Chính nội hàm mang tính phổ quát cao này (áp dụng cho mọi dạng hoạt động của con người) đã dẫn đến nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về “phương pháp dạy học” (như một dạng hoạt động đặc trưng nhất của xã hội loài người) tuỳ thuộc vào các cấp độ, quan điểm nhìn nhận, đánh giá (Trong lý luận dạy học Xô Viết trước đây và Nga hiện nay tồn tại 3 khái niệm rất khác nhau nhưng liên quan, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng có nội hàm là “phương pháp”. Đó là Metodologia - phương pháp luận mang tính phổ quát, bao trùm cho một lĩnh vực hoạt động cụ thể (phương pháp luận nghiên cứu khoa học, phương pháp luận sáng tác nghệ thuật.; Metodica - thường đi kèm với từ “Obutrenie” hoặc “Prepodavanie” với nghĩa dạy học nói chung hay dạy học bộ môn cụ thể - chỉ phương pháp, cách thức triển khai quá trình dạy học (nói chung cũng như cho một môn khoa học cụ thể; và Method - chỉ cách thức tiến hành một hoạt động cụ thể (để cụ thể hoá khái niệm này, trong thực tế đôi khi các nhà giáo dục còn dùng thuật ngữ “Priom” - thủ pháp, kỹ thuật).
Tóm lại, có nhiều định nghĩa khác nhau về phương pháp dạy học, mỗi định nghĩa nhấn mạnh một vài khía cạnh và phản ánh sự phát triển nhận thức của các nhà khoa học, các nhà sư phạm về bản chất của khái niệm. Như đã nêu ở trên, có ý kiến cho rằng phương pháp dạy học chỉ là phương tiện, thủ thuật của người thầy, người thầy là người chỉ đạo, truyền đạt kiến thức, còn trò tiếp thu kiến thức - phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò, trong sự phối hợp thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm thực hiện tốt nghĩa vụ dạy học. Như vậy định nghĩa này chỉ nói lên được sự tương tác giữa thầy và trò. Có ý kiến khác cho rằng-phương pháp dạy học là một hệ thống những hành động có mục đích của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành của học sinh, đảm bảo cho học sinh lĩnh hội nội dung học vấn (I. Ia. Lecne, 1981).
Ở đây vai trò của người thầy ngoài mục đích là tổ chức hoạt động nhận thức và hành động của học sinh còn chú ý đến thực hành, đảm bảo cho học sinh lĩnh hội được nội dung học vấn, đề cao vai trò của người học. Ngoài ra còn có nhiều định nghĩa khác nhau về phương pháp dạy học. Phương pháp dạy học là cách thức tương tác giữa thầy và trò nhằm giải quyết các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển trong quá trình dạy học (Iu K. Babanxki, 1983). Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động tương hỗ giữa thầy và trò nhằm đạt được mục đích dạy học. Hoạt động này được thể hiện trong việc sử dụng các nguồn nhận thức, các thủ thuật logic, các dạng hoạt động độc lập của học sinh và cách thức điều khiển quá trình nhận thức của thầy giáo (I.D. Dverev, 1980).
157 trang |
Chia sẻ: trangtt2 | Ngày: 05/07/2022 | Lượt xem: 352 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giáo trình Phương pháp công nghệ dạy học, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại học quốc gia hà nội
Khoa sư phạm
Bộ môn phương pháp - công nghệ dạy học
bài giảng
Phương pháp và công nghệ dạy học
Hà Nội, 2007
Khoa sư phạm
Bộ môn phương pháp - công nghệ dạy học
TS. Nguyễn Ngọc Bích - TS. Tôn Quang Cường
ThS. Phạm Kim Chung
bài giảng
Phương pháp và công nghệ dạy học
Bản quyền thuộcvề Khoa Sư phạmâ-ĐHQGHN
Hà Nội, 2007
Mục lục
chương i
C
một số vấn đề lý luận phương pháp dạy học
hương này đề cập những quan điểm cơ bản nhất về phương pháp dạy học hiện nay. Những quan điểm này sẽ giúp sinh viên xây dựng cho mình phương pháp luận hiện đại về dạy học và là kim chỉ nam cho quá trình nghiên cứu về phương pháp dạy học và trong quá trình vận dụng vào dạy học.
Nội dung kiến thức cơ bản của chương :
- Khái niệm, bản chất, cấu trúc của phương pháp dạy học.
- Phân loại các PPDH.
