Giáo án môn Ngữ văn lớp 9 tập II

A. Kết quả cần đạt

1. Hiểu được sự cần thiết của việc đọc sách và phương pháp đọc sách qua bài nghị luận sâu sắc, giàu tính thuyết phục của Chu Quang Tiềm.

2. Tích hợp với phần Tiếng Việt ở bài Khởi ngữ, với phần Tập làm văn ở bài Phép phân tích và tổng hợp.

3. Rèn kỹ năng tìm và phân tích luận điểm, luận chúng trong văn bản nghị luận.

 

doc191 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 2733 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giáo án môn Ngữ văn lớp 9 tập II, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài 18 Tiết 91, 92 Văn học Bàn về đọc sách (Trích) Chu Quang Tiềm A. Kết quả cần đạt 1. Hiểu được sự cần thiết của việc đọc sách và phương pháp đọc sách qua bài nghị luận sâu sắc, giàu tính thuyết phục của Chu Quang Tiềm. 2. Tích hợp với phần Tiếng Việt ở bài Khởi ngữ, với phần Tập làm văn ở bài Phép phân tích và tổng hợp. 3. Rèn kỹ năng tìm và phân tích luận điểm, luận chúng trong văn bản nghị luận. B. Thiết kế bài dạy-học: Hoạt động 1 Tổ chức kiểm tra bài cũ Hoạt động 2 Dẫn vào bài mới + Theo lời khuyên của người giới thiệu, em đã tìm mua (mượn) và đã đọc được cuốn sách nào? + Theo em, mục ấy được đặt ra mục đích gì? (Từ đó nói lời dẫn vào bài) Hoạt động 3 Hướng dẫn đọc, tìm hiểu thể loại Giải thích từ khó, phân tích bố cục + Giáo viên cùng 3-4 học sinh đọc cả bài 1 lần. Giáo viên nhận xét cách đọc 2. Tìm hiểu thể loại văn bản + Giáo viên xác định kiểu loại văn bản? Dựa vào những yếu tố nào để xác định đúng tên kiểu văn bản này? + Học sinh xác định, phát biểu ý kiến. * Định hướng: - Văn bản nghị luận (lập luận giải thích một vấn đề xã hội) - Dựa vào hệ thống luận điểm, cách lập luận và tên văn bản để xác định thể loại - kiểu văn bản. 3. Giải thích từ khó. - Theo 7 chú thích trong SGK; dừng lại phân biệt 2 từ học vấn và học thuật 4. Bố cục. a. Học vấn không chỉ là......... phát hiện thế giới mới; Sự cần thiết và ý nghĩa của việc đọc sách. b. Lịch sử càng tiến lên.... tự tiêu hao lực lượng: những khó khăn, nguy hại hay gặp của việc đọc sách trong tình hình hiện nay. c. Đọc sách không cốt lấy nhiều.... hết: phương pháp chọn sách và đọc sách. Hoạt động 4 Hướng dẫn đọc - hiểu chi tiết 1. Luận điểm 1: Sự cần thiết và ý nghĩa của việc đọc sách. + Học sinh đọc lại đoạn đầu, suy nghĩ để trả lời các câu hỏi sau. + Giáo viên hỏi: - Tác giả đã lý giải tầm quan trọng và sự cần thiết của việc đọc sách đối với mỗi người như thế nào? - Mối quan hệ giữa đọc sách và học vấn ra sao? - Trong thời đại ngày nay, để trau dồi học vấn, ngoài con đường đọc sách còn có những con đường nào khác? Tìm ví dụ. - Em hiểu câu Có được sự chuẩn bị như thế thì một con người mới có thể làm được cuộc trường chinh vạn dặm trên con đường học vấn, nhằm phát hiện thế giới mới như thế nào? + HS lần lượt trả lời từng câu hỏi. * Định hướng: + Để lý giải vấn đề tầm quan trọng và ý nghĩa của việc đọc sách, tác giả đặt nó trong mối quan hệ với học vấn của con người, trả lời câu hỏi đọc sách để làm gì, vì sao phải đọc sách. Tác giả đưa ra các lý lẽ: - Đọc sách là con đường quan trọng của học vấn (không phải là con đường duy nhất). - Nhưng học vấn là gì? Là thành quả tích