Để đảm bảo chất lượng đào tạo, chúng ta phải quan tâm nhiều yếu tốvà điều kiện trong
suốt quá trình đào tạo. Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉgiới thiệu vềmột sốphương
pháp giảng dạy cải tiến giúp sinh viên học tập chủ động (active learning) và trải nghiệm
(experiential learning) để đạt được các mục tiêu môn học và chương trình đào tạo theo CDIO,
cũng như đáp ứng được các yêu cầu của xã hội. Các kết quảnghiên cứu gần đây cho thấy khả
năng tiếp thu và vận dụng bài học của sinh viên tăng lên khi được học tập chủ động. Trong
phương pháp dạy học cải tiến, người học - đối tượng của hoạt động dạyhọc đồng thời là chủthể
của hoạt động họctập- được cuốn hút vào các hoạt động học tập một cách chủ động do giảng
viêntổchức và hướng dẫn, thông qua đó người học tựlực khám phá những điều mình chưa rõ
chứkhông phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giảng viênsắp đặt. Được đặt vào những
tình huống của đời sống thực tế, người học được trải nghiệm, được trực tiếp quan sát, thảo luận,
làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩcủa mình, vừa thông qua làm việc cá
nhân, vừa phải làm việc theo nhóm, từ đó đạt được kiến thức mới, kỹnăng mới, phát huy tiềm
năng sáng tạo. Tùy vào mục tiêu của môn học cụthể, cần đạt mức độkiến thức hay kỹnăng nào
theo cách tiếp cận CDIO, người giảng viên sẽtổchức các hoạt động phù hợp giúp sinh viên học
tập chủ động để đạt được các mục tiêu ấy
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1609 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giới thiệu một số phương pháp giảng dạy cải tiến giúp sinh viên học tập chủ động và trải nghiệm, đạt các chuẩn đầu ra theo CDIO, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIỚI THIỆU MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY CẢI TIẾN
GIÚP SINH VIÊN HỌC TẬP CHỦ ĐỘNG VÀ TRẢI NGHIỆM,
ĐẠT CÁC CHUẨN ĐẦU RA THEO CDIO
Nguyễn Thành Hải, Phùng Thúy Phượng, Đồng Thị Bích Thủy ( )*
Trung tâm Nghiên Cứu Cải Tiến Phương Pháp Dạy và Học ĐH
Trường ĐH Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc Gia Tp.HCM
TÓM TẮT
Để đảm bảo chất lượng đào tạo, chúng ta phải quan tâm nhiều yếu tố và điều kiện trong
suốt quá trình đào tạo. Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu về một số phương
pháp giảng dạy cải tiến giúp sinh viên học tập chủ động (active learning) và trải nghiệm
(experiential learning) để đạt được các mục tiêu môn học và chương trình đào tạo theo CDIO,
cũng như đáp ứng được các yêu cầu của xã hội. Các kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy khả
năng tiếp thu và vận dụng bài học của sinh viên tăng lên khi được học tập chủ động. Trong
phương pháp dạy học cải tiến, người học - đối tượng của hoạt động dạy học đồng thời là chủ thể
của hoạt động học tập - được cuốn hút vào các hoạt động học tập một cách chủ động do giảng
viên tổ chức và hướng dẫn, thông qua đó người học tự lực khám phá những điều mình chưa rõ
chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giảng viên sắp đặt. Được đặt vào những
tình huống của đời sống thực tế, người học được trải nghiệm, được trực tiếp quan sát, thảo luận,
làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, vừa thông qua làm việc cá
nhân, vừa phải làm việc theo nhóm, từ đó đạt được kiến thức mới, kỹ năng mới, phát huy tiềm
năng sáng tạo. Tùy vào mục tiêu của môn học cụ thể, cần đạt mức độ kiến thức hay kỹ năng nào
theo cách tiếp cận CDIO, người giảng viên sẽ tổ chức các hoạt động phù hợp giúp sinh viên học
tập chủ động để đạt được các mục tiêu ấy.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tại sao phải quan tâm phương pháp giảng dạy cải tiến?
Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển tiếp sang nền kinh tế tri thức, vai trò của các trường
ĐH đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Một trong
những thách thức chính yếu mà các trường ĐH phải đối mặt là làm thế nào để đào tạo được sinh
viên đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Một trong những cách tiếp cận để nâng cao chất
lượng và chuẩn hóa chương trình đào tạo ngành kỹ thuật và công nghệ đó là chương trình CDIO
(Conceive – Design – Implement – Operate). Trong đó, việc áp dụng và triển khai phương pháp
tiếp cận CDIO trong chương trình kỹ thuật và công nghệ tại trường đại học đòi hỏi phải có sự
thay đổi và tương tác liên tục, đồng bộ trong 3 yếu tố: các chuẩn đầu ra dự định (Intended
learning outcomes), các hoạt động dạy và học (Teaching and learning activities), đánh giá
(Assessment) (Hình 1) (Edward và cộng sự, 2007).
* E-mail: {nthai I ptphuong I thuy}@hcmuns.edu.vn
Đại học Quốc gia Tp.HCM – Hội thảo CDIO 2010 B-4/1
Hình 1. Mối quan hệ nhất quán giữa chuẩn đầu ra, giảng dạy và học tập, và đánh giá
Như vậy, chúng ta cần phải quan tâm phương pháp giảng dạy cải tiến vì 3 lý do sau:
Thứ nhất, chuẩn đầu ra (learning outcomes) thay đổi thì các hoạt động dạy và học cũng
phải thay đổi phù hợp. Sau khi xây dựng được các chuẩn đầu ra cho chương trình đào tạo cũng
như cho từng môn học cụ thể, câu hỏi đặt ra tiếp theo đối với người giảng viên đó là: “Làm thế
nào để giúp sinh viên chúng ta có thể đạt được các mục tiêu đó?”. Nghĩa là chúng ta cần quan
tâm đến các phương pháp tổ chức việc giảng dạy và học tập (teaching – learning) cho sinh viên
trong suốt chương trình đào tạo cũng như cho từng môn học cụ thể một cách có hiệu quả cao để
có thể đáp ứng được các chuẩn đầu ra mong đợi.
Thứ hai, một trong những đặc trưng của chương trình đào tạo kỹ thuật – công nghệ theo
cách tiếp cận CDIO đó là chương trình đào tạo tích hợp (integrated curriculum) (Hình 2).
Nghĩa là chương trình đào tạo phải có các khóa học kiến thức chuyên ngành hỗ trợ lẫn nhau, có
kế hoạch rõ ràng trong việc tích hợp các kỹ năng cá nhân và tương tác giao tiếp, cũng như kỹ
năng kiến tạo sản phẩm, quy trình và hệ thống (Edward và cộng sự, 2007). Như vậy, để có thể tổ
chức đào tạo theo chương trình tích hợp thì bản thân giảng viên và sinh viên cần được trang bị
các phương pháp giảng dạy và học tập tích hợp (integrated learning) để có thể thích nghi và đạt
được mục tiêu của chương trình mới này.
Hình 2. Các mục tiêu trong chương trình đào tạo tích hợp theo CDIO
B-4/2 Đại học Quốc gia Tp.HCM – Hội thảo CDIO 2010
Thứ ba, đối với các chuẩn đầu ra về mặt kỹ năng, giảng viên cũng cần có những kế hoạch
và phương pháp giảng dạy một cách cụ thể và có mục đích. Ví dụ như yêu cầu sinh viên làm việc
nhóm không có nghĩa là họ sẽ học được kỹ năng làm việc theo nhóm hiệu quả. Các vấn đề như
làm sao để thành lập một nhóm, làm sao lập kế hoạch và phân chia công việc trong nhóm, và làm
sao để giải quyết những mâu thuẫn trong nhóm,… cần phải được giảng dạy một cách rõ ràng.
Học tập hiệu quả chỉ xảy ra khi các hoạt động giảng dạy mang đến những cơ hội cụ thể cho sinh
viên thực hành, phản ánh những trải nghiệm của họ và họ được ứng dụng khái niệm lý thuyết.
Đây là một thách thức rất lớn đối với đa số các giảng viên Việt Nam khi hiện nay vẫn chưa được
tập huấn đầy đủ và thống nhất về các phương pháp giảng dạy mới.
II. GIỚI THIỆU PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY CHỦ ĐỘNG
Phương pháp giảng dạy chủ động là gì?