- Tiêu chí của một giáo viên dạy hiệu quả.
- Lựa chọn và vận dụng các phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học.
1.1. Khái niệm phương pháp dạy học
1.1.1. Khái niệm về phương pháp hoạt động
Dạy học là một hoạt động đặc trưng nhất của giáo dục, cơ bản nhất trong việc truyền thụ các vốn tri thức, kinh nghiệm trong xã hội loài người. Nó tuân thủ theo những qui luật chung nhất cho bất kỳ hoạt động nào của con người: có động cơ, quá trình thực hiện và có tính mục đích.
Phương pháp hiểu theo nghĩa chung nhất được bắt nguồn từ hoạt động và là khái niệm luôn sóng đôi với hoạt động, là cách thức, biện pháp để thực hiện, con đường dẫn đến mục đích đề ra. Khái niệm “phương pháp” (Theo Từ điển Britannica, thuật ngữ này xuất hiện từ tiếng Latinh năm 1541. Có nhiều tài liệu dẫn xuất xứ là từ tiếng Hy Lạp: Methodos - “con đường dẫn đến chân lý”) có nội hàm chỉ cách thức dẫn đến mục tiêu.
1.1.2. Khái niệm phương pháp dạy học
Chính nội hàm mang tính phổ quát cao này (áp dụng cho mọi dạng hoạt động của con người) đã dẫn đến nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về “phương pháp dạy học” (như một dạng hoạt động đặc trưng nhất của xã hội loài người) tuỳ thuộc vào các cấp độ, quan điểm nhìn nhận, đánh giá (Trong lý luận dạy học Xô Viết trước đây và Nga hiện nay tồn tại 3 khái niệm rất khác nhau nhưng liên quan, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng có nội hàm là “phương pháp”. Đó là Metodologia - phương pháp luận mang tính phổ quát, bao trùm cho một lĩnh vực hoạt động cụ thể (phương pháp luận nghiên cứu khoa học, phương pháp luận sáng tác nghệ thuật...; Metodica - thường đi kèm với từ “Obutrenie” hoặc “Prepodavanie” với nghĩa dạy học nói chung hay dạy học bộ môn cụ thể - chỉ phương pháp, cách thức triển khai quá trình dạy học (nói chung cũng như cho một môn khoa học cụ thể; và Method - chỉ cách thức tiến hành một hoạt động cụ thể (để cụ thể hoá khái niệm này, trong thực tế đôi khi các nhà giáo dục còn dùng thuật ngữ “Priom” - thủ pháp, kỹ thuật).
Tóm lại, có nhiều định nghĩa khác nhau về phương pháp dạy học, mỗi định nghĩa nhấn mạnh một vài khía cạnh và phản ánh sự phát triển nhận thức của các nhà khoa học, các nhà sư phạm về bản chất của khái niệm. Như đã nêu ở trên, có ý kiến cho rằng phương pháp dạy học chỉ là phương tiện, thủ thuật của người thầy, người thầy là người chỉ đạo, truyền đạt kiến thức, còn trò tiếp thu kiến thức - phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò, trong sự phối hợp thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm thực hiện tốt nghĩa vụ dạy học. Như vậy định nghĩa này chỉ nói lên được sự tương tác giữa thầy và trò. Có ý kiến khác cho rằng-phương pháp dạy học là một hệ thống những hành động có mục đích của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành của học sinh, đảm bảo cho học sinh lĩnh hội nội dung học vấn (I. Ia. Lecne, 1981).
ở đây vai trò của người thầy ngoài mục đích là tổ chức hoạt động nhận thức và hành động của học sinh còn chú ý đến thực hành, đảm bảo cho học sinh lĩnh hội được nội dung học vấn, đề cao vai trò của người học. Ngoài ra còn có nhiều định nghĩa khác nhau về phương pháp dạy học. Phương pháp dạy học là cách thức tương tác giữa thầy và trò nhằm giải quyết các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển trong quá trình dạy học (Iu K. Babanxki, 1983). Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động tương hỗ giữa thầy và trò nhằm đạt được mục đích dạy học. Hoạt động này được thể hiện trong việc sử dụng các nguồn nhận thức, các thủ thuật logic, các dạng hoạt động độc lập của học sinh và cách thức điều khiển quá trình nhận thức của thầy giáo (I.D. Dverev, 1980).
