hội ở nước ta ( Trích Đạo đức và luân lí Đông Tây ), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Về luân lí xã hội ở nước ta
( Trích Đạo đức và luân lí Đông Tây )
Phan Châu Trinh
A. Mục tiêu bài học:
Giúp HS:
- Hiểu được tinh thần yêu nước và mối quan tâm đặc biệt tới vấn đề dân trí của Phan Châu Trinh khi kêu gọi gây dựng nền luân lí xã hội ở nước ta - một điều kiện thiết yếu để khôi phục ý thức về nghĩa vụ đối với quốc gia, dân tộc nhằm mục đích giành lại độc lập, tự do.
- Cảm nhận được sức thuyết phục của bài diễn thuyết thông qua một đoạn trích có lập luận tương đối chặt chẽ, có cách diễn đạt khá dung dị, dễ hiểu cùng với giọng điệu chân thành, nhiều khi thống thiết.
B. Phương pháp và hình thức tiến hành tổ chức dạy học:
Dành thời gian thích đáng cho HS đọc chú thích đầu tiên về văn bản. Đây là chú thích hết sức quan trọng giúp ta hiểu đúng tư tưởng bài diễn thuyết cũng như cách dùng khái niệm của tác giả.
C. Tiến trình tổ chức dạy học:
* Tổ chức kiểm tra bài cũ:
- Thế nào là bình luận ? Bình luận có tác dụng gì ?
- Anh ( chị ) hãy trình bày cách sử dụng thao tác lập lập bình luận ?
* Tiến trình bài mới:
Dựa vào tiểu dẫn SGK, anh ( chị ) hãy nêu những nét chính về Phan Châu Trinh ?
Đoạn trích được viết theo thể loại nào ? Thể loại đó có đặc điểm gì ? Anh ( chị ) hãy nêu xuất xứ của đoạn trích ?
Anh ( chị ) hãy nêu ý nghĩa thời sự đoạn trích ?
Anh ( chị ) hãy nêu chủ đề đoạn trích ?
Đoạn trích có thể chia làm mấy phần ? Anh ( chị ) hãy nêu nội dung chính của từng phần.
Thế nào là luân lí xã hội ? Theo anh ( chị ), luân lí xã hội mà tác giả nêu trong đoạn trích là gì ?
Những biểu hiện nào được nêu trong bài chứng tỏ nước ta tuyệt nhiên không có luân lí xã hội ? Tác giả đã tỏ rõ thái độ ra sao đối với hiện tượng đó ?
Tác giả so sánh luân lí xã hội giữa châu Âu, bên Pháp với nước ta như thế nào ?
Theo tác giả, vì sao nước ta chưa có nền luân lí xã hội ?
Theo tác giả, muốn có luân lí xã hội thì phải làm những gì ? Anh ( chị ) hiểu những điều tác giả đề nghị như thế nào ?
Anh ( chị ) hiểu thế nào về mối quan hệ giữa việc tuyên truyền ý thức công dân, gây dựng đoàn thể với sự nghiệp giành tự do, độc lập ?
Đoạn trích đã thể hiện những điều cốt lõi làm nên sức hấp dẫn của văn diễn thuyết Phan Châu Trinh như thế nào ?
I. Tiểu dẫn:
1. Tác giả:
- Phan Châu Trinh ( 1872 - 1926 ) tự Tử Cán, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hi Mã, người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kì ( nay là thôn Tây Hồ, xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh ), tỉnh Quảng Nam.
- Ông là nhà yêu nước và cách mạng lớn của lịch sử Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX. Ông chủ trương cứu nước bằng cách lợi dụng thực dân Pháp, hủy bỏ chế độ Nam triều, cải cách đổi mới mọi mặt ( duy tân ), làm cho dân giàu nước mạnh, trên cơ sở đó tạo nền độc lập quốc gia. Tuy con đường đấu tranh ấy có phần ảo tưởng nhưng nhiệt huyết cứu nước của Phan Châu Trinh rất đáng khâm phục.
- Phan Châu Trinh luôn ý thức dùng văn chương để làm cách mạng. Ông viết rất nhiều tác phẩm bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ quốc ngữ,... và ông nổi tiếng với những áng văn chính luận đầy tính chất hùng biện, lập luận đanh thép ; những bài thơ của ông dạt dào cảm xúc về đất nước, đồng bào ; tất cả đều thấm nhuần tư tưởng yêu nước và tinh thần dân chủ.