(Active Teaching) Phương pháp giảng dạy chủ động là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở
nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của người học. "Chủ động" trong phương pháp giảng dạy chủ động được dùng
với nghĩa là hoạt động, tích cực, trái nghĩa với bị động, thụ động. Phương pháp giảng dạy chủ
động hướng tới việc hoạt động hóa, chủ động hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là
tập trung vào phát huy tính chủ động của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính
chủ động của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp chủ động thì giảng viên phải nỗ
lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Điều này cũng cần được thể hiện rõ qua việc thiết kế đề cương chi tiết môn học (syllabus).
Chúng ta không nên quan niệm rằng đề cương chi tiết môn học là bảng liệt kê các nội dung kiến
thức cần được học mà nên hiểu đó là kế hoạch các hoạt động giúp người học đạt được các mục
tiêu. Do vậy, phương pháp dạy và học tập cần được thể hiện rõ trong đề cương. Người giảng viên
phải tạo ra được các cơ hội học tập, thông qua các hoạt động đa dạng, kích thích sinh viên khám
phá, áp dụng, phân tích và đánh giá các ý tưởng hơn là truyền đạt thông tin một chiều. Sinh viên
sẽ có cơ hội được thắc mắc, nêu lên các vấn đề để xoay quanh các khái niệm hay các ý tưởng, từ
đó tiến tới giải quyết các vấn đề. Người học sẽ cảm thấy luôn ý thức được quá trình học của họ,
họ đang học gì và phải học như thế nào. Đây cũng chính là cách nâng cao cho người học cách
xây dựng động cơ học tập và hình thành thói quen học tập suốt đời.
Các nghiên cứu cho thấy sinh viên gần như đạt được các kết quả mong muốn và họ cảm
thấy thỏa mãn với nền giáo dục mà họ nhận được khi họ được học một cách tích cực, được tham
gia chủ động với đa dạng các hoạt động học tập. Học tập chủ động giúp sinh viên có được cách
tiếp cận sâu trong quá trình học. Cách tiếp cận sâu có nghĩa là sinh viên chủ tâm để tìm hiểu các
khái niệm, thay vì đơn thuần chỉ tái thể hiện thông tin trong các bài thi (Edward và cộng sự,
2007).
Một số nghiên cứu của Biggs (2003) cho thấy rằng có mối liên quan chặt chẽ giữa các hoạt
động của người học với hiệu quả học tập. Tỉ lệ tiếp thu kiến thức của người học tăng lên cao khi
được vận dụng đa giác quan vào hoạt động học tập, được sử dụng trong thực tế và đặc biệt nếu
được dạy lại (truyền đạt lại) cho người khác. Giảng dạy chủ động chính là tổ chức các hoạt động
học tập đa dạng và phong phú giúp làm tăng khả năng lĩnh hội kiến thức (Hình 3).
Đại học Quốc gia Tp.HCM – Hội thảo CDIO 2010 B-4/3
Hình 3. Tháp học tập (Learning Pyramid) thể hiện tỉ lệ phần trăm khả năng tiếp thu kiến thức
tương ứng với các hoạt động học tập của sinh viên (theo National Training Laboratories, Bethel,
Maine,
III. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY CHỦ ĐỘNG
Phương pháp giảng dạy chủ động có những đặc điểm gì?
1. Người học là trung tâm
Trong phương pháp dạy học chủ động, người học - đối tượng của hoạt động "dạy", đồng
thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giảng viên tổ
chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ
động tiếp thu những tri thức đã được giảng viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời
sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo
cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kỹ năng mới, vừa nắm được phương pháp
"làm ra" kiến thức, kỹ năng đó, không rập theo những khuôn mâu sẵn có, được bộc lộ và phát
huy tiềm năng sáng tạo. Dạy theo cách này thì giảng viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức
mà còn hướng dẫn hành động.