Hoạt động học tập của học sinh tuân theo các qui định của quá trình lĩnh hội và các điều kiện dạy học. Vì vậy, căn cứ vào các đặc điểm của hoạt động học tập, mục đích và nội dung dạy học giáo viên xác định phương pháp dạy học nhằm tổ chức điều khiển quá trình học tập của học sinh theo hướng tích cực. Quy trình này luôn luôn được điều chỉnh nhờ những mối liên hệ phản hồi của học sinh, thể hiện ở kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng giáo dục.
Nếu coi mục đích dạy học là nhằm dẫn dắt học sinh đạt tới một trình độ nhận thức xác định, thì việc xây dựng nội dung dạy học, ta sẽ dự kiến trước một trình độ lĩnh hội của học sinh để từ đó xác định những nội dung dạy học, nhằm giúp học sinh đạt tới trình độ dự kiến. Kết qủa của quá trình dạy học phụ thuộc rất lớn vào phương pháp dẫn dắt người học, nếu như đạt tới trình độ lĩnh hội dự kiến thì điều đó chứng tỏ rằng nội dung phương pháp dạy học là hiệu nghiệm.
(Lý luận dạy học, tr.16, NXBGD HN-2002)
1.1.3. Các cấp độ của phương pháp dạy học
Như vậy xét về tổng thể, bất kỳ một phương pháp nào cũng có thể được xem xét và phân tích theo 3 cấp độ sau:
* Cấp độ lý luận (theory), “phương pháp luận” (methodology): PPDH là hệ thống các nguyên tắc, nguyên lý xác định mục đích, yêu cầu, điều kiện, phương thức thực hiện nhằm đạt được mục đích dạy học đặt ra. Nói cách khác, đó là chiến lược (strategy), nguyên tắc (principle)s hành động nhằm đến mục đích dạy học (để phân biệt PPDH với phương pháp nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học nghệ thuật, phương pháp chữa bệnh đông y, phác đồ điều trị trong tây y v.v.);
* Cấp độ hoạt động thực tiễn (approach, way, pattern, model): PPDH là tổ hợp các biện pháp, phương thức tổ chức hoạt động dạy học của người dạy và người học nhằm thực hiện các mục tiêu của môn học và chương trình học. Nói cách khác, đó là quá trình tổ chức hoạt động nhằm đạt được mục tiêu (để phân biệt PPDH môn toán với PPDH môn văn, ngoại ngữ v.v.); Theo quan điểm điều khiển học thì PPDH là cách thức điều khiển quá trình nhận thức của người dạy cho người học (quan điểm cũ) hoặc giúp, tạo điều kiện, hỗ trợ người học (quan điểm hiện đại) chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, thái độ...
* Cấp độ hành động, thao tác (technique): PPDH là tổ hợp các thao tác, kỹ thuật, thủ pháp, thủ thuật cụ thể của người dạy và người học nhằm giải quyết những nhiệm vụ cụ thể của bài học, tiết học. Nói cách khác, đó là qui trình các thao tác hành động, tuân thủ theo một trình tự logic nhất định nhằm giải quyết nhiệm vụ (để lựa chọn phương pháp dạy học giữa bài tác gia tác phẩm với văn học sử, phê bình lý luận v.v.).
Tuy nhiên, cho dù nhìn nhận dưới góc độ nào đi chăng nữa thì PPDH vẫn mang những nét đặc trưng, thể hiện:
Mục đích của việc dạy học (sự vận động của nội dung và mục đích chiếm lĩnh nội dung dạy học - tri thức khoa học).
Phương thức chiếm lĩnh nội dung dạy học (hình thức, con đường trao đổi và chiếm lĩnh thông tin trong dạy học).
Đặc tính tương tác giữa các chủ thể trong dạy học (cách thức tổ chức, tính thống nhất trong điều khiển hoạt động nhận thức trong dạy học).
Trong đó 2 đặc tính cuối được xem xét và nhìn nhận như là những tiêu chí chính để đánh giá và phân loại các PPDH cụ thể (sẽ bàn kỹ ở phần sau).
Từ đó có thể đưa ra một định nghĩa tổng quát về PPDH như sau:
Phương pháp dạy học là tổ hợp các cách thức, biện pháp thực hiện hoạt động hợp tác, tương tác giữa người dạy và người học nhằm đạt mục tiêu dạy học.
ồ ị
Có thể biểu diễn tóm tắt phương pháp dạy học bằng công thức:
Trong đó:
ồ: Tổ hợp các thao tác hoạt động của người dạy và người học.
đ: Chiều hoạt động của các chủ thể trong quá trình dạy học.
ị: Tính hướng đích của quá trình dạy học.
Như vậy, một cách khái quát có thể coi phương pháp dạy học chính là phương pháp tổ chức, triển khai quá trình dạy học.
1.2. Bản chất và cấu trúc của phương pháp dạy học
1.2.1. Bản chất của phương pháp dạy học
Để có thể hiểu rõ và triển khai các phương pháp dạy học một cách có hiệu quả, chúng ta cần phải tìm hiểu bản chất đích thực chứa trong nội hàm của khái niệm phương pháp dạy học.
* Tính mục đích:
Bất kỳ PPDH nào cũng được qui định bởi mục đích dạy học (Người học học cái gì, học như thế nào, học để sẽ làm được gì...?). Không có PPDH tự thân. Tính mục đích ở đây sẽ qui định chặt chẽ việc lựa chọn PP này hay PP khác trong quá trình dạy học. Ví dụ, với mục đích là truyền thụ khối lượng kiến thức tối đa cho số lượng lớn người học trong một đơn vị thời gian, không gian tối thiểu, người dạy sẽ phải cân nhắc để lựa chọn một chiến lược, qui trình, thao tác, thủ thuật hay nói cách khác là phương pháp phù hợp (ví dụ PP thuyết trình, giảng giải, minh hoạ). Ngược lại, để nhắm tới cái đích là rèn luyện kỹ năng hành động cho người học, người dạy sẽ phải chọn con đường làm sao tăng cường thực hành, thao tác, luyện tập cho người học (ví dụ PP thực hành, thí nghiệm, thực tế, làm bài tập). Mặt khác, mục đích của quá trình dạy học luôn được cụ thể hoá trước hết ở nội dung dạy học xác định (Người học học những gì?). Do đó PPDH bao giờ cũng là phương pháp dạy học những tri thức nhất định hoặc những cách thức hoạt động trí óc hay thực hành nhất định.
* Tối ưu hoá trong phương thức thực hiện:
Khi xem xét, phân tích bất kỳ phương pháp nào cũng có thể thấy rõ con đường, cách thức mà người dạy và người học đã và đang thực hiện nhằm chiếm lĩnh nội dung tri thức và rèn kỹ năng nhằm hướng đến đích của việc dạy học: bằng lời (thông qua kênh nghe), trực quan (kênh nhìn) hay thực hành (bằng những thao tác mẫu cụ thể), hoạt động truyền thụ một chiều (“thầy đọc trò ghi”), hoạt động tương tác, hợp tác, cộng tác, điều khiển... Có nhiều cách để đi tới cùng một đích. PPDH thể hiện nỗ lực vươn tới một sự tối ưu hoá trong qui trình thực hiện, tức thể hiện một phương thức hoạt động hợp lý của các chủ thể nhằm đạt mục đích hiệu quả nhất (thực tế cho thấy, không có ai “cố gắng” tổ chức một giờ dạy học tồi tệ cả, đồng thời cũng không có một giờ dạy học nào tốt đến mức không thể làm cho nó tốt hơn được nữa!) Khuynh hướng tối ưu hoá được thể hiện trong việc lựa chọn, sắp xếp nội dung, hình thức triển khai, qui trình tổ chức, điều khiển quá trình dạy học...
* Đặc tính hoạt động:
Quá trình dạy học là một hoạt động thống nhất, toàn vẹn, qua lại, gắn bó và qui định lẫn nhau của 2 chủ thể: người dạy và người học. Mỗi PPDH đều phản ánh rõ tính ưu thế trong hoạt động của 2 chủ thể này: người dạy hay người học giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động, sự tương tác hoạt động một chiều (người dạy-người học), hai chiều (người dạy-người học-người dạy), hay đa chiều... (người dạy-người học1-người học2-người dạy-người họcn...). Chính vì vậy, một PPDH được coi là hiệu quả khi nó tạo ra sự cân bằng hợp lý trong hoạt động dạy học nhằm phát huy được tính tích cực của cả hai chủ thể: người dạy tích cực, người học chủ động.