- Những tác phẩm chính:, Tây Hồ thi tập ( khoảng 1904 - 1914 ), Thất điều trần ( 1922 ), Đạo đức và luân lí Đông Tây ( 1925 ),...
2. Đoạn trích Về luân lí xã hội ở nước ta:
a. Thể loại và xuất xứ:
- Thể loại diễn thuyết:
+ Là hình thức giao tiếp với công chúng, thường được các nhà chính trị dùng để khẳng định, phổ biến một tư tưởng, một quan niệm, một đường lối chính trị, kinh tế, văn hóa nào đó.
+ Muốn bài viết có sức thuyết phục thì người diễn thuyết phải nắm chắc đối tượng người nghe, xác định chủ đề của bài nói, lập luận khúc chiết, ngôn ngữ có thể dung dị hay bóng bẩy nhưng không quá trừu tượng, khó hiểu. Đặc biệt, tâm huyết của người diễn thuyết phải được thể hiện rõ trong giọng điệu, nhịp điệu, ngữ điệu của bài nói.
- Đoạn trích nằm trong phần III của bài Đạo đức và luân lí Đông Tây được Phan Châu Trinh diễn thuyết vào đêm 19 - 11 - 1925 tại nhà Hội Thanh niên ở Sài Gòn.
b. Ý nghĩa thời sự của đoạn trích:
- Nó nhắc nhở về tầm quan trọng của việc gây dựng đoàn thể nhằm tạo nên ý thức trách nhiệm với cộng đồng của mọi con người sống trong xã hội.
- Nó cảnh báo nguy cơ tiêu vong các quan hệ xã hội tốt đẹp do những con người ích kỉ, vụ lợi, ham quyền tước, ham bả vinh hoa đem đến.
- Nó khơi dậy niềm âu lo về sự chậm tiến của một xã hội mà ở đó tinh thần dân chủ còn chưa được ý thức như một nhân tố thúc đẩy sự phát triển.
c. Chủ đề đoạn trích:
Đoạn trích thể hiện tâm huyết và dũng khí của một người quan tâm đến vận mệnh đất nước: dám vạch trần thực trạng đen tối của xã hội Việt Nam những năm 20 của thế kỉ XX để dấy lên việc xây dựng một nền luân lí xã hội ở nước ta. Đồng thời, tác giả cũng đề cao tư tưởng đoàn thể vì sự tiến bộ để hướng tới một ngày mai tươi sáng của đất nước.
II. Bố cục văn bản:
Đoạn trích có thể chia làm 3 phần:
- Đoạn 1 ( từ đầu Ò thiên hạ mất đi đã từ lâu rồi ): tác giả khẳng định ở nước ta chưa hề có luân lí xã hội theo nghĩa đích thực, đúng đắn của nó.
- Đoạn 2 ( tiếp theo Ò Việt Nam ta không có cũng vì thế ): tác giả bàn luận về luân lí xã hội trên cơ sở so sánh xã hội Pháp và xã hội nước ta. Từ đó đi sâu phân tích thực trạng Việt Nam và chỉ ra nguyên nhân vì sao mà trì trệ, bảo thủ, lạc hậu, yếu kém.
- Đoạn 3 ( còn lại ): muốn nước Việt Nam được tự do độc lập thì trước hết phải xây dựng nền luân lí xã hội, dân chủ đoàn thể, phải truyền bá CNXH trong dân.
III. Đọc hiểu văn bản:
1. Nội dung luân lí xã hội mà tác giả nêu trong đoạn trích:
- Luân lí xã hội ( xã hội luân lí ) là khái niệm chỉ những quan niệm, nguyên tắc, quy định hợp lí lẽ thường chi phối mọi quan hệ, hoạt động và phát triển của xã hội.
- Nội dung luân lí xã hội mà tác giả nêu trong đoạn trích:
+ Trước hết, đó là ý thức tương trợ lẫn nhau giữa các cá nhân trong xã hội.
+Tiếp đó, luân lí xã hội là cái nghĩa vụ mỗi người trong nước, tức là ý thức công dân mà mỗi người phải có.
+ Cao hơn, luân lí xã hội là cái nghĩa vụ loài người ăn ở với loài người, tức là tinh thần hợp tác của con người vượt lên các ranh giới dân tộc và lãnh thổ. Nói đơn giản hơn, thiết thực hơn, theo Phan Châu Trinh thì luân lí xã hội phải gắn liền với ý thức sẵn sàng làm việc chung, sẵn sàng giúp đỡ nhau và tôn trọng quyền lợi của người khác.