trọng rèn luyện phương pháp tự học 2. Chú
Phương pháp giảng dạy chủ động xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho sinh viên
không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học. Trong xã
hội hiện đại đang biến đổi nhanh - với sự bùng nổ thông tin, khoa học và công nghệ phát triển
như vũ bão - thì bản thân người thầy cũng không thể thu thập được đầy đủ thông tin và không thể
nhồi nhét vào đầu óc sinh viên khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Vai trò của người thầy
không còn là “người truyền đạt thông tin” nữa. Trái lại, phải quan tâm dạy cho sinh viên phương
pháp tự học từ những môn học đầu tiên của chương trình. Nói như vậy không có nghĩa vai trò của
người Thầy không còn quan trọng mà giờ đây người Thầy sẽ là người hướng dẫn cho người học
đi tìm tri thức. Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho
người học có được phương pháp, kỹ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học,
khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy,
B-4/4 Đại học Quốc gia Tp.HCM – Hội thảo CDIO 2010
3. Phối hợp giữa học tập cá nhân với học tập hợp tác
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của sinh viên không thể đồng đều tuyệt
đối thì khi áp dụng phương pháp chủ động buộc phải chấp nhận sự phân hóa về cường độ, tiến độ
hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập.
Áp dụng phương pháp chủ động ở trình độ càng cao thì sự phân hóa này càng lớn. Tuy nhiên,
trong học tập, không phải mọi tri thức, kỹ năng, thái độ đều được hình thành bằng những hoạt
động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp giảng viên – sinh viên, sinh viên – sinh
viên, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh kiến thức. Thông
qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ,
qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Điều này phù hợp với môi trường thực tế sau
này khi sinh viên đã tốt nghiệp và đi làm, buộc mọi người phải học tập suốt đời, phối hợp giữa
học tập cá nhân và học tập hợp tác.
4. Vai trò của giảng viên trong giảng dạy chủ động: người hướng dẫn, tổ chức hoạt động
Như đã đề cập ở trên, trong giảng dạy chủ động giảng viên không còn đơn thuần đóng vai
trò là người truyền đạt kiến thức mà trở thành người hướng dẫn cho sinh viên trên con đường đi
tìm tri thức. Một cách cụ thể hơn, người thầy còn đóng vai trò thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các
hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để sinh viên tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động
đạt các mục tiêu kiến thức, kỹ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp, sinh viên
hoạt động là chính, giảng viên chỉ là người hướng dẫn. Nhưng trước khi lên lớp, giảng viên phải
đầu tư nhiều thời gian để thiết kế bài giảng sao cho đạt được chuẩn đầu ra theo CDIO; chọn lọc
phương pháp giảng dạy và phương pháp đánh giá phù hợp với mục tiêu và nội dung bài giảng.
Trong quá trình giảng dạy, ngoài giờ lên lớp, người thầy còn phải theo dõi các hoạt động tự học
của sinh viên, giúp đỡ khi cần thiết, trao đổi thảo luận và góp ý để người học đi đúng hướng. Như
vậy, người thầy trong giảng dạy và học tập chủ động cần phải đầu tư công sức và thời gian rất
nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi
mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi
của sinh viên.
Kết hợp đánh giá của giảng viên với tự đánh giá của sinh viên 5.
Trước đây giảng viên giữ độc quyền đánh giá sinh viên, nhưng trong phương pháp chủ
động thì giảng viên phải hướng dẫn sinh viên phát triển kỹ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách
học. Liên quan với điều này, giảng viên cần tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên được tham gia
đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự
thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho sinh viên. Một điểm cần chú ý trong
việc đánh giá đó là phải đánh giá dựa trên quá trình (formative assessment), tránh tập trung đánh
giá vào cuối học kỳ và đa dạng các hoạt động đánh giá để người học có cơ hội thể hiện sự tiến bộ
của mình trong quá trình học.
IV. GIỚI THIỆU MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY CHỦ ĐỘNG
Đại học Quốc gia Tp.HCM – Hội thảo CDIO 2010 B-4/5
Có rất nhiều phương pháp giảng dạy chủ động, trong bài viết này chúng tôi chỉ giới thiệu
tóm tắt một vài phương pháp giảng dạy được sử dụng phổ biến tại các trường đại học tiên tiến.
Chúng tôi tạm phân chia các phương pháp giảng dạy chủ động thành 2 nhóm, tùy theo mức độ
gắn kết với thực tế ít và nhiều: Nhóm phương pháp giúp sinh viên học tập chủ động (Active
Learning) và Nhóm phương pháp giúp sinh viên học tập qua trải nghiệm (Experiential Learning).