* Đặc tính hoạt động của PPDH được thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Phản ánh sự vận động (khả năng “kích hoạt”) của chính nội dung dạy học và sự chiếm lĩnh nội dung từ 2 phía chủ thể: người dạy và người học. Chỉ khi người dạy chiếm lĩnh được nội dung tri thức (lựa chọn, sắp xếp, phân hạng thứ bậc nội dung dạy) thì mới khống chế và triển khai được các PPDH phù hợp. Mặt khác, người học sẽ lĩnh hội được các nội dung học một cách chủ động, sáng tạo khi và chỉ khi nội dung này được triển khai bằng một PPDH phù hợp. Một vấn đề của nội dung bao giờ cũng hàm chứa ít nhất một phương pháp tiềm năng phù hợp để giải quyết nó.
- Phản ánh sự vận động (tính định hướng) của mục tiêu dạy học: với cùng một nội dung tri thức, cùng một chủ thể hoạt động (người dạy và người học), các mục tiêu khác nhau được đặt ra sẽ qui định việc triển khai những PPDH khác nhau.
- Phản ánh hoạt động và vai trò của 2 chủ thể - người dạy và người học - trong quá trình dạy học. Hoạt động của các chủ thể có thể là thụ động, một chiều, thúc ép, đàn áp, uy quyền (thầy đọc trò ghi, thầy độc giảng, trò độc chép...), tích cực, đa chiều, tương tác, hợp tác (thầy chủ đạo, trò chủ động)...
Tóm lại:
Phương pháp có 4 đặc điểm sau:
- Phương pháp được quy định bởi mục đích của công việc (mục đích khác nhau thì phương pháp thực hiện cũng khác nhau).
- Phương pháp được cụ thể hoá bởi nội dung (nội dung công việc sẽ quy định cụ thể việc sử dụng phương pháp này hay phương pháp khác).
- Phương pháp luôn có cấu trúc vì khi sử dụng một phương pháp, người thực hiện phải hình dung ra từng giai đoạn trong cả quá trình và phải hiểu ý nghĩa của từng giai đoạn. Nói cách khác: cấu trúc của phương pháp phải được đảm bảo thì hiệu quả công việc mới cao.
- Tính đa dạng và tính tối ưu của phương pháp. Tính đa dạng của phương pháp thể hiện ở chỗ có nhiều phương pháp khác nhau để thực hiện mục tiêu hoạt động. Chủ thể hoạt động luôn phải đối mặt với việc lựa chọn, xác định rõ phương pháp nào là tốt nhất, sử dụng một hay kết hợp nhiều phương pháp để đạt hiệu quả cao nhất. Điều đó nói lên tính tối ưu của phương pháp.
Thảo luận:
Liệu có tồn tại một phương pháp vạn năng để thực hiện một giờ dạy hiệu quả?
1.2.2. Cấu trúc của phương pháp dạy học
Bất kỳ một PPDH nào khi triển khai cũng đều phải tuân thủ theo một cấu trúc logic. Cấu trúc này chỉ rõ:
- Con đường nhận thức, chiếm lĩnh nội dung tri thức nhằm đạt mục đích dạy học của người dạy và người học. Con đường đó có thể là: Qui nạp (theo mô hình: ví dụ, giải thích, phân tích-khái niệm-ví dụ, phân tích, khẳng định), Diễn dịch (theo mô hình: khái niệm-ví dụ, phân tích, chứng minh-khẳng định/tái tạo khái niệm) hay kết hợp qui nạp với diễn dịch.
- Mô hình tổ chức hoạt động, bao gồm: Mục đích, Động cơ, Quá trình và Đánh giá (tức thể hiện rõ mục đích ý nghĩa của phương pháp, các bước triển khai cụ thể, các trường hợp có thể áp dụng phương pháp, những ưu, nhược điểm của phương pháp...).
Thảo luận:
Hãy lấy ví dụ và phân tích việc áp dụng con đường qui nạp, diễn dịch hay kết hợp cả hai trong dạy học để giải quyết một vấn đề chuyên môn cụ thể! Giữa hai PP qui nạp và diễn dịch, PP nào giúp người học tiếp nhận kiến thức dễ hơn, tích cực hơn?
1.2.3. Vai trò, vị trí của phương pháp dạy học trong quá trình dạy học
PPDH giữ vai trò then chốt trong quá trình dạy học, tạo nên sự liên kết giữa mục đích, nội dung, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học, đảm bảo tính hệ thống, toàn vẹn của quá trình hoạt động đặc thù này. Nếu mục tiêu đảm bảo sự thành công, nội dung đảm bảo tính khoa học, thì phương pháp tạo nên hiệu quả của quá trình dạy học.