luỹ lâu dài của nhân loại. - Nhưng tích luỹ bằng cách nào, ở đâu? Tích luỹ bằng sách và ở sách. - Vậy sách là kho tàng quý báu lưu giữ tinh thần nhân loại, những cột mốc ghi dấu sự tiến hoá của nhân loại. - Vậy, coi thường sách, không đọc sách là xoá bỏ quá khứ, là kẻ thụt lùi, lạc hậu, là kẻ kiêu ngạo một cách ngu xuẩn. - Đọc sách là trả nợ quá khứ, là ôn lại kinh nghiệm loài người, là hưởng thụ kiến thức, lời dạy tâm huyết của quá khứ. - Đọc sách là để chuẩn bị hành trang, thực lực về mọi mặt để con người có thể tiếp tục tiến xa (trường chinh vạn dặm) trên con đường học tập, phát hiện thế giới. (Hết tiết 91, chuyển tiết 92) 2. Luận điểm 2: Hai trở ngại cho nghiên cứu học vấn - hai cái hại thường gặp khi đọc sách: + Giáo viên chuyển: nhưng tác giả không tuyệt đối hoá, thần thánh hoá việc đọc sách. Ông đã chỉ ra hạn chế trong sự phát triển, hai trở ngại - hai cái hại trong nghiên cứu, trau dồi học vấn, trong đọc sách. Đó là gì? và tác hại của chúng như thế nào? + Học sinh đọc tiếp đoạn 2, chú ý hai đoạn văn so sánh: giống như ăn uống, giống như đánh trận. + Giáo viên nêu vấn đề thảo luận: cái hại đầu tiên trong việc đọc sách hiện nay, trong tình hình sách nhiều vô kể là gì? Để minh chứng cho cái hại đó, tác gia so sách, biện thuyết như thế nào? Em có tán thành luận chứng của tác giả hay không? ý kiến của em về những con mọt sách (những người đọc rất nhiều, rất ham mê đọc sách)? + Học sinh bàn luận, trả lời. * Định hướng: - Cái hại đầu tiên của việc đọc sách trong tình hình sách được xuất bản, in ấn rất nhiều như hiện nay là khiến người đọc không chuyên sâu, nghĩa là ham đọc nhiều mà không thể đọc kỹ, chỉ đọc qua, hời hợt nên liếc qua nhiều mà đọng lại chẳng bao nhiêu. - So sánh với cách đọc sách của người xưa: đọc kỹ càng, nghiền ngẫm từng câu, từng chữ (Quý hồ tinh, bất quý hồ đa!) (ít mà tinh còn hơn nhiều mà dối (chẳng có gì!), thà ít mà tốt! Một trong những lý do là sách ít, thời gian nhiều. Bây giờ ngược lại! - Lối đọc ấy không chỉ vô bổ, lãng phí thời gian và công sức mà có khi còn mang hại. So sánh với việc ăn uống vô tội vạ, ăn tươi nuốt sống. Các thứ không tiêu hoá được tích càng nhiều càng hay sinh bệnh. Thói xấu hư danh, nông cạn do đọc nhiều mà dối, đọc để khoe khoang. Đọc lấy được ăn tươi nuốt sống cũng chính từ đó mà ra. Lời bàn thật sâu và chí lý. - Những con mọt sách không đáng yêu, mà đáng chê khi chỉ chúi mũi vào sách vở, chẳng còn chú ý đến chuyện gì khác, thành xa rời thực tế, như sống trên mây! + Học sinh tiếp tục tìm hiểu và phân tích cái hại thứ hai. + Giáo viên từ hai cái hại trên dẫn tới kết luận quan trọng làm tiền đề cho luận điểm thứ 3 như thế nào? + Học sinh đọc đoạn 3, tiếp tục bình luận 2 so sánh: giống như đánh trận và như kẻ trọc phú khoe của. * Định hướng: Cái hại thứ hai là sách nhiều quá nên dễ lạc hướng, chọn lầm, chọn sai phải những cuốn sách nhạt nhẽo, tầm phào vô bổ, thậm chí những cuốn sách độc hại. 3. Luận điểm 3: cách chọn sách và cách đọc sách đúng đắn, có hiệu quả a. Cách chọn sách: + Giáo viên hỏi: tác giả khuyên chúng ta nên chọn sách như thế nào? Em hiểu như thế nào về sách phổ thông và sách chuyên môn? Cho một vài ví dụ. Nêu được chọn sách chuyên