1. Một số phương pháp giảng dạy giúp sinh viên học tập chủ động (Active Learning)
1.1. Phương pháp động não (Brainstorming)
Phương Pháp Động Não được định nghĩa là cách thức vận dụng kinh nghiệm và sáng kiến
mỗi người trong thời gian tối thiểu tùy vấn đề đưa ra để có được tối đa những dữ kiện tốt nhất
(Osborn, 1963) . Động não là phương pháp giúp sinh viên trong một thời gian ngắn nảy sinh
được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó, trong đó có nhiều ý tưởng sáng tạo.
Thực hiện phương pháp này, giảng viên cần đưa ra một hệ thống các thông tin làm tiền đề cho
buổi thảo luận. Phương pháp này có thể đáp ứng được chuẩn đầu ra theo đề cương CDIO như: Tư
duy sáng tạo, Giải pháp và đề xuất.
1.2. Phương pháp Suy nghĩ - Từng cặp - Chia sẻ (Think-pair-share):
Phương pháp này được thực hiện bằng cách cho các sinh viên cùng đọc tài liệu hoặc suy
nghĩ về một chủ đề, sau đó các sinh viên ngồi bên cạnh nhau có thể trao đổi với nhau về ý kiến và
kinh nghiệm của mỗi người một khoảng thời gian nhất định (khoảng vài phút), sau đó chia sẻ với
cả lớp (Lyman, 1987). Phương pháp này có ưu điểm là rất dễ dàng thực hiện mọi cấu trúc lớp
học, ai cũng có thể tham gia được vào việc chia sẻ ý kiến của mình, tạo được sự tự tin cho người
học dám nói ra những suy nghĩ của mình (đây là điểm yếu đối với đa số các sinh viên Việt Nam),
giúp các sinh viên tập trung vào chủ đề đang học, biết mình đang học gì và đã hiểu vấn đề đến
đâu, thậm chí nêu lên cả những vấn đề mới cho bài học. Phương pháp này có thể giúp đạt được
chuẩn đầu ra theo đề cương CDIO như: Cấu trúc giao tiếp; Tư duy suy xét, phản biện (critical
thinking).
1.3. Phương pháp học dựa trên vấn đề (Problem based learning)
Mục tiêu của học dựa trên vấn đề (được định nghĩa là việc nghiên cứu có chiều sâu về
một chủ đề học tập) là để học nhiều hơn về một chủ đề chứ không phải là chỉ tìm ra những câu trả
lời đúng cho những câu hỏi được giáo viên đưa ra (Hmelo-Silver, 2004). Trong phương pháp học
dựa trên vấn đề, sinh viên vừa nắm được kiến thức mới, vừa nắm được phương pháp lĩnh hội kiến
thức đó, phát triển tư duy chủ động, sáng tạo, được chuẩn bị một năng lực thích ứng với đời sống
xã hội, phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh (Hmelo-Silver, 2004). Phương
pháp này có thể giúp đạt được chuẩn đầu ra theo đề cương CDIO như: Xác định và hình thành
vấn đề; Đề xuất các giải pháp; Trao đổi, phán xét, cân bằng trong hướng giải quyết.
1.4. Phương pháp hoạt động nhóm (Group based Learning)
Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 5 đến 7 người. Tùy mục đích, yêu cầu của vấn
đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay
đổi trong từng phần của môn học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.
Khi làm việc nhóm, các thành viên phải làm việc theo qui định do giảng viên đặt ra hoặc do chính
nhóm đặt ra. Các thành viên đều phải làm việc chủ động, không thể ỷ lại vào một vài người hiểu
B-4/6 Đại học Quốc gia Tp.HCM – Hội thảo CDIO 2010
biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong
không khí thi đua với các nhóm khác. Khi có một nhóm nào lên thuyết trình, các nhóm còn lại
phải đặt ra các câu hỏi phản biện hoặc câu hỏi đề nghị làm sáng tỏ vấn đề. Phương pháp hoạt
động nhóm giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ các băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân,
cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có thể
nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài
học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp nhận thụ động từ giảng viên.
Phương pháp này có thể giúp đạt được chuẩn đầu ra theo đề cương CDIO như: Kỹ năng làm việc
theo nhóm, kỹ năng giao tiếp.