Dạy
Học
Nội dung
Phương pháp
Phương tiện
Hình thức TC, ĐG
Mục tiêu
Sơ đồ vị trí của PPDH trong quá trình dạy học
1.3. Phân loại phương pháp dạy học
Một trong những vấn đề không kém phức tạp, gây nhiều tranh cãi khi nghiên cứu về phương pháp dạy học chính là việc tìm cách đặt tên và phân loại chúng. Mặt khác trong thực tế dạy học, các phương pháp luôn được triển khai một cách đan quyện vào nhau, rất khó bóc tách chúng một cách cơ học (Ví dụ, trong thuyết trình có diễn giảng, minh hoạ, vấn đáp, sử dụng qui nạp, diễn dịch, nêu tình huống...). Do vậy việc phân loại các phương pháp dạy học cũng chỉ mang tính chất tương đối nhằm giúp cho người dạy, người học nhận diện được bản chất, ưu nhược điểm của từng phương pháp để thuận tiện trong việc triển khai (Trên thực tế chỉ khi chia cắt hoạt động dạy học ra thành những phân đoạn nhỏ, riêng lẻ mới có thể “nhìn” và định danh được phương pháp). Tuy nhiên, có thể tóm tắt một số quan điểm phân loại phương pháp như sau:
1.3.1. Một số cách phân loại phương pháp dạy học truyền thống
1.3.1.1. Phân loại theo hình thức hoạt động của các chủ thể trong quá trình dạy học:
- Theo hình thức hoạt động của người dạy có: phương pháp thông báo, phương pháp giải thích, diễn giảng, thuyết trình, kể chuyện, làm mẫu...
- Theo hình thức hoạt động của người học có: phương pháp luyện tập, thực hành, bắt chước, tự học, tự nghiên cứu...
1.3.1.2. Phân loại theo con đường tiếp nhận tri thức:
Phương pháp dùng lời - con đường tiếp nhận tri thức là ngôn ngữ nói hoặc viết- ví dụ như: kể chuyện, giải thích, diễn giảng, trò chuyện gợi mở, độc giảng (tiếng Nga- Leksia, tiếng Anh-Lecture)...; phương pháp trực quan - tri thức đến với người học thông qua các giáo cụ trực quan, sự vật, hiện tượng có thể quan sát được. Ví dụ như: minh hoạ, trình diễn, làm mẫu...; phương pháp thực hành - thông qua các hoạt động, hành động, thao tác... người học chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo... Ví dụ: luyện tập, thực hành, thực nghiệm, thí nghiệm, trò chơi v.v.
1.3.1.3. Phân loại theo hướng tiếp cận:
Phương pháp truyền thống, cổ điển, phương pháp hiện đại; phương pháp giáo điều, một chiều, tái tạo, phương pháp khám phá, phát huy sáng tạo, tích cực của người học; phương pháp thụ động, phương pháp tích cực; phương pháp Algorit hoá, phương pháp Heuristic...
1.3.1.4 Phân loại theo đặc điểm hoạt động nhận thức của người học
Xuất phát từ quan điểm cho rằng mục đích việc lựa chọn và sử dụng phương pháp dạy học là nhằm thiết kế và triển khai việc dạy học có hiệu quả, tức đạt được mục tiêu dạy học (“Kết thúc bài học này người học sẽ....!”), M.N. Skatkin, I.Ja. Lener đã chọn đặc điểm hoạt động nhận thức của người học làm tiêu chí phân loại phương pháp. Quan điểm này cũng phù hợp với việc đề ra các mục tiêu dạy học theo các lĩnh vực hoạt động của người học (J. Dave): Nhận thức (Cognitive) - Tâm vận (Pshycomotor) - Tình cảm (Affective), theo bậc thang nhận thức của B.J. Bloom (1954), theo triết lý dạy học theo mục tiêu: kiến thức - kỹ năng - thái độ và dạy học lấy người học làm trung tâm hiện nay (Chất lượng là sự trùng khớp với mục tiêu!).
B.J. Bloom chia hoạt động nhận thức ra làm 6 cấp độ: Biết (Nhớ) - Hiểu - Vận dụng - Phân tích - Tổng hợp - Đánh giá. Như vậy ứng với mỗi mục tiêu dạy học (người học sẽ phải đạt tới cấp độ nào của thang bậc nhận thức?) sẽ có một nhóm phương pháp dạy học thích hợp.
a) Phương pháp thuyết trình-minh hoạ (thông báo thông tin-thu nhận).