2. Vấn đề nước ta chưa có luân lí xã hội:
- Trước hết, tác giả khẳng định ở nước ta chưa hề có luân lí xã hội theo nghĩa đích thực, đúng đắn của nó:
+ Dân ta phải ai tai nấy, ai chết mặc ai, sợ sệt, ù lì, trơ tráo.
+ Dân ta không biết đoàn thể, không trọng công ích.
+ Người này đối với kẻ kia đều ngó theo sức mạnh, thấy quyền thế thì chạy theo, quỵ lụy, dựa dẫm.
+ Vua quan mặc sức bóp nặn dân chúng, chỉ biết vơ vét, coi sự dốt nát của dân là điều kiện tốt để củng cố quyền lực và lòng tham của mình.
Ò Đối với các hiện tượng trên, tác giả đã tỏ rõ thái độ phê phán rất nghiêm khắc, càng đau lòng càng thấy cần phải chỉ ra sự hèn kém của dân mình, nước mình.
- Sau đó, tác giả bác bỏ cách hiểu đơn giản hoặc nông cạn, hời hợt về luân lí xã hội:
+ Luân lí xã hội không phải và không thể chỉ là tình cảm bạn bè. Nghĩa là, quan hệ bạn bè không thể thay cho luân lí xã hội mà chỉ là một bộ phận nhỏ, thậm chí rất nhỏ của luân lí xã hội mà thôi.
+ Luân lí xã hội cũng không phải là mấy chữ bình thiên hạ được nói đến của những nhà nho cổ hủ, lỗi thời mà không hề hiểu được bản chất của nguyên lí Khổng - Mạnh và nhất là không hành động gì để thực hiện mấy chữ đó. Thực ra, quan niệm Nho gia ( tề gia trị quốc, bình thiên hạ ) đã bị hiểu sai, hiểu lệch đi: bình thiên hạ là cai trị xã hội, là đè nén mọi người để đem lại quyền lợi cho cá nhân mình. Thật ra, bình thiên hạ ( xã hội ) là góp phần làm cho mọi người an cư lạc nghiệp, giàu có, hạnh phúc,…
- Tác giả cũng phân biệt rõ sự khác nhau của các đối tượng mà ông phê phán:
+ Theo ông, nguyên nhân sâu xa của tình trạng dân không biết đoàn thể, không trọng công ích nằm ở sự phản động, thối nát của lũ quan trường: vua quan phong kiến, bọn học trò trụy lạc, sa đọa, tham lam, ích kỉ, hám danh hám lợi mà quên tất cả đạo lí cha ông, mất hết nhân cách, miễn sao giữ được địa vị giàu sang cho mình ( Dân không biết đoàn thể […] tan tành đoàn thể của quốc dân ). Từ đấy, tác giả hướng mũi nhọn đả kích vào bọn chúng ( đối tượng mà ông khi thì gọi là bọn học trò, khi thì gọi là kẻ mang đai đội mũ, kẻ áo rộng khăn đen, khi thì gọi là bọn quan lại, bọn thượng lưu,... ).
+ Vua quan thì có kẻ mang đai đội mũ, ngất ngưởng ngồi trên, có kẻ áo rộng khăn đen lúc nhúc lạy dưới [...] Những bọn quan lại đã nói ở trên này chỉ còn một tiếng chỉ đúng hơn là lũ ăn cướp có giấy phép vậy. Đến nỗi tác giả phải thốt lên: Dân khôn mà chi ! Dân ngu mà chi ! Dân lợi mà chi ! Dân hại mà chi ! Dân càng nô lệ, ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quý !. Như vậy, tác giả vừa đau xót vừa mỉa mai, vừa cảm thông với nỗi thống khổ của dân vừa châm biếm bọn quan lại phong kiến và chính quyền thực dân chỉ là bọn sâu mọt hại dân, hại nước. Tình hình các làng xã chia rẽ, phân biệt đối xử giữa chính cư và ngụ cư.
Ò Chỉ mới quan sát cách tác giả gọi tên chứ chưa nói tới việc ông tố cáo tội của chúng, ta đã nhận ra sự căm ghét cao độ của Phan Châu Trinh với tầng lớp quan lại Nam triều. Trong mắt tác giả, chế độ vua quan chuyên chế vô cùng tồi tệ, cần phải phủ định một cách triệt để.