1.5. Phương pháp đóng vai (Role playing)
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho sinh viên thực hành một số cách ứng xử nào đó
trong một tình huống giả định. Phương pháp đóng vai có những ưu điểm: sinh viên được rèn
luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực
hành trong thực tiễn; gây hứng thú và chú ý cho sinh viên; tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo
của sinh viên, khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của sinh viên theo chuẩn mực hành vi đạo đức
và chính trị – xã hội, có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai
diễn (Kritzerow, 1990). Phương pháp này có thể giúp đạt được chuẩn đầu ra theo đề cương CDIO
như: Tư duy suy xét, phản biện (critical thinking); nhận biết về kiến thức, kỹ năng và thái độ cá
nhận của bản thân
2. Một số phương pháp giảng dạy giúp học tập qua trải nghiệm (Experiential
Learning):
Học tập qua trải nghiệm được định nghĩa là quá trình học của sinh viên được trải qua những
việc làm mô phỏng thực tế, có tính thực hành và vận dụng cao, như các đồ án thiết kế - triển khai,
các tình huống nghiên cứu, từ đó sinh viên đúc kết thành những kinh nghiệm cho bản thân, làm
sáng tỏ hơn cho các lý thuyết được học (Edward và cộng sự, 2007). Theo Kolb (1981) các quá
trình học tập có thể được chia thành 4 nhóm cơ bản, phù hợp với 4 xu hướng học tập (kiểu học)
khác nhau: (1) Quan sát suy ngẫm: học tập thông qua quan sát các hoạt động do người khác thực
hiện hoặc chiêm nghiệm lại bản thân, suy ngẫm và đúc kết những trải nghiệm; (2) Khái niệm hóa:
học tập thông qua việc xây dựng các khái niệm, tổng hợp, biện giải và phân tích những gì quan
sát được; (3) Trải nghiệm thực tế: học tập thông qua các hoạt động, hành vi, thao tác cụ thể, trực
tiếp; (4) Thử nghiệm: học tập thông qua những thử nghiệm, đề xuất các phương án giải quyết vấn
đề và đưa ra quyết định.
Trong thực tiễn diễn ra quá trình học tập, mỗi người học sẽ vận dụng các quá trình này
theo các cách khác nhau, ở những mức độ không đồng đều tùy thuộc vào các đặc điểm tâm sinh
lý, trình độ, năng lực nhận thức và kinh nghiệm xã hội. Thông thường trong cách dạy truyền
thống, giảng viên thường bắt đầu bài giảng từ các khái niệm có tính khái quát hoặc trừu tượng
trước khi cho sinh viên được thực hành và làm các hoạt động thực tế. Tuy nhiên đối với cách tiếp
cận theo giảng dạy chủ động thì hoạt động trải nghiệm được xem là hoạt động đầu tiên trong quá
trình học tập. Mô hình học tập qua trải nghiệm theo CDIO được minh họa như trong Hình 4.
Đại học Quốc gia Tp.HCM – Hội thảo CDIO 2010 B-4/7
Hình 4. Mô hình học tập qua trải nghiệm (chỉnh sửa từ Kolb, 1984)
Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu sơ nét một số phương pháp giảng dạy giúp học tập qua
trải nghiệm.
2.1. Học dựa vào dự án (Project based Learning)
Phương pháp học dựa vào dự án là tổ chức việc dạy và học thông qua các dự án hay công
trình thực tế. Dự án ở đây được hiểu là những nhiệm vụ phức tạp từ các câu hỏi hay vấn đề mang
tính chất kích thích người học tìm hiểu, khám phá (Jones và cộng sự, 1996). Giải pháp đó có thể
bao gồm các trải nghiệm thiết kế - triển khai. Từ đây người học sẽ tham gia vào thiết kế, đưa ra
quyết định hay khảo sát các hoạt động có liên quan đến dự án. Với phương pháp học này, người
học sẽ phải làm việc theo nhóm và khám phá những vấn đề gắn liền với cuộc sống, sau đó sẽ
thuyết trình trước lớp và chia sẻ những gì họ đã làm được trong dự án của mình. Trong buổi
thuyết trình có thể sử dụng các phương tiện nghe nhìn, một vở kịch, một bản báo cáo viết tay,
một trang web hoặc một sản phẩm được tạo ra. Theo Bransford và Stein (1993), phương pháp
học dựa trên dự án chú trọng tới những hoạt động học có tính chất lâu dài và liên ngành
(interdisciplinary) và thường gắn với những vấn đề nảy sinh từ đời sống hiện tại. Bên cạnh đó,
phương pháp học dựa trên dự án còn tạo ra những cơ hội nhằm giúp người học theo đuổi được
những sở thích của mình, và tự mình đưa ra quyết định về câu trả lời hay tìm ra giải pháp cho các
vấn đề trình bày trong dự án. Phương pháp này có thể giúp đạt được chuẩn đầu ra theo đề cương
CDIO như: Lập giả thiết; Kỹ năng thiết kế - triển khai; Kỹ năng giao tiếp bằng viết; Kỹ năng
thuyết trình.