Phương pháp này hướng đến mục tiêu làm cho người học Biết (ghi nhớ), phù hợp với nội dung dạy học sự kiện, khái niệm.
Mục đích: Tổ chức việc lĩnh hội tri thức thông qua con đường thông báo, trình bày, diễn giải thông tin, nội dung dạy học; đóng vai trò bước khởi đầu cho việc khám phá sự vật, hiện tượng.
Hoạt động của người dạy: Thông báo, truyền đạt thông tin bằng các phương tiện khác nhau, trong đó chủ yếu là ngôn ngữ, phương tiện trực quan (sơ đồ, bảng biểu, ví dụ minh hoạ...)
Hoạt động của người học: Lĩnh hội, tư duy, ghi nhớ nội dung được thông báo...
ưu điểm: Dễ triển khai, giải quyết mâu thuẫn giữa thời gian, không gian, số lượng lớn người học với khối lượng lớn thông tin, kinh tế...
Nhược điểm: Người học thụ động, học “vẹt”, học “gạo”, chưa hình thành được kỹ năng, thao tác vận dụng xử lý thông tin, thiếu sự tương tác, phản hồi từ phía người học...
b) Phương pháp tái tạo (lặp lại, thao tác theo mẫu cho sẵn).
Phương pháp này nhắm đến mục tiêu làm cho người học Hiểu (bước đầu vận dụng), phù hợp với nội dung dạy học qui trình, quá trình.
Mục đích: Hình thành kỹ năng, kỹ xảo, thao tác thuần thục với thông tin, nội dung dạy học.
Hoạt động người của người dạy: Thiết kế và đưa ra các “mẫu” (bài tập, công thức, bảng biểu, chỉ dẫn...), chương trình hoá các nội dung dạy học.
Hoạt động của người học: Thao tác, lặp lại theo mẫu, theo chỉ dẫn, sử dụng các kỹ thuật để nhận diện, hiểu rõ vấn đề, bước đầu hình thành và phát triển kỹ năng thực hiện các thao tác đơn lẻ.
ưu điểm: Hiểu bản chất vấn đề, hình thành kỹ năng vận dụng tri thức đã lĩnh hội
Nhược điểm: Học “tủ”, rập khuôn cứng nhắc
c) Phương pháp nêu vấn đề-tình huống.
Phương pháp này nhắm đến mục tiêu giúp người học Vận dụng được các kỹ năng để giải quyết những vấn đề của nội dung, phù hợp với dạy học các nguyên lý, nguyên tắc.
Mục đích: Đưa ra các vấn đề (tình huống có vấn đề), khai phá các mâu thuẫn, chỉ ra các cách giải quyết chúng.
Hoạt động của người dạy: Thiết kế, phân loại, chỉ ra các vấn đề, tình huống có vấn đề của nội dung dạy học, điều khiển, hướng dẫn, điều chỉnh các hướng giải quyết vấn đề, kiểm chứng tính đúng đắn do người học đưa ra.
Hoạt động của người học: Tìm kiếm, khai phá mâu thuẫn cũng như logic của vấn đề, đề ra giả thuyết, phương hướng giải quyết
ưu điểm: Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học, hình thành tư duy phê phán
Nhược điểm: Khó triển khai, tốn nhiều công sức, thời gian...
d) Phương pháp khám phá sáng tạo.
Phương pháp này nhắm đến mục tiêu giúp người học Phân tích được các vấn đề của nội dung đặt ra, phù hợp với dạy học sáng tạo.
Mục đích: Hình thành kỹ năng tự xác định, phân tích và giải quyết các vấn đề chứa trong nội dung dạy học.
Hoạt động của người dạy: Hướng dẫn cách xác lập vấn đề, tìm kiếm , thu thập cứ liệu, lập kế hoạch giải quyết các vấn đề của nội dung.
Hoạt động của người học: Xác lập, phân tích, lên kế hoạch độc lập tìm kiếm giải pháp, con đường giải quyết vấn đề.
ưu điểm: Rèn luyện, kích thích tư duy phê phán, sáng tạo, phát triển kỹ năng độc lập giải quyết vấn đề, tìm kiếm giải pháp mới cho cùng một vấn đề.
Nhược điểm: Khó tổ chức triển khai, tốn nhiều công sức, thời gian, đòi hỏi người dạy và người học phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng.
e) Phương pháp tự nghiên cứu (làm việc độc lập).
