Giáo án Công nghệ 10 - Các phương pháp kiểm tra đánh giá

Đặt vấn đề

 Việc kiểm tra đánh giá kiến thức và kĩ năng của sinh viên có vai trò rất quan trọng, nó vừa giữ vai trò là động lực thúc đẩy quá trình dạy học, vừa có vai trò bánh lái, giúp giáo viên điều chỉnh phương pháp dạy, giúp sinh viên thay đổi phương pháp học tập để phù hợp với hình thức và phương pháp kiểm tra nhằm đạt kết quả cao.

1. CÁC PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ

* Trong dạy học KTNN có thể có các hình thức kiểm tra sau:

- Kiểm tra Tự luận

- Kiểm tra Trắc nhiệm

- Kiểm tra qua những bài thực hành

* Trắc nhiệm tự luận và trắc nhiệm khách quan:

Trắc nghiệm theo nghĩa rộng là một hoạt động được thực hiện để đo lường năng lực của các đối tượng nào đó nhằm những mục đích xác định.

Trong giáo dục, trắc nghiệm được tiến hành thường xuyên ở các kì thi, kiểm tra để đánh giá kết quả học tập, đối với một phần của môn học, toàn bộ môn học, đối với cả một cấp học, hoặc để tuyển chọn một số người có năng lực nhất vào một khoá học.

Trắc nghiệm viết thường được chia thành hai nhóm: Trắc nghiệm Tự luận (essay) và Trắc nghiệm Khách quan (objective test).

 

doc4 trang | Chia sẻ: lephuong6688 | Lượt xem: 1159 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo án Công nghệ 10 - Các phương pháp kiểm tra đánh giá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÁC PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ (NHÓM 1) Đặt vấn đề Việc kiểm tra đánh giá kiến thức và kĩ năng của sinh viên có vai trò rất quan trọng, nó vừa giữ vai trò là động lực thúc đẩy quá trình dạy học, vừa có vai trò bánh lái, giúp giáo viên điều chỉnh phương pháp dạy, giúp sinh viên thay đổi phương pháp học tập để phù hợp với hình thức và phương pháp kiểm tra nhằm đạt kết quả cao. 1. CÁC PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ * Trong dạy học KTNN có thể có các hình thức kiểm tra sau: Kiểm tra Tự luận Kiểm tra Trắc nhiệm Kiểm tra qua những bài thực hành * Trắc nhiệm tự luận và trắc nhiệm khách quan: Trắc nghiệm theo nghĩa rộng là một hoạt động được thực hiện để đo lường năng lực của các đối tượng nào đó nhằm những mục đích xác định. Trong giáo dục, trắc nghiệm được tiến hành thường xuyên ở các kì thi, kiểm tra để đánh giá kết quả học tập, đối với một phần của môn học, toàn bộ môn học, đối với cả một cấp học, hoặc để tuyển chọn một số người có năng lực nhất vào một khoá học. Trắc nghiệm viết thường được chia thành hai nhóm: Trắc nghiệm Tự luận (essay) và Trắc nghiệm Khách quan (objective test). - Trắc nghiệm tự luận (câu hỏi tự luận): là trắc nghiệm mà giáo viên ra câu hỏi, học sinh phải tự mình chọn nội dung, sắp xếp trình tự nội dung để diễn đạt những điều mà mình cần trả lời. - Trắc nhiệm khách quan (Test): là dạng câu hỏi trong đó ứng với mỗi câu hỏi có kèm theo những câu trả lời sẵn. Phân loại theo người xây dựng: Test chuẩn hóa và Test do giáo viên xây dựng TEST chuẩn hóa là loại test do các chuyên gia xây dựng một cách công phu, đã qua thử nghiệm, có thể dùng đại trà nhiều năm, phản ánh yêu cầu chuẩn mực của chương trình, phù hợp với trình độ của học sinh cùng lứa tuổi, cùng khối lớp. Những trắc nhiệm chuẩn hóa thường được hội đồng quốc gia chuẩn y, được sử dụng cho các kì thi cuối cấp để đánh giá kiến thức, kĩ năng và được lưu hành rộng rãi trong nghành giáo dục. TEST do giáo viên xây dựng là loại test do các giáo viên xây dựng để sử dụng vào mục đích cụ thể, cho từng nhóm học sinh cụ thể vào một thời điểm cụ thể. Phân loại theo hình thức: - Trắc nghiệm Đúng/Sai : Trước một câu dẫn xác định (thông thường không phải là câu hỏi), học sinh đưa ra nhận định và lựa chọn một trong hai phương án trả lời Đúng hoặc Sai. - Trắc nhiệm nhiều lựa chọn: là trong mỗi câu hỏi có từ 3 đén 5 câu trả lời sẵn, trong đó chỉ một câu là đúng hoặc đúng nhất. - Trắc nhiệm Ghép đôi: Có thể xem đây là một dạng đặc biệt của dạng trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn, dạng câu hỏi này thường gồm hai cột thông tin, một cột là những câu hỏi (hay câu dẫn) một cột là những câu trả lời (hay còn gọi là câu lựa chọn), yêu cầu học sinh phải tìm cách ghép các câu trả lời ở cột này với câu hỏi ở cột khác sau cho hợp lý. - Trắc nhiệm Điền khuyết: là câu có câu dẫn có để một vài chỗ trống, HS phải điền tiếp vào chỗ trống những từ hay cụm từ thích hợp - Trắc nhiệm bằng hình vẽ, đồ thị, biểu đồ 2. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ HỌC SINH VỀ HỌC TẬP CN-KTNN Qua kiểm tra giáo viên có được những dữ kiện, những thông tin cần thiết, làm cơ sở cho việc đánh giá. Do vậy có thể sử dụng những loại kiểm tra sau: - Kiểm tra thường xuyên: được thực hiện qua quan sát một cách có hệ thống hoạt động của lớp học, của mỗi học sinh qua các khâu ôn tập, củng cố bài cũ, vận dụng kiến thức => giúp GV điều chỉnh cách dạy, HS điều chỉnh cách học => tạo điều kiện vững chắc để quá trình dạy học chuyển dần sang những bước mới. è Cơ sở của đánh giá chuẩn đoán, đánh giá từng phần. - Kiểm tra định kì: được thực hiện sau khi học xong một chương, một phần của chương trình hoặc sau một học kì => giúp GV nhìn lại kết quả giảng dạy, HS nhìn lại kết quả học tập=> đặt cơ sở cho việc học tiếp những phần mới è Cơ sở của đánh giá từng phần - Kiểm tra tổng kết: thường được thực hiện vào cuối học kì, cuối năm học, cuối mỗi giáo trình è Cơ sở của đánh giá tổng kết * Kiểm tra nhằm mục đích đánh giá và không nhằm mục đích đánh giá. - Kiểm tra nhằm mục đích đánh giá: Kiểm tra năng lực xuất phát của HS để quyết định mục tiêu dạy học, lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học (VD: kiểm tra khảo sát đầu năm học); Kiểm tra nhằm theo dõi quá trình học tập của học sinh để điều chỉnh hoạt động dạy của thầy, hoạt động học của trò (VD: kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết); Kiểm tra nhằm đánh giá tổng kết mức độ đạt hoặc chưa đạt (VD: kiểm tra học kì, thi tốt nghiệp) - Kiểm tra không nhằm mục đích đánh giá: nhằm cho học sinh tái hiện và củng cố lại bài học và kiến thức đã học.(VD: kiểm tra củng cố cuối bài) * Quan hệ của lượng giá và đánh giá - Đánh giá là quá tình đưa ra những nhận định, những phán đoán về thực chất trình độ của học sinh trước vấn đề được chọn kiểm tra, đồng thời đề xuất những định hướng bổ khuyết sai sót hoặc phát huy kết quả. - Đo: được hiểu là so sánh hệ thống các kiến thức, kĩ năng và thái độ của một cá nhân hoặc tập thể người học đã đạt được với một hệ thống các kiến thức, kĩ năng và thái độ được dùng làm chuẩn theo thang 10 bậc. Khi chấm dựa vào đáp án biểu điểm rồi dựa vào đó cho điểm từng bài - Lượng giá: Là việc giải thích các thông tin thu được về kiến thức kĩ năng của HS, làm sáng tỏ trình độ tương đối của một HS so với thành tích chung của tập thể hoặc trình độ của HS so với yêu cầu của chương trình học tập. Do đó người ta nói đến lượng giá theo tiêu chuẩn và lượng giá theo tiêu chí. + Lượng giá theo chuẩn: Là sự so sánh tương đối với chuẩn trung bình chung của tập thể học sinh. + Lượng giá theo tiêu chí: Là sự đối chiếu với những tiêu chí đã đề ra. Lượng giá là bước trung gian giữa đo và đánh giá, tuy có làm sáng tỏ hơn về trình độ kiến thức so với yêu cầu của chương trình học tập, nhưng nó chưa trực tiếp nói lên trình độ của học sinh đó. Kiểm tra => Đo => Lượng giá=> Đánh giá=> Phát hiện lệch lạc, tìm nguyên nhân=> Quyết định biện pháp điều chỉnh dạy và học=> Tổ chức thực hiện=> kiểm tra 3. Ý NGHĨA CỦA VIỆC KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KIẾN THỨC, KĨ NĂNG CN-KTNN Xu hướng hoàn thiện kiểm tra đánh giá hiện nay: Nếu việc kiểm tra đánh giá được tổ chức khoa học sẽ: - Cung cấp kịp thời những thông tin, tạo mối “liên hệ ngược trong” (mối liên hệ ngược từ học sinh đến học sinh là mối liên hệ ngược trong, mối liên hệ ngược từ học sinh đến giáo viên là liên hệ ngược ngoài) giúp học sinh tự điều chỉnh hoạt động của mình. - Học sinh thấy mình tiếp thu những điều đã học được ở mức độ nào, còn những thiếu sót nào cần được bổ khuyết. - Học sinh chính xác hóa được kiến thức, có khả năng khái quát hóa, hệ thống hóa, vận dụng kiến thức đã học vào các tình huống của đời sống. - Tạo điều kiện thúc đẩy học sinh nâng cao tinh thần trách nhiệm trong học tập, có ý chí vươn lên đạt những kết quả học tập cao hơn, củng cố thêm lòng tự tin vào khả năng của mình, nâng cao ý thức tự giác, khắc phục tính chủ quan tự mãn. - Cung cấp cho giáo viên những thông tin “mối liên hệ ngược ngoài” => giáo viên điều chỉnh hoạt động dạy tốt hơn, nắm được cụ thể và chính xác năng lực và trình độ của những học sinh trong lớp mình phụ trách=> có biện pháp giúp đỡ riêng từng học sinh nhất là những học sinh giỏi và kém. - Cung cấp cho giáo viên thông tin về trình độ của cả lớp hoặc khối lớp, tạo điều kiện cho giáo viên nắm được những học sinh có tiến bộ hoặc học tập sút kém =>có điều kiện xem xét về hiệu quả của những cải tiến nội dung, cải tiến phương pháp, cải tiến hình thức tổ chức dạy học. - Cung cấp thông tin cần thiết cho các cấp quản lí giáo dục, như chất lượng kiến thức, thực trạng dạy học cho một đơn vị giáo dục=> có những quyết định chỉ đạo, kịp thời uốn nắn những lệch lạc, khuyến khích, hỗ trợ những sáng kiến hay, bảo đảm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục. Tóm lại, kiểm tra và đánh giá kiến thức học sinh có nhiều ý nghĩa, thực hiện nhiều chức năng như chức năng sư phạm, chức năng xã hội, khoa học, do vậy yêu cầu của việc kiểm tra, đánh giá cần khách quan, toàn diện, hệ thống và công khai. Cần hoàn thiện khâu kiểm tra, đánh giá như chuyển từ giáo viên đánh giá đén học sinh tự đánh giá, từ tái hiện đến tư duy sang tạo.

File đính kèm:

  • docphuong phap kiem tra danh gia trong ki thuat nong nghiep.doc