* Tóm lại, với thực trạng ấy thì dân làm sao có thể có tư tưởng cách mạng. Và tinh thần dân chủ, xã hội chủ nghĩa, tinh thần đoàn thể, ý thức cộng đồng của nước ta làm sao có được ? Có thể nói, tinh thần phản phong kiến của tác giả rất mạnh mẽ và triệt để.
3. Tác giả so sánh luân lí xã hội giữa châu Âu, bên Pháp với nước ta:
- Luân lí xã hội theo quan niệm của Phan Châu Trinh là nghĩa vụ trong quan hệ cộng đồng xã hội, giữa người với người, nước này với nước khác ( tầm thế giới ) và ở trong một nước.
- Tác giả đã so sánh luân lí xã hội giữa châu Âu, bên Pháp với nước ta:
+ Bên châu Âu, bên Pháp đã có nền luân lí xã hội:
Bên châu Âu, cái XHCN rất thịnh hành và đã được phát triển rộng rãi.
Bên Pháp, mỗi khi một người hay một hội nào bị đè nén quyền lợi riêng, thì người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự, hoặc thị oai, vận dụng được đến công bằng mới nghe.
Dẫn chứng: khi người có quyền thế hoặc chính phủ, cậy quyền cậy thế để áp bức quyền lợi riêng của cá nhân hay đoàn thể thì người ta tìm mọi cách để giành lại sự công bằng xã hội.
Nguyên nhân: vì người ta có đoàn thể, có ý thức sẵn sàng làm việc chung ( công đức ), có ăn học ( văn hóa ), biết nhìn xa trông rộng, biết giữ lợi chung, biết hợp nhau lại phòng ngừa trước, biết xét kĩ thấy xa và đặc biệt là có tinh thần dân chủ.
+ Bên mình chưa có nền luân lí xã hội:
Dân chưa biết, chưa hiểu thế nào là luân lí xã hội. Họ điềm nhiên như ngủ, chẳng biết gì ( thờ ơ, tê liệt ). Thật đáng buồn và buồn đau xót biết bao trong khi bên châu Âu, nền luân lí xã hội rất thịnh hành như thế, mà người ta vẫn điềm nhiên như kẻ ngủ không biết gì là gì.
Dẫn chứng: người mình thì phải ai tai nấy, ai chết mặc ai, không hề có sự quan tâm đến người khác, đồng loại: Đi đường gặp người bị tai nạn, gặp kẻ yếu bị kẻ mạnh bắt nạt cũng ngơ mắt đi qua, hình như người bị nạn khốn ấy không can thiệp gì đến mình.
Nguyên nhân: chưa có đoàn thể, ý thức dân chỉ kém.
4. Nguyên nhân nước ta chưa có nền luân lí xã hội:
- Ở đoạn cuối của phần 2, tác giả đã thẳng thắn chỉ ra nguyên nhân của tình trạng dân không biết đoàn thể, không trọng công ích mà không chút kiêng dè, né tránh. Đó là các nguyên nhân:
+ Bọn học trò trong nước ham quyền lợi, ham bả vinh hoa của các triều vua mà sinh ra giả dối nịnh bợ, chỉ biết có vua mà không biết có dân. Bọn ấy muốn giữ túi tham của mình được đầy mãi, địa vị của mình được vững mãi nên đã tìm cách thiết lập luật pháp, phá tan đoàn thể của quốc dân.
+ Chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và lạc hậu. Dân càng nô lệ, ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quý. Nạn tham nhũng hoành hành, không ai bình phẩm, không ai chê bai. Quan lại thời xưa và nay là lũ ăn cướp có giấy phép.
+ Xu thế của xã hội cũng bén mùi làm quan, chạy theo chức tước và danh lợi để được ngồi trước, ăn trước, hống hách với mọi người.
+ Quan hệ giữa con người với nhau đều ngó theo sức mạnh, không có một chút gì gọi là đạo đức là luân lí cả. Như vậy thì làm sao dân biết đến đoàn thể, trọng công ích được.