Phương pháp này nhắm đến mục tiêu giúp người học Phân tích, Tổnghợp và Đánh giá, đưa ra quan điểm, ý kiến riêng về những vấn đề của nội dung dạy học.
Mục đích: Đảm bảo và phát huy các kỹ năng làm việc độc lập, sáng tạo, mềm dẻo, thích ứng nhanh của người học để giải quyết những vấn đề mới.
Hoạt động của người dạy: Đưa ra yêu cầu, nhiệm vụ nghiên cứu vấn dề cụ thể của nội dung dạy học.
Hoạt động của người học: Độc lập tìm kiếm các giải pháp thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu.
ưu điểm: Phát huy khả năng làm việc độc lập, tìm tòi, phát hiện vấn đề và giải quyết một cách sáng tạo, hình thành kỹ năng nghiên cứu khoa học.
Nhược điểm: Hạn chế sự giao tiếp giữa người dạy và người học, khó tổ chức.
Việc không nhất quán trong quan điểm phân loại các phương pháp càng chứng tỏ tính phức tạp và những thách thức vẫn đang đặt ra cho bài toán đi tìm một phương pháp dạy học hiệu quả. Điều này đòi hỏi người dạy và người học không chỉ phải nắm vững và khống chế các phương pháp dạy học mà còn phải biết cách vận dụng, phối hợp chúng hài hoà trong quá trình dạy học.
1.3.2. Những điều kiện qui định việc lựa chọn phương pháp dạy học
Bởi phương pháp tạo nên hiệu quả của quá trình dạy học nên vấn đề lựa chọn phương pháp luôn được đặt lên hàng đầu trong khi thiết kế, xây dựng ý đồ triển khai một bài giảng cụ thể. Trên thực tế không tồn tại một phương pháp tuyệt hảo cũng như không có một phương pháp tồi tệ. Mỗi phương pháp đều có những mặt ưu và nhược riêng. Do đó người dạy phải biết chọn lựa để phát huy những điểm mạnh và hạn chế những nhược điểm của từng phương pháp trong quá trình dạy học. Một phương pháp dạy học được coi là hợp lý và hiệu quả khi phương pháp này:
- Nhắm đến mục tiêu dạy học rõ ràng: Tạo ra khả năng cao nhất để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ dạy học, phát triển nhận thức, kỹ năng, thái độ của người học.
- Tương thích: Phù hợp với nội dung dạy học cụ thể, đặc thù của từng môn học, bài học, vấn đề cụ thể; từng giai đoạn cụ thể trong tiến trình giờ học... (Một số tác giả đặc biệt lưu tâm đến việc cần phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau tại những thời điểm khác nhau trong giờ học căn cứ vào mức độ tập trung chú ý của người học. Ví dụ: khủng hoảng chú ý ở người học sẽ xảy ra ở phút 14-18, sau đó tình trạng này sẽ lặp lại lần thứ hai sau khoảng 11-14 phút, lần ba sau khoảng 9-11 phút, lần cuối sau khoảng 8-9 phút...).
- Khả thi: Phù hợp với năng lực, trình độ, sở thích, hứng thú, kinh nghiệm của người dạy lẫn người học, phù hợp các điều kiện dạy học...
Do đó việc lựa chọn phương pháp dạy học sẽ bị qui định bởi:
+ Mục tiêu, nội dung dạy học (môn học, chương mục, bài học, từng nội dung cụ thể trong các giai đoạn triển khai giờ học...).
+ Nguyên tắc dạy học.
+ Đặc điểm tâm sinh lý, khả năng, trình độ, hứng thú của người học...; trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm của người dạy.
Thảo luận:
Hãy mô tả và phân tích phương pháp có tên gọi "Phỏng vấn nhanh"!
1.4. Khái quát và so sánh một số quan điểm dạy học hiện nay
1.4.1. Phân tích một số phương pháp dạy học của Việt Nam và trên thế giới
Hiện nay trên thế giới nó chung và Việt Nam nói riêng đang thực hiện các phương pháp dạy học tích cực và hiệu quả, coi trọng vai trò của học sinh-học sinh trở thành trung tâm của quá trình dạy học (student-centered hay “engagement”) hoặc cố gắng cải cách vượt ra khỏi các phương pháp dạy học truyền thống lấy người thầy là trung tâm của quá trình dạy học (teacher-centered hay “transmit”). Phương pháp dạy học tích cực được nhấn mạnh hiện nay
File đính kèm:
- giao_trinh_phuong_phap_cong_nghe_day_hoc.doc