2.2. Mô phỏng (Simulations)
Mô phỏng, thường được dùng trong nghiên cứu khoa học, là quá trình phát triển mô hình
hoá rồi mô phỏng một đối tượng cần nghiên cứu. Thay cho việc phải nghiên cứu đối tượng cụ thể
mà nhiều khi là không thể hoặc rất tốn kém tiền của, chúng ta xây dựng những mô hình hoá của
đối tượng đó trong phòng thí nghiệm và tiến hành nghiên cứu đối tượng đó dựa trên mô hình hoá
này. Kết quả rút ra được phải có kiểm chứng với kết quả đo đạc thực tế. Đa số các mô phỏng đều
dựa trên phần cứng và phần mềm máy tính. Dựa trên những kết quả thu được sau quá trình mô
phỏng, ta có thể rút ra hướng đi tiếp cho nghiên cứu và sản xuất về sau. Mô phỏng trong dạy học
B-4/8 Đại học Quốc gia Tp.HCM – Hội thảo CDIO 2010
là trường hợp riêng của mô phỏng trong nghiên cứu khoa học. Do đó ta có thể định nghĩa mô
phỏng trong dạy học cũng là một dạng mô phỏng nghiên cứu khoa học trong đó bao gồm cả “xử
lý sư phạm” và “tổ chức hoạt động dạy học” nằm xen kẽ nhau (Hình 5) (Ngô Tứ Thành, 2008).
Hình 5. Cấu trúc phương pháp mô phỏng trong dạy học
Phương pháp này có thể giúp đạt được chuẩn đầu ra theo đề cương CDIO như: Kỹ năng
mô hình hóa; Kỹ năng thử nghiệm khảo sát; Giao tiếp đồ họa.
2.3. Nghiên cứu tình huống (Case studies)
Mặc dù nghiên cứu tình huống đã được sử dụng nhiều trong giáo dục luật, thương mại và
y học nhưng chúng cũng phù hợp không kém cho lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ. Yếu tố cấu
thành chủ yếu của phương pháp đào tạo mới này dựa trên các tình huống thực tế của cả học viên
và giảng viên. Mục đích chính của các tình huống là để miêu tả, trao đổi kinh nghiệm về cách
thức giải quyết vấn đề và những mâu thuẫn trong khi thực hiện công việc được giao. Bằng những
tình huống khác nhau cần phải giải quyết trong khoảng thời gian định sẵn cùng nguồn lực có hạn,
người học được đặt vào vị trí cần phải đưa ra quyết định hoặc kêu gọi sự hỗ trợ của các thành
viên cùng nhóm để tìm hướng giải quyết hợp lý. Sự đa dạng của các tình huống được đưa lên
không chỉ khuyến khích người học phát huy tính chủ động, óc sáng tạo mà còn đem đến sự thoải
mái, sảng khoái về mặt tinh thần khi tham dự lớp. Yếu tố này làm người học có thể tiếp thu nội
dung kiến thức bài giảng dễ dàng, sâu và nhớ lâu hơn các phương pháp giảng dạy truyền thống
(Scholz và Olaf, 2002). Phương pháp này có thể giúp đạt được chuẩn đầu ra theo đề cương CDIO
như: Đề ra các giải pháp; Ước lượng và phân tích định tính.
2.4. Phương pháp học tập phục vụ cộng đồng (Service Learning)
Học tập phục vụ cộng đồng (tên tiếng Anh là Service Learning hoặc Community- based
learning) đã có từ năm những năm 1960 tại Mỹ (Jacoby,1996). Service-Learning (SL) là một
phương pháp dạy và học mà thông qua đó ngư
File đính kèm:
- GT Một số PP dạy học cải tiến.pdf