- Khi trình bày những nguyên nhân trên, tác giả đã kết hợp để đả kích mạnh mẽ và sâu sắc chế độ vua quan chuyên chế bấy giờ. Nhưng điều lưu lại đậm nét và lâu bền trong ta về cái chế độ vua quan xấu xa, trì trệ, bảo thủ ấy là hình ảnh có kẻ mang đai đội mũ ngất ngưởng ngồi trên, có kẻ áo rộng khăn đen lúc nhúc lạy dưới, trăm nghìn năm như thế cũng xong. Thật là mỉa mai châm biếm sâu cay.
Đồng thời, Phan Châu Trinh cũng thẳng thừng đả kích bọn quan lại một cách mạnh mẽ: Quan lại đời xưa đời nay của ta là thế đấy ! Luân lí của bọn thượng lưu [...] nói cho anh em dễ hiểu mà thôi - ở nước ta là thế đấy ! Không căm ghét cái chế độ vua quan chuyên chế đến mức cao thì không thể viết nên những dòng đả kích có sức mạnh đến thế được.
5. Điều kiện để có luân lí xã hội:
- Theo tác giả, muốn có luân lí xã hội thì:
+ Phải biết gây dựng đoàn thể để hỗ trợ nhau trong cuộc sống và để tự bảo vệ chính quyền lợi của mình.
+ Phải bỏ thói dựa dẫm vào quyền thế, chấm dứt tệ mua danh bán tước hòng có được vị trí ngồi trên, ăn trước.
+ Phải đánh đổ chế độ vua quan thối nát làm bại hoại luân lí xã hội, khiến tư tưởng cách mạng không thể nảy nở và nước ta không thể có được tự do, độc lập.
Ò Những điều tác giả đề nghị có ý nghĩa rất cấp thiết. Phan Châu Trinh thuộc ít nhiều những nhà cách mạnh nhìn ra chỗ yếu cốt lõi của nước ta trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Ông muốn giải quyết trước hết vấn đề dân trí, vấn đề ý thức dân chủ của người dân, xem đó là chuyện hệ trọng bậc nhất cần làm để hướng tới mục tiêu giành độc lập, tự do.
- Phan Châu Trinh nhìn thấy mối quan hệ mật thiết giữa tuyên truyền ý thức công dân, gây dựng đoàn thể với sự nghiệp giành tự do, độc lập. Tác giả luôn biết hướng về cái đích cuối cùng là giành tự do, độc lập nhưng cũng hết sức tỉnh táo trong việc lựa chọn bước đi. Từ chỗ nhận thấy một sự thực là dân trí nước ta quá thấp và ý thức đoàn thể của người dân rất kém, nên ông đã kêu gọi gây dựng đoàn thể và đi kèm với nó là việc đánh đổ chế độ vua quan thối nát. Nhưng, muốn có đoàn thể thì có chi hay hơn là truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam này ( CNXH, theo cách hiểu của tác giả là có sự phát huy cao của ý thức công dân ).
Ò Lập luận như trên rất chặt chẽ và có sức thuyết phục cao.
* Tóm lại, tác giả đã phát biểu chính kiến của mình không chỉ bằng lí trí tỉnh táo mà còn bằng trái tim tràn trề cảm xúc, chan chứa niềm xót thương cùng nỗi đau về tình trạng đình trệ thê thảm của xã hội Việt Nam. Qua đó, ta nhận rõ phẩm chất trung thực, cứng cỏi, quyết liệt của một nhà cách mạng toàn tâm toàn ý đấu tranh vì dân chủ, vì tiến bộ xã hội. Đây chính là điều kiện quan trọng làm nên khả năng lay chuyển nhận thức và tình cảm ở người đọc của bài diễn thuyết.
IV. Ghi nhớ:
- Đoạn trích đã thể hiện khá rõ những điều cốt lõi làm nên sức hấp dẫn của văn diễn thuyết Phan Châu Trinh:
+ Lập luận sáng sủa, khúc chiết.
+ Tình cảm tràn đầy, thường được biểu lộ qua những lời cảm thán thống thiết.
+ Lập trường đánh đổ chế độ quân chủ luôn được tuyên bố công khai, dứt khoát.
+ Kế hoạch hành động được vạch ra cụ thể, rõ ràng.
- Những vấn đề được đặt ra trong đoạn trích không chỉ có ý nghĩa đối với thời Phan Châu Trinh mà còn có ý nghĩa đối với cả thời của chúng ta hôm nay.
File đính kèm:
- Giang van Ve luan li xa hoi o nuoc ta chi tiet.doc