môn, em yêu thích và lựa chọn loại sách chuyên môn nào? + Học sinh tự do lựa chọn và phát biểu ước muốn của bản thân. * Định hướng: - Sách chọn nên hướng vào 2 loại: - Loại phổ thông (nên chọn lấy 50 cuốn để đọc trong thời gian học phổ thông và đại học là đủ). - Loại chuyên môn (chọn, đọc suốt đời). b. Cách đọc: Cách đọc sách đúng đắn nên như thế nào? Cái hại việc đọc hời hợt được tác giả chế giễu ra sao? + Học sinh trả lời: * Định hướng: Lựa chọn được sách hay, sách tốt, sách cần cho mình rồi đến việc đọc. Đọc sách không dễ. - Đọc kỹ, đọc đi, đọc lại, đọc nhiều lần, đến thuộc lòng. - Đối với sự say mê, ngẫm nghĩ, suy nghĩ sâu xa, trầm ngâm tích luỹ, kiên định mục đích. - Tác hại của lối đọc hời hợt: Như người cưỡi ngựa qua chợ, mắt hoa ý loạn, tay không mà về; như trọc phú khoe của, lừa mình, dối người, thể hiện tầm thường, thấp kém. 4. Luận điểm 4: Mối quan hệ giữa học vấn phổ thông và học vấn chuyên môn với việc đọc sách. + Giáo viên hỏi: Tác giả đã triển khai luận điểm như thế nào? Trên những mặt nào? ý nghĩa giáo dục sư phạm của luận điểm này là ở chỗ nào? + Học sinh thảo luận, phát biểu. * Định hướng: - Bác bỏ quan niệm của một số người chỉ chú ý đến học vấn chuyên môn mà lãng quên hoặc coi thường học vấn phổ thông để trở thành phiến diện, khép kín. Tác giả phân tích rõ sự liên quan, gắn bó tương thông, tương hỗ giữa hai loại học vấn này để chỉ ra rằng: bên ngoài thì chúng có phân biệt nhưng bên trong không thể tách rời. Không có học vấn cô lập. Đó là một chỉnh thể thống nhất hữu cơ, đa dạng. - Nếu chỉ đào sâu học vấn chuyên môn thì càng sâu càng như đi vào sừng trâu, càng chui càng hẹp và cuối cùng tắc tị. Không biết rộng không thể chuyên sâu. Trước hãy biết rộng rồi sau mới nắm chắc... - Đó là những kết luận được trình bày một cách giản dị liên quan đến việc đọc rộng và đọc sâu cần kết hợp với nhau. - Đọc sách cũng là công việc rèn luyện, một cuộc chuẩn bị âm thầm và gian khổ. - Đọc sách là học tập tri thức. Đọc sách là rèn luyện tính cách, chuyện học làm người chứ không phải làm con mọt sách! Hoạt động 5 Hướng dẫn tổng kết và luyện tập 1. Đọc và tự minh ghi nhớ những kiến thức cơ bản trong mục ghi nhớ, SGK, tr. 7. 2. Xác định ngắn gọn hệ thống luận điểm trong bài (tầm quan trọng và ý nghĩa; hai cái hại: đọc qua loa, lạc hướng, cách chọn tinh; cách đọc kỹ, kết hợp giữa đọc rộng và đọc sâu). 3. Đặc sắc nghệ thuật của bài (nghị luận giải thích; luận điểm sáng rõ, lôgíc; lập luận chặt chẽ, kín kẽ, lời văn giản dị, so sánh hình ảnh thú vị). Tiết 93 Tiếng việt Khởi ngữ A. Kết quả cần đạt 1. Kiến thức: Học sinh nắm được khái niệm “Khởi ngữ” 2. Tích hợp với Văn qua văn bản Bàn về đọc sách, với Tập làm văn ở bài phép phân tích và tổng hợp. 3. Kỹ năng: rèn luyện kỹ năng nhận diện khởi ngữ và vận dụng khởi ngữ trong nói, viết. B. Thiết kế bài dạy-học. Hoạt động 1 Xác định đặc điểm và công dụng của khởi ngữ trong câu + Giáo viên yêu cầu học sinh tìm hiểu mục I.1 trong SGK và trả lời câu hỏi: 1. Các từ ngữ in đậm trong ba ví dụ a, b, c có vị trí và quan hệ với vị ngữ khác với chủ ngữ trong câu như thế nào? 2. Trước các từ ngữ in đậm nói trên, có thể thêm những quan hệ từ nào? + Học sinh trao đổi, thảo luận và trả lời: 1. Phân biệt các từ ngữ in đậm với chủ ngữ. a. Còn anh, anh không ghìm nổi xúc động. - Từ “anh” in đậm là khởi ngữ, từ “anh” không in đậm là chủ ngữ. - Khởi ngữ đứng trước chủ ngữ và không có quan hệ trực tiếp với vị ngữ theo quan hệ chủ ngữ-vị ngữ. b. Giàu, tôi cũng giàu rồi - Từ “Giàu” in đậm là khởi ngữ, chủ ngữ là từ “tôi”. - Khởi ngữ đứng trước chủ ngữ và báo trước nội dung thông tin trong câu. c. Về các thể văn trong lĩnh vực văn nghệ, chúng ta có thể tin ở tiếng ta không sợ nó thiếu giàu và đẹp [....] - Cụm từ “các thể văn trong lĩnh vực văn nghệ” là khởi ngữ, chủ ngữ là “chúng ta”. - Khởi ngữ đứng trước chủ ngữ và thông báo về đề tài được nói đến trong câu. 2. Trước các từ ngữ in đậm nói trên có thể thêm các quan hệ từ như: a. Còn (đối với) anh.... b. (Về) giàu,..... + Giáo viên chỉ định 1 học sinh đọc chậm, rõ ghi nhớ trong SGK. Hoạt động 2 Hướng dẫn luyện tập Bài tập 1: Tìm khởi ngữ trong các đoạn trích: a. Ông cứ đứng vờ vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc rồi nghe lỏm. Điều này ông khổ tâm hết sức. Khởi ngữ là “điều này” ở câu 2. b. Vâng! Ông giáo dạy phải! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng. Khởi ngữ là “đối với chúng mình” ở câu 3 c. Một mình thì anh bạn trên trạm đỉnh Phan-xi-păng ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét kia mới một mình hơn cháu. Khởi ngữ là “một mình” d. Làm khí tượng, ở được cao thế mới là lí tưởng chứ. Khởi ngữ là “làm khí tượng” c. Đối với cháu, thật là đột ngột [....] Khởi ngữ là “đối với cháu” Bài tập 2: Chuyển phần in đậm trong câu thành khởi ngữ: a. Anh ấy làm bài cẩn thận lắm. đ Làm bài, anh ấy cẩn thận lắm. b. Tôi hiểu rồi nhưng tôi chưa giải được. đ Hiểu thì tôi hiểu rồi, nhưng giải thì tôi chưa giải được. Tiết 94 Tập làm văn Phép phân tích và tổng hợp A- Kết quả cần đạt. 1. Kiến thức: Nắm được khái niệm phân tích và tổng hợp. 2. Tích hợp với Văn qua văn bản bàn về đọc sách. Với Tiếng Việt ở bài Khởi ngữ. 3. Kĩ năng: Rèn luyện kỹ năng phân tích và tổng hợp trong khi nói, viết. B- Thiết kế bài dạy - học. Hoạt động 1 Hình thành khái niệm về phép lập luận phân tích và tổng hợp + Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kỹ văn bản Trang phục trong SGK và trả lời các câu hỏi: 1. Thông qua một loạt dẫn chứng ở đoạn mở bài, tác giả đã rút ra nhận xét về vấn đề gì? 2. Hai luận điểm chính trong văn bản là gì? 3. Để xác lập 2 luận điểm trên, tác giả đã dùng phép lập luận nào? 4.Để “chốt” lại vấn đề, tác giả đã dùng phép lập luận nào? Phép lập luận này thường đứng ở vị trí nào trong văn bản? 5. Vai trò của phép lập luận phân tích và tổng hợp. + Học sinh trao đổi, thảo luận và trả lời: 1. Tác giả rút ra nhận xét về vấn đề “ăn mặc chỉnh tề”, cụ thể đó là sự đồng bộ, hài hoà giữa quần áo với giầy, tất... trong trang phục của con người. 2. Hai luận điểm chính trong văn bản là: - Thứ nhất, trang phục phải phù hợp với hoàn cảnh, tức là tuân thủ những “quy tắc ngầm” mang tính văn hoá xã hội. - Thứ hai, trang phục phải phù hợp với đạo đức, tức là giản dị và hài hoà với môi trường sống xung quanh. 3. Để xác lập hai luận điểm trên, tác giả đã sử dụng phép lập luận phân tích, cụ thể: a. Luận điểm: “Ăn cho mình, mặc cho người” - Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân tay. - Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ mi là phẳng tắp. - Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. - Đi dự đám tang không được mặc quần áo loè loẹt, nói cười oang oang. Sau khi phân tích những dẫn chứng cụ thể, tác giả đã chỉ ra một “quy tắc ngầm” chi phối cách ăn mặc của con người, đó là “văn hoá xã hội”. b. Luận điểm 2: “Y phục xúng kì đức” - Dù mặc đẹp đến đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, làm mình tự xấu đi mà thôi. - Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Các phân tích trên làm rõ cho nhận định của tác giả là: “Ăn mặc ra sao cũng phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã hội”. 4. Để “Chốt” lại vấn đề, tác giả dùng phép lập luận tổng hợp bằng một kết luận ở cuối câu văn: “Thế mới biết, trang phục hợp văn hoá, hợp đạo đức, hợp môi trường mới là trang phục đẹp”. 5. Vai trò của phép lập luận phân tích và tổng hợp: - Phép lập luận phân tích giúp ta hiểu sâu sắc các khía cạnh khác nhau của trang phục đối với từng người, trong từng hoàn cảnh cụ thể. - Phép lập luận tổng hợp giúp cho ta hiểu ý nghĩa văn hoá và đạo đức của cách ăn mặc; nghĩa là không thể ăn mặc một cách tuỳ tiện, cẩu thả như một số người lầm tưởng rằng đó là sở thích và “quyền” bất khả xâm phạm của mình. + Giáo viên chỉ định 1 học sinh đọc chậm, rõ ghi nhớ trong SGK. Hoạt động 2 Hướng dẫn luyện tập 1. Phân tích luận điểm: “Học vấn không chỉ là chuyện đọc sách, nhưng đọc sách vẫn là một con đường quan trọng của học vấn”. - Thứ nhất, học vấn là thành quả tích luỹ của nhân loại được lưu giữ và truyền lại cho đời sau. - Thứ hai, bất kỳ ai muốn phát triển học thuật cũng phải bắt đầu từ “Kho tàng quý báu” được lưu giữ trong sách; nếu không mọi sự bắt đầu sẽ là con số không, thậm chí là lạc hậu, giật lùi. - Thứ ba, đọc sách là “hưởng thụ” thành quả về tri thức và kinh nghiệm hàng nghìn năm của nhân loại, đó là tiền đề cho sự phát triển học thuật của mỗi người. 2. Phân tích lý do phải chọn sách để đọc: - Thứ nhất, bất cứ lĩnh vực học vấn nào cũng phải có sách chất đầy thư viện, do đó phải biết chọn sách để đọc. - Thứ hai, phải chọn những cuốn sách “Cơ bản, đích thực” để đọc, không nên đọc những cuốn sách “Vô thưởng, vô phạt”. - Thứ ba, đọc sách cũng như đánh trận, cần phải đánh vào thành trì kiên cố, đánh bại quân địch tinh nhuệ, chiếm cứ mặt trận xung yếu; tức là phải đọc cái cơ bản nhất, cần thiết cho công việc và cuộc sống của mình. 3. Phân tích cách đọc sách: - Tham đọc nhiều mà chỉ “Liếc qua” cốt để khoe khoang là mình đã đọc sách nọ, sách kia thì chẳng khác gì “chuồn chuồn đạp nước”, chỉ gây ra sự lãng phí thời gian và sức lực mà thôi: “Thế gian có biết bao người đọc sách chỉ để trang trí bộ mặt, như kẻ trọc phú khoe của, chỉ biết lấy nhiều làm quý. Đối với việc học tập, cách đó chỉ là lừa mình, dối người, đối với việc làm người thì cách đó thể hiện phẩm chất tầm thường, thấp kém.” - Đọc ít mà đọc kỹ, thì sẽ tập thành nếp suy nghĩ sâu xa, trầm ngâm tích luỹ, tưởng tượng tự do đến mức làm thay đổi khí chất. - Có hai loại sách cần đọc là sách về kiến thức phổ thông và sách về kiến thức chuyên ngành, đó là hai bình diện rộng và sâu của tri thức. 4. Vai trò của phân tích trong lập luận. - Có thể nói, trong văn bản nghị luận, phân tích là một thao tác bắt buộc mang tính tất yếu bởi nếu không phân tích thì không thể làm sáng tỏ được luận điểm và không thể thuyết phục được người nghe, người đọc. - Cần nhớ rằng mục đích của phân tích và tổng hợp là giúp cho người nghe, người đọc nhận thức đúng, hiểu đúng vấn đề. Do đó nếu đã phân tích thì đương nhiên phải có tổng hợp và ngược lại. Nói cách khác, phân tích và tổng hợp luôn có mối quan hệ biện chứng để làm nên “Hồn vía” cho văn bản nghị luận. Tiết 95 Tập làm văn Luyện tập phân tích và tổng hợp A- Kết quả cần đạt: Đây là bài rèn luyện kỹ năng, không phải bài học lý thuyết, do đó giáo viên lưu ý hướng dẫn cho học sinh rèn luyện thành thạo hai kỹ năng sau: 1. Kỹ năng nhận diện văn bản phân tích và tổng hợp. 2. Kỹ năng viết văn bản phân tích và tổng hợp. B- Thiết kế bài dạy - học Hoạt động 1 Nhận diện văn bản phân tích + Giáo viên yêu cầu hoạt động đọc kỹ hai đoạn tríc a, b ở mục 1 trong SGK và trả lời các câu hỏi: 1. Luận điểm và trình tự phân tích ở đoạn văn a? 2. Luận điểm và trình tự phân tích ở đoạn văn b? + Học sinh trao đổi, thảo luận và trả lời: 1.a. Luận điểm: “Thơ hay là cả hồn lẫn xác, hay cả bài” b. Trình tự phân tích. - Thứ nhất, cái hay thể hiện ở các điệu xanh: xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo.... (phối hợp các màu xanh khác nhau). - Thứ hai, cái hay thể hiện ở những cử động: thuyền nhích, sóng gợn tí, lá đưa vèo, tầng mây lơ lửng, con cá động.... (phối hợp các cử động nhỏ). - Thứ ba, cái hay thể hiện ở các vần thơ: tử vận hiểm hóc, kết hợp với từ với nghĩa chữ, tự nhiên không non ép.... 2.a. Luận điểm: “Mấu chốt của thành đạt là ở đâu?” b. Trình tự phân tích: - Thứ nhất, do nguyên nhân khách quan (đây là điều kiện cần): gặp thời, hoàn cảnh, điều kiện học tập thuận lợi, tài năng trời phú... - Thứ hai: do nguyên nhân chủ quan (đây là điều kiện đủ): tinh thần kiên trì phấn đấu, học tập không mệt mỏi và không ngừng trau dồi phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Hoạt động 2 Thực hành phân tích một vấn đề + Giáo viên có thể dẫn vào đề. Hiện nay, chúng ta đang phấn đấu xây dựng một xã hội học tập, nghĩa là mọi người đều có quyền được học và có nhu cầu đi học. Hiểu theo nghĩa chân chính tì: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để làm người và để tự khẳng định mình” (UNESCO) tức là học để phát triển và hoàn thiện con người theo quy luật của cái đẹp, trong đó cốt lõi của cái đẹp là trí tuệ. Tuy nhiên, có một bộ phận hông ít người chưa nhận thức thật đầy đủ về ý nghĩa và mục đích cao cả của việc học tập, do đó có những biểu hiện lệch lạc trong học tập như học qua loa đại khái, học đối phó... Chúng ta cần phải trao đổi, bàn bạc một cách nghiêm túc về vấn đề này để thấy được những tác hại tiêu cực của nó, đồng thời cùng nhau tìm ra những biện pháp đẩy lùi và tiến tới xoá bỏ nó. + Sau đó giáo viên nêu vấn đề yêu cầu học sinh trao đổi, thảo luận. 1. Thế nào là học qua loa, đối phó? 2. Phân tích bản chất của lối học đối phó và nêu lên những tác hại của nó. + Giáo viên gợi dẫn học sinh phân tích theo trình tự sau: 1. Học qua loa, đối phó: a. Học qua loa có biểu hiện sau: - Học không có đầu có đuôi, không đến nơi đến chốn; cái gì cũng biết một tí nhưng không có kiến thức cơ bản, hệ thống, sâu sắc. - Học cốt chỉ để khoe mẽ là đã có bằng nọ bằng kia, nhưng thực ra đầu óc trống rỗng; chỉ quen “nghe lỏm,học mót, nói dựa, ăn theo” người khác; không dám bày tỏ chính kiến của mình về các vấn đề có liên quan đến học thuật. b. Học đối phó có những biểu hiện sau: - Học chỉ cốt để thầy cô không quở trách, cha mẹ không rầy la; chỉ lo giải quyết việc trước mắt như thi cử, kiểm tra không bị điểm kém. - Học đối phó thì kiến thức phiến diện, nông cạn, hời hợt...Nếu cứ lặp đi lặp lại kiểu học này thì người học ngày càng trở nên dốt nát, trí trá, hư hỏng: vừa lừa dối người khác, vừa tự huyễn hoặc mình; đây là một trong những nguyên nhân gây ra hiện tượng “tiến sĩ giấy” đang bị xã hội lên án gay gắt. 2. Bản chất của lối học đối phó và tác hại của nó. a. Bản chất: - Có hình thức của học tập như: cũng đến lớp, cũng đọc sách, cũng có điểm thi, cũng có bằng cấp... - Không có thực chất: đầu óc rỗng tuếch đến nỗi “ăn không nên đọi, nói không nên lời”, hỏi cái gì cũng không biết, làm việc gì cũng hỏng... b. Tác hại: - Đối với xã hội: những kẻ học đối phó sẽ trở thành gánh nặng lâu dài cho xã hội về nhiều mặt như kinh tế, tư tưởng, đạo đức, lối sống... - Đối với bản thân: những kẻ học đối phó sẽ không có hứng thú học tập và do đó hiệu quả học tập ngày càng thấp. Hoạt động 3 Thực hành phân tích một văn bản + Giáo viên nêu vấn đề: “Tại sao phải đọc sách” và yêu cầu học sinh dựa vào văn bản Bàn về đọc sách của Chu Quang Tiềm để làm dàn ý phân tích. + Sau khi học sinh chuẩn bị xong, giáo viên gọi một số học sinh trình bày và hướng dẫn các em hoàn thiện các ý theo trình tự: - Thứ nhất, sách là kho tri thức được tích luỹ từ hàng nghìn năm của nhân loại, vì vậy bất kỳ ai muốn có hiểu biết đều phải đọc sách. - Thứ hai, tri thức trong sách bao gồm những kiến thức khoa học và kinh nghiệm thực tiễn đã được đúc kết, nó được coi là cái “mặt bằng” xuất phát của mọi người có nhu cầu học tập, hiểu biết, do đó nếu không đọc sách sẽ bị lạc hậu, không thể tiến bộ được. - Thứ ba, càng đọc sách chúng ta mới càng thấy kiến thức của nhân loại thì mênh mông như đại dương, còn hiểu biết của chúng ta thì chỉ là vài ba giọt nước vô cùng nhỏ bé; từ đó chúng ta mới có thái độ khiêm tốn và ý chí cao trong học tập. + Giáo viên có thể nhấn mạnh: Đọc sách là vô cùng cần thiết, nhưng cũng phải biết chọn sách mà đọc và phải biết cách đọc mới có hiệu quả. Hoạt động 4 Thực hành tổng hợp Đoạn văn gợi ý: Ngạn ngữ phương Đông có câu: “hãy để lại cho con cái một ngôi nhà, một cái nghề và một quyển sách”. Một ngôi nhà vừa là tài sản vật chất, vừa là nơi để ở theo tinh thần “an cư lạc nghiệp”. Một cái nghề vừa là phương tiện kiếm sống, vừa là phần đóng góp nhỏ bé của một công dân cho xã hội. Còn một quyển sách là tài sản tinh thần vô giá. Trong quyển sách ấy có tri thức, kinh nghiệm sống, có hoài bão, có ước mơ... của tiền nhân truyền đạt và gửi gắm cho muôn đời con cháu. Trong rất nhiều lời răn dạy của tiền nhân, chắc chắn có những lời văn bổ ích, thấm thía về việc học hành; chẳng hạn như: “Ngọc bất trắc bất thành khí, nhân bất học bất tri lý” (Ngọc không mài giũa không thành vật báu, người không học không hiểu đạo lý). Như vậy, việc học tập có vai trò quyết định trong việc lập thân của mỗi con người. Vì thế, muốn thành tài phải khổ công học tập, rèn luyện; phải học có đầu, có đuôi, học đến nơi đến chống; tuyệt đối không được học qua loa đối phó theo kiểu “cưỡi ngựa xem hoa” cốt chỉ để kiếm lấy mảnh bằng mà thực chất chỉ là hành vi lừa người dối mình. Trong quá trình học tập, tất nhiên phải đọc sách, cho nên phải biết chọn sách mà đọc và phải biết cách đọc để tiếp thu có hiệu quả những tri thức và kinh nghiệm của tiền nhân; đó chính là hành trang quan trọng để làm cuộc “trường chinh vạn dặm trên con đường học vấn” của mỗi người. Tuần 20 Bài 19 Tiết 96, 97 Văn học Tiếng nói của văn nghệ (Trích) Nguyễn Đình Thi A. Kết quả cần đạt 1. Hiểu được nội dung của văn nghệ và sức mạnh kỳ diệu của nó đối với đời sống của con người qua đoạn trích nghị luận ngắn, chặt chẽ, giàu hình ảnh của Nguyễn Đình Thi. 2. Tích hợp phần Tiếng Việt ở bài Các thành phần biệt lập (Tình thái, cảm thán) với phần Tập làm văn ở bài Nghị luận xã hội (Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống) với phần văn ở bài ý nghĩa văn chương (lớp 7). 3. Rèn kỹ năng đọc - hiểu và phân tích văn bản nghị luận. 4. Chuẩn bị của thầy trò: Toàn văn bài viết trong Mấy vấn đề văn học hoặc Tuyển tập Nguyễn Đình Thi (tập 3); ảnh chân dung Nguyễn Đình Thi hồi kháng chiến chống Pháp. B. Thiết kế bài dạy-học. Hoạt động 1 Tổ chức kiểm tra bài cũ (Hình thức: vấn đáp) 1. Tác giả Chu Quang Tiềm khuyên chúng ta nên chọn sách và đọc sách như thế nào? Em đã học theo lời khuyên ấy đến đâu? Hoạt động 2 Dẫn vào bài mới 1. Giáo viên hỏi để dẫn dắt vào bài: - Bài ý nghĩa văn chương đã học ở lớp7, ai là tác giả? được viết vào thời gian nào? Nội dung chính của bài là gì? - Dẫn nối với Nguyễn Đình Thi và bài Tiếng nói của văn nghệ. 2. Giới thiệu ngắn gọn về Nguyễn Đình Thi. 3. Giáo viên cho học sinh xem toàn văn bản trong các tác phẩm đã giới thiệu ở mục trên, ảnh chân dung Nguyễn Đình Thi. Hoạt động 3 Hướng dẫn đọc - Hiểu khái quát: Tìm hiểu kiểu loại văn bản, giải thích từ khó, phân tích bố cục 1. Giải thích từ khó. 2. Kiểu loại văn bản: Nghị luận về một vấn đề văn nghệ, lập luận giải thích và chứng minh. 3. Bố cục đoạn trích - hệ thống luận điểm: a. Nội dung của văn nghệ là phản ánh thực tại khách quan, lời gửi, lời nhắn nhủ của nhà nghệ sỹ tới người đọc, người nghe. “Từ đầu ... một cách sống của tâm hồn.” b. Sức mạnh kỳ diệu của văn nghệ. Đoạn còn lại. Trong từng luận điểm chính lại được triển khai bằng những luận cứ cụ thể hơn. Hoạt động 4 Hướng dẫn đọc - hiểu, phân tích chi tiết. 1. Nội dung của văn nghệ + Học sinh đọc đoạn văn từ đầu... đời sống chung quanh; phát hiện luận điểm, trình bày trước lớp. + GV định hướng: Luận điểm đầu tiên tác giả muốn nêu: Văn nghệ không chỉ phản ánh thực tại khách quan mà còn thể hiện tư tưởng, tình cảm của nghệ sĩ; thể hiện đời sống tinh thần của cá nhân người sáng tác (Anh gửi vào tác phẩm

File đính kèm:

  • docGIAO AN 9 TAP 